BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng
12 LỤC ĐỘ BA LA MẬT (SÁU PHÁP BA LA MẬT)Khi nói đến
Lục độ tức là nói đến
Bồ tát đạo. Mà muốn
đi vào Bồ tát đạo trước hết
chúng sinh phải
phát Bồ-đề tâm, có nghĩa là
phát nguyện để cầu
Phật quả viên mãn ngỏ hầu
giải thoát cho mình tức là tự độ và sau đó mới
lợi lạc cho
chúng sinh tức là
độ tha.
Bồ đề tâm đòi hỏi sự
thực hành và phát triển tâm Xả, Từ và Bi để
chống lại với Tham, Sân và Si. Tại sao?
Tâm Xả là
tâm bình đẳng vì
chúng sinh ai ai cũng đều có
Phật tính như nhau. Cái
Phật tính thanh tịnh nầy bị
vô minh che lấp cho nên Tham-Sân-Si
phát khởi mà tạo ra
phiền não, khổ đau. Vì thế nếu có tâm Xả tức là không
phân biệt người thân kẻ sơ thì
tâm Từ, có nghĩa là lòng
thương yêu mới phát triển để mang lại
hạnh phúc cho
con người. Một khi đặt mình vào
hoàn cảnh của người khác thì
chúng ta mới
thông cảm được tâm trạng của họ và đây là
yếu tố để phát triển
tâm Bi tức là
lòng bi mẫn thương xót muốn cứu giúp
chúng sinh thoát khỏi cảnh khổ.
Bồ tát hạnh là độ cho
chúng sinh bớt khổ nhưng muốn
độ người thì trước nhất phải biết độ mình.
Ngày xưa chính
Đức Phật đã
dày công tu hành mới
trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trước khi Ngài độ cho
chúng sinh. Như thế sống trong
thế gian thì
chúng ta lấy
chúng sinh làm đối tượng để
tu hành vì
chúng ta cũng là
chúng sinh, có nghĩa là
chúng ta cũng còn
đau khổ và ai ai cũng mong cầu
hạnh phúc.
Thêm nữa tất cả
chúng sinh trong
thế gian nầy dựa theo luật
Duyên khởi đều có sự tương quan
với nhau dù trực tiếp hay
gián tiếp để nương tựa vào nhau mà
sinh tồn. Vì thế Phật dạy rằng:
“Thế gian nầy chẳng nên
tranh đấu với nhau bởi vì
mọi người đều là
một thể nhưng
xưa nay con người vốn không
phân biệt được
nhân ngã mà thôi. Tất cả các pháp đều do
nhân duyên hòa hợp mà sanh ra, chẳng có vật nào
độc lập mà
tồn tại. Mình và
vạn vật đã nương nhau để sống còn thì việc ban bố lòng thương và
ân huệ cho
chúng sinh khi mới nhìn thì giống như vì người nhưng thật ra đối với chính mình thì
lợi ích còn lớn hơn”.
Nói
tóm lại lục độ hay
lục độ ba-la-mật là một
phương pháp để độ mình và
độ người. Sáu hạnh ba-la-mật
gồm có:
Ø
Bố thí tức là cho để trừ lòng tham.
Ø
Trì giới tức là
giữ giới để trừ
ô nhiễm.
Ø
Nhẫn nhục tức là nhường nhịn để trừ giận hờn.
Ø
Tinh tấn tức là
sốt sắng để trừ lười biếng.
Ø
Thiền định tức là
chuyên chú để trừ
loạn tâm.
Ø
Trí tuệ tức là
sáng suốt để trừ
si mê.
Trong sáu hạnh ba-la-mật trên thì
Bố thí,
Trì giới và
Nhẫn nhục là
tu Phước còn
Thiền định và
Trí tuệ chính là
tu Huệ.
Ba-la-mật có nghĩa là toàn hảo hay
vượt qua bờ bên kia tức là vượt từ bờ Mê qua bến Giác hay chuyển từ
Vô minh đến
Niết bàn. Nếu
áp dụng năm hạnh bố thì,
trì giới,
nhẫn nhục tinh tấn và
thiền định mà không có sự
hiện diện của
trí tuệ, tức là Huệ thì tất cả
việc làm đó đều nằm trong
tục đế có nghĩa là chỉ tạo phước
thế gian mà thôi. Nó không đúng
ý nghĩa của
Bồ tát đạo và hạnh Ba-la-mật vì
thế trí tuệ sẽ không được phát triển.
1)
Bố thí:
Bố thí có ba loại:
tài thí là đem
của cải, tiền bạc,
vật chất của mình ra cho.
Pháp thí là đem những
chân lý của Phật để khuyên bảo người khác, tức là hướng dẫn
tâm linh.
Vô úy thí là đem niềm an vui làm cho kẻ khác hết lo sợ.
Đạo Phật là
đạo từ bi. Chính
Đức Phật vì
từ bi mà
xuất gia để tìm đạo
cứu khổ cho
chúng sinh.
Vì vậy người
Phật tử, khi noi
theo dấu chân Phật, cũng lấy
từ bi làm động tác chính cho sự
tu hành của mình. Mà
phương pháp mầu nhiệm nhất là
bố thí ba-la-mật.
Bố thí là việc mang lại
lợi ích và
hạnh phúc cho
con người, nhưng nếu xét kỹ theo
luật nhân quả thì trên đời nầy không có cái gì mà
tự nhiên có và mất mà không có
nguyên nhân của nó. Nói một cách khác dựa theo
luật nhân quả thì người nhận là người phải có phước vì khi nhận là họ nhận lấy cái quả
dựa trên cái nhân lành mà họ đã tạo ra
trong đời quá khứ.
Nếu không có cái phước nầy thì họ không thể nhận được quà
bố thí của người cho. Như thế thì người nhận chỉ nhận lãnh lại cái phước mà họ đã từng gieo và người
bố thí là họ đang tạo phước cho mình sau nầy. Thế thì
bố thí là một tiến trình của người cho và kẻ nhận chứ thật sự không có việc
bố thí gì cả.
Chủ đích của bố thí không phải là để
cải thiện thế gian hay là dẹp sạch nạn
nghèo đói mà là để cho
chúng sinh có cơ hội
thực hành Bồ tát đạo.
Bồ tát luôn luôn
thực hành tâm xả để
sẳn sàng buông bỏ những gì đang có từ
tài sản,
vật chất cho đến thân thể, luôn cả
công đức vì
hồi hướng là cách
bố thí công đức. Vì thế
tuệ giác Kim Cang mới có câu:
Bố thí vô tướng và
Độ sanh vô ngã.
Thật vậy khi
bố thí thì phải phá trừ
chấp ngã,
chấp pháp. Ý Phật muốn nói là khi
bố thí không nên chấp mình là người
bố thí ban ơn, tức là
chấp ngã, còn người nhận là kẻ chịu ơn, tức là chấp nhơn và tiền tài
vật chất là vật
bố thí tức là
chấp pháp thì
tâm không sanh các
phiền não ô nhiễm. Vì thế khi
bố thí mà không khởi
vọng tâm,
chấp ngã,
chấp pháp thì các
phiền não Tham-Sân-Si không sanh. Mà
phiền não không sanh thì
con người sẽ không tạo nghiệp tức là chặt đứt dây
luân hồi. Đây mới là
bố thí ba-la-mật
chân thật. Thêm nữa, nếu sống với
tuệ giác Bát nhã thì phải coi tất cả
mọi người như nhau có nghĩa là ai khổ thì giúp, ai mê thì giúp họ
thức tỉnh mà
tâm không mong cầu đền đáp nên
việc làm được
viên mãn. Còn nếu
chúng ta chưa sống được với
trí tuệ Bát nhã tuy có làm nhiều
Phật sự hay
Bố thí cùng khắp
dựa trên hình tướng thì sẽ có lúc không sao
tránh khỏi sự
thiên chấp thân, sơ, thương, ghét…cho nên việc
bố thí sẽ không được
viên mãn.
Ngoài việc
bố thí để giảm trừ tâm
tham lam,
bỏn xẻn mà đây chính là cơ hội để
con người tạo phước và bồi đắp
công đức vị tha cho mình. Song song với việc tạo phước,
bố thí giúp
chúng sinh phát triển
trí tuệ bằng cách chú ý
quan sát cái tâm, thiện hay
bất thiện, trước khi
bố thí, trong khi
bố thí và sau khi
bố thí. Đây là cách
tư duy quán chiếu để xét lại tâm thật của mình có thay đổi khi
bố thí hay không? Đó là trước khi
bố thí chúng ta có so đi tính lại hay không? Khi
bố thí có cầu mong đền đáp hay không? Và sau khi
bố thí có
hối hận hay không? Nếu
chúng sanh thực hành đúng đắn câu
bố thí vô tướng và
độ sanh vô ngã thì chính họ đã tự tạo cho mình bao nhiêu nhân lành
mãi mãi về sau. Vì thế
Bố thí vừa độ cho người mà vừa độ cho mình và nó có
công năng đưa mình và người từ bờ
mê lầm đến bờ
giác ngộ.
Có một kiếp nọ,
Đức Phật thấy trên núi có một con cọp mẹ đang cõng một con cọp con đi kiếm ăn. Nhân vì trời tuyết lớn, không kiêm được mồi nên cọp mẹ lẫn cọp con đói quá cơ hồ sống không nổi.
Đức Phật thấy vậy, không ngăn nổi lòng
thương xót, nên tự nguyện đem thân mình
bố thí cho cọp được no lòng. Trong loài
dã thú, cọp là loài hung dữ nhất,
vậy mà khi thấy cảnh cọp đói
Đức Phật cầm lòng không được liền
phát tâm bố thí bèn chạy đến trước miệng cọp để cho cọp đói vồ
ăn thịt của mình.
Cũng trong
một đời quá khứ khác có một con chim ưng tính bắt một con chim nhỏ. Chim nhỏ thấy
Đức Phật bèn sa vào lòng
cầu cứu mạng.
Lúc ấy chim ưng bay đến nói với Phật:”Ông cứu nó, tức làm cho tôi
chết đói. Nếu cứu một
chúng sinh lại
hóa thành giết hại một
chúng sinh khác thì làm sao mà gọi là
lòng từ bi được? “
Đức Phật nghe nói như vậy liến cắt thịt của mình cho chim ưng ăn. Nhưng khi ăn một miếng thịt chưa đủ no, nó lại muống ăn thêm thì
Đức Phật đành bảo nó:” Thôi thì ngươi cứ ăn hết thịt trên thân của ta đi”. Chim ưng bèn chẳng khách sáo, mổ ăn hết thịt trên mình của Phật.
Trên đường cầu
Phật đạo,
Đức Phật đã có tấm lòng
bố thí rộng lớn như vậy nên Ngài mới
thành Phật. Còn
chúng ta ngày nay tuy có
bố thí chút ít mà tâm gan đã thấy xót xa bởi vì tâm
vị kỷ lúc nào
kiềm chế tấm
lòng vị tha,
quảng đại.
2)
Trì giới: là
cảnh giác, ngăn chận và xả bỏ những
hành vi bất thiện từ Thân-Khẩu-Ý.
Ngoài việc tránh
hành hung và sĩ nhục kẻ khác qua thân và khẩu thì người
trì giới cũng không khơi động làm
sinh khởi tâm thù hận của họ. Đó là mang lại sự
vô úy và
an lạc cho kẻ khác.
Con người vì muốn
bám víu vào
thân thể và
bảo vệ cái
bản ngã của mình nên phát sinh tâm Tham-Sân-Si. Tuy
ý tưởng Tham-Sân-Si vừa mới tác tạo trong tâm tức là chưa làm gì ai mà theo
trì giới thì
chúng ta đã
phạm luật rồi. Vì thế
trì giới chân chính là phải bỏ cho được cái Ta.
Chúng ta không nên
trì giới chấp tướng vì nó chỉ có
hình thức bên ngoài, còn bên trong chất đầy
ô nhiễm. Chẳng hạn như
trì giới vì háo thắng để được người đời khen ngợi.
Trì giới với một
tâm lý tự cao tự đại là cho mình hơn người và khinh dễ người
phạm giới. Chẳng hạn có hai thầy tu trẻ đi trên một
con đường đất lầy lội trơn trợt tới một cây cầu gỗ hẹp bắc qua một dòng suối, trong khi trời mưa tầm tả. Ở đầu cầu có một cô gái trẻ đẹp đang muốn qua cầu mà không dám đi vì sợ ngã. Thấy vậy, một trong hai ông mới bế bổng cô ta lên và đi qua cầu.
Ông thứ nhì không nói gì
cho đến tối hôm đó khi hai người đã về tới chùa. Lúc đó ông nầy không
dằn lòng được nữa mới hỏi:
- Mình là kẻ
tu hành không được
tới gần đàn
bà con gái, nhất là mấy cô trẻ đẹp. Tại sao đệ lại
vi phạm giới cấm như vậy?
Người thứ nhì
trả lời:
- Đệ đã bỏ cô ta ở lại bên dòng suối rồi, sao huynh còn
cưu mang cô ấy về đây làm chi nữa?
Người
Phật tử nên
trì giới không chấp tướng tức là vẹn toàn các điều răn cấm mà
Đức Phật đã chỉ dạy. Không vì
danh lợi, không vì háo thắng và không bị
hoàn cảnh ép buộc mà làm. Những
thái độ,
oai nghi,
hành vi và
cử chỉ thiếu
kiểm soát của mình cũng có thể gây ra sự
phiền lòng,
bực bội cho kẻ khác. Vì thế không phải chỉ là giữ
năm giới luật
căn bản là đủ mà
thái độ hòa ái và sự
quan tâm đối với những người
xung quanh cũng là một
hình thức trì giới vậy.
Giáo lý của
Đức Phật cũng xác định một cách
rõ ràng là
giới hạnh là dấu hiệu của sự
chứng đắc tâm thức chân thật. Vì sự
trì giới luật
trang nghiêm,
thanh tịnh sẽ mang lại sự an vui
tự tại và tâm hằng
an tịnh không còn
lo lắng sợ hãi. Nên nhớ
trì giới có
công năng vượt xa
bố thí vì nếu người có
tài thí,
pháp thí mà không có
trì giới thì không bao giờ
hoàn thành Phật đạo viên mãn được bởi vì người đó vừa tạo phước mà cũng vừa tạo nghiệp. Có nghiệp là còn
luân hồi sanh tử.
Ngày xưa vị
Thiên Long tên là Bhuridatta có rất nhiều quyền phép. Nhân vào ngày
thọ giới,
Thiên Long cũng
phát nguyện thọ tám giới. Một người bắt rắn thấy ông nằm bên một ổ kiến lớn với hình thù to lớn và đẹp gần giống như rắn thì người đó bắt giữ và
hành hạ ông.
Mặc dầu có rất nhiều
thần thông có thể biến kẻ
hành hạ ông thành tro bụi nhưng ông đã nhận chịu tất cả sự
đau đớn và
quyết tâm giữ giới thanh tịnh. Vị
Long Vương Bhuridatta ấy chính là
tiền thân của Phật
Thích Ca đã
viên mãn tu tập giới ba-la-mật vậy.
Trong
tam vô lậu học thì Giới là
bước đầu tiên và chính là
nền móng để giúp
chúng sinh đến chỗ
giải thoát giác ngộ.
Nếu không có giới thì
vĩnh viễn sẽ không vào định được vì
tâm không an và từ đó
trí tuệ không bao giờ phát sinh để thấy tường tận
thật tướng của
vạn vật trong
vũ trụ nầy.
3)
Nhẫn nhục: Đây là đức tính
tốt đẹp được
tán thán nhiều nhất trong hầu hết các kinh sách
Phật giáo.
Con người có sự
bất mãn hay
sung sướng là do sự
đánh giá sự vật qua cái nhìn
sai lầm mà cái Ta là chủ động chính. Thiếu
kiên nhẫn và kém
chịu đựng chính là do tâm Sân mà ra. Khi
chúng sinh thấu hiểu
luật nhân quả và lý
duyên khởi thì họ sẽ tránh gây ra nghiệp cho mình khi
nghịch cảnh đến. Nếu hành xử theo luật
con người là lấy oán báo oán thì
hận thù càng ngày càng
chồng chất biết đến bao giờ. Khi tu hạnh
nhẫn nhục là tránh gây tạo nghiệp cho mình thì
chúng sinh mặc dù không
trả thù báo oán mà vẫn
an nhiên tự tại vì
luật nhân quả sẽ trói chặt kẻ đó rồi đâu cần họ phải ra tay. Do đó muốn
thực hành hạnh
nhẫn nhục cho hữu hiệu
chúng sinh cần
cảnh giác để
nhận biết sự
phản ứng sinh khởi của mình khi
đối diện với cảnh trái ý nghịch lòng. Đối với:
*Thân nhẫn:
Con người khi
đối diện với nắng mưa,
đói khát, đau ốm bệnh tật hoặc bị người đánh đập
hành hạ mà vẫn
cam chịu, không
phàn nàn hay chống
cự lại tức là tu theo
thân nhẫn.
*Khẩu nhẫn: Cho dù thân đã nhẫn không
chống lại người khi bị
hành hạ đánh đập và trước những lời nhục mạ
mắng nhiếc chua cay mà miệng cũng không thốt ra những
lời nguyền rủa độc ác thì đây chính là tu theo
khẩu nhẫn.
*Ý nhẫn: Cái khó và quan trọng nhất là
tu nhẫn trong tâm. Khi
tâm hồn không còn
căm hờn,
oán hận thì tâm sẽ
trong sáng và
an nhiên tự tại để
loại bỏ đi những
tư tưởng hắc ám khiến
con người tạo nghiệp. Vì thế
kinh Hoa Nghiêm có câu:”Nhất niệm
sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai” tức là một niệm
sân hận nổi lên thì trăm ngàn cửa
nghiệp chướng đều mở ra.
Trong ba thứ nhẫn nầy thì
ý nhẫn là khó
thực hành nhất bởi vì đôi khi thân có thể
chịu đựng được
cực hình, nhưng miệng vẫn lẩm bẩm
lời nguyền rủa. Mà miệng có nói cũng là do
tư tưởng chuyển đến mà thôi. Có người tuy miệng không thốt ra
lời nguyền rủa nhưng tâm thì tức giận bừng cháy cả tim gan. Thế thì
con người muốn
kiềm chế để tu theo hạnh
nhẫn nhục viên mãn thì phải
kiềm chế tư tưởng được trong lành. Có như thế thì
ý nhẫn mới
kiềm chế khẩu nhẫn và sau cùng họ mới
thành công với
thân nhẫn. Vì ý là nhân mà thân, khẩu là quả của nó. Thêm nữa người tu theo hạnh
nhẫn nhục sẽ có đủ
trí tuệ để
áp dụng Từ-Bi-Hỷ-Xả vào trong cuộc sống.
Chính trí tuệ nầy sẽ
đối trị và làm
tiêu tan sự
bất mãn và tâm
sân hận.
Ngày xưa Đức Phật đã
trải qua biết bao
chông gai cực khổ trước khi Ngài
chứng quả Bồ-đề.
Nếu không tu theo hạnh
nhẫn nhục thì làm sao Ngài
chứng đắc được?
Thời gian tu hành đối với
phàm nhân để
viên thành Phật đạo kéo dai gần như là
vô tận vì thế
nếu không có đức tính
kiên nhẫn phi thường thì không thể nào
thành công được. Các vị
Bồ tát tu hạnh
nhẫn nhục để tâm không bị
phiền nhiễu bởi những bất trắc xảy ra trong
cuộc đời. Các Ngài không
phiền hà khi người khác nói những lời thô lổ,
nói dối hay
mắng nhiếc nhục mạ họ. Thậm chí
Bồ tát vẫn
kiên trì chịu đựng khi
thân thể bị
hành hạ, bị
tra tấn và ngay cả đến cái chết các Ngài vẫn
an nhiên tự tại.
Năm xưa, khi Phật còn trong
thời kỳ tu tiên, Ngài đã từng làm một vị tiên
nhẫn nhục ở trong rừng núi không xa thành của vua
Ca Lợi là bao nhiêu. Một hôm, vua
Ca Lợi đi săn ngoài thành,
đem theo quân lính cùng
văn võ bá quan cũng như một số
cung phi,
cung nga và thể nữ theo hầu. Khu vực săn bắn rất rộng lớn, vua
Ca Lợi đi sâu vào núi để lùng kiếm các loài hươu nai hay hổ báo…nhưng số cung tần thì nhát gan không dám
đi theo sát nhà vua. Từ xa đám
cung phi thấy một người trẻ tuổi trong rừng nên động tính
hiếu kỳ. Khi đến tận nơi thì họ thấy một vị thanh niên tóc dài, áo quần lam lũ và đây chỉ là một người
tu đạo. Tiên
nhẫn nhục bèn giảng
Phật pháp cho họ nghe:
- Này các cô nương! Người
đời xưa nay đều ưa cầu khoái lạc, nhưng khoái lạc cũng có thứ
chân thật, thứ
giả dối, có cái
lâu dài và cũng có cái tạm bợ. Nhưng phần lớn
mọi người đều bị
mê hoặc bởi thứ khoái lạc
hư giả và ngắn ngủi. Giống như đóa hoa nầy tuy
hiện tại thật đẹp, nhưng không
vĩnh viễn nở hoa và tỏa hương.
Tuổi trẻ,
sức khỏe, sắc đẹp cũng sẽ phai tàn theo năm tháng. Người cao quý là ở chỗ biết
học đạo, mong được thăng hoa
sinh mệnh, được kéo dài sự sống. Đó mới là việc khẩn yếu.
Khi ấy vua
Ca Lợi chợt đến và nhà vua
cất tiếng hỏi:
- Ngươi làm gì ở đây?
- Tôi là người
tu đạo.
-
Tu đạo thì đã
chứng quả A-la-hán chưa?
- Chưa
chứng quả A-la-hán.
- Vậy đã
chứng quả Tu đà hoàn hay A-na-hàm chưa?
- Tôi chưa chứng được.
Vua
Ca Lợi nói :
- Trong
thế gian nầy có một số
tiên nhân, hít thở khí trời và ăn trái cây để sống, nhưng họ vẫn còn
lòng dục về tham và về dâm. Còn ngươi trẻ tuổi như thế, lại chưa
chứng quả, vậy ngươi còn lòng
dâm dục chăng?
- Tôi cũng chưa đoạn hết được.
- Ngươi chưa đoạn hết được lòng
dâm dục, vậy khi trông thấy các
phụ nữ này thì ngươi làm sao nhẫn được?
- Tuy tôi chưa đoạn được dâm, nhưng tôi không hề
khởi tâm dâm. Tôi quán mọi sự đều
vô thường và
tu tập quán sát chín loại
bất tịnh.
- Ngươi nói
tu quán chín loại
bất tịnh, đó chỉ là điều lừa dối, vậy có bằng cớ gì
chứng tỏ ngươi không hề
khởi tâm dâm?
- Tôi có thể nhẫn không
khởi tâm dâm. Cái gì tôi cũng có thể nhẫn nhịn được.
- Tốt lắm! Để ta xẻo cái tai của ngươi coi thử ra sao?
Nói rồi, vua
Ca Lợi rút kiếm ra cắt đứt tai của tiên
nhẫn nhục. Các
quan văn võ trông thấy vua
Ca Lợi cắt tai của tiên
nhẫn nhục mà người nầy không tỏ chút gì
đau khổ cả nên tâu rằng:
-
Đại vương nên dừng tay. Người này chính là một vị
đại sĩ, là một
Bồ tát.
Đại vương không nên cắt thêm nữa.
- Các ông làm sao biết người này là Bồ tát?
- Khi
Đại vương cắt tai y mà sắc mặt ông ta vẫn không
biến đổi như chẳng có chuyện gì xảy ra.
- Làm sao biết hắn ta không đau đớn? Biết đâu lòng hắn ta rất căm hận ta, ta thử lần nữa xem sao?
Nói xong, vua
Ca Lợi vung kiếm cắt luôn mũi của tiên
nhẫn nhục và nói:
- Ngươi có căm hận không?
- Tôi không căm hận.
- Ngươi vẫn chưa chịu
nói thật à! Để coi ngươi có thật sự nhẫn được chăng, nay ta chặt thêm tay của ngươi thì thử coi lúc đó ngươi có tâm
sân hận không?
Tiên
nhẫn nhục đáp:
- Không có.
- Ngươi vẫn nói là không có tâm
sân hận, ta không tin. Ta không thể tin rằng trong
thế gian nầy lại có kẻ bị người ta xẻo tai, cắt mũi, chặt cả hai tay mà lòng không
sân hận. Đó là điều kỳ quái.
Nói xong vua
Ca Lợi chặt chân của tiên
nhẫn nhục rồi hỏi:
- Ngươi vẫn chẳng
sân hận sao?
- Không
sân hận.
Vua chặt nốt chân kia. Vậy là hai chân, hai tay, hai tai và mũi đều bị cắt. Vua lại hỏi tiếp:
- Bây giờ, ngươi có
sân hận hay không?
Vị thanh niên vẫn một mực
trả lời:
- Không
sân hận.
Lúc bấy giờ trên tầng trời, các vị
Tứ Đại Thiên Vương cả giận bảo rằng:
- Vua
Ca Lợi này thật là không phải. Vị nầy là người
tu hành mà người
xem thường một cách
quá đáng.
Chúng ta là
hộ pháp nên phải
trừng phạt ngươi.
Sau đó các vị trời cho mưa đá xuống, rồi nổi gió làm cát đá bay mù mịt.
Vua
Ca Lợi thấy vậy rất
sợ hãi, biết là
tai họa sắp đến liền đến trước vị
tu hành năn nỉ rằng:
- Bây giờ tôi đã biết lầm lỗi, trời đã
trừng phạt tôi, xin ông đừng sanh lòng
oán hận tôi.
- Tôi không tức giận và cũng không
sân hận ông đâu.
Vua
Ca Lợi không tin thì
tiên nhân nói:
- Đây là bằng chứng. Nếu thật tâm tôi không
sân hận ông thì tay chân, tai, mũi tôi
lập tức khôi phục lại như xưa.
Nói xong quả nhiên vua thấy tay, chân, tai, mũi của tiên mọc ra như cũ. Tiên nói:
- Đến khi nào tôi
thành Phật, thì ông sẽ là người đầu tiên tôi độ cho
thành đạo nghiệp.
Bởi vậy, sau khi Đức
Thích Ca thành Phật thì Ngài đến
vườn Lộc Uyển của xứ
Ba la Nại để độ đầu tiên cho
tôn giả Kiều Trần Như tức là vua
Ca Lợi trong kiếp xa xưa.
Tại sao khi
thân thể bị chặt đứt từng mảnh mà
tiên nhân không sanh tâm sân hận?
Đức Phật trả lời:
- “Trong lúc bị vua
Ca Lợi cắt xẻo tai, cắt thịt ra từng mảnh thì Ta không có tướng Ngã, tướng Nhân, tướng
Chúng sinh và tướng Thọ giả”
Tại sao? Bởi vì nếu còn cái Ngã thì thấy thân nầy là thật, là của Ta nên muốn
bảo vệ giữ lấy cho nên nếu ai
xâm phạm nó thì
chắc chắn sẽ sanh lòng
sân hận. Lúc đó, vì không còn Ngã cho nên Ta không hề khởi lòng
sân hận. Vì không có Ngã, không có Nhân, không có
Chúng sinh và
Thọ giả nên đối với Ta tất cả là
không thật. Nếu là
không thật thì
sống chết có gì phải sợ cho nên Ta không
phát tâm sân hận là vậy”.
Trong
Phật giáo, khi
con người nhẫn nhục để được
quyền cao chức trọng, mong cầu được người khen hay
nhẫn nhục để tìm cơ hội
trả thù thì đây là sự
nhẫn nhục do
dục vọng Tham-Sân-Si
thúc đẩy chớ không phải là
nhẫn nhục ba-la-mật. Muốn tu hạnh
nhẫn nhục ba-la-mật, trước hết
con người phải diệt cho được lòng
sân hận, tánh
kiêu mạn, tâm tham, tật đố…vì đây là
phương cách trau dồi lòng Từ-Bi-Hỷ-Xả
rốt ráo nhất. Một
lời nói quát tháo, một
cử chỉ mất
tự chủ vì sự nóng giận sẽ giết chết nhân cách của
con người.
Có một vị
Thiền sư được
ca ngợi là một người sống rất
thanh bạch. Gần nơi
thiền tự có một
gia đình bán tạp hóa có một cô con gái rất đẹp. Một ngày kia
cha mẹ cô
khám phá ra là cô con gái mình có bầu. Họ giận lắm mà
mắng chửi cô không tiếc lời.
Thoạt tiên cô không chịu nói thủ phạm là ai, nhưng sau cùng không chịu nổi đòn vọt nữa nên cô thưa với
song thân rằng người cha của cái
bào thai chính là vị
Thiền sư.
Hết sức giận dữ, hai người đến
thiền tự tìm vị
Thiền sư nầy
mắng chửi đủ điều. Sau khi nghe xong,
thiền sư chỉ hỏi:
- Có thật như vậy sao?
Sau khi đứa bé ra đời, nó được mang giao lại cho
Thiền sư. Dù ông bị khắp vùng
chê cười về việc nầy, ông vẫn
lẳng lặng nhận đứa bé về
nuôi dưỡng. Hàng ngày ông đi xin sữa cùng các
vật dụng cần thiết từ những người hàng xóm
tốt bụng và chăm sóc đứa bé thật là chu đáo.
Một năm
trôi qua, cô gái phần thì thương con, phần cũng không đành lòng ngồi nhìn cảnh
ngang trái nên mới
thú thật với
cha mẹ là đã lỡ dại với một chàng trai trong xóm.
Song thân cô gái lại
vội vàng chạy lên
thiền tự, nhưng lần nầy thì họ hết lời
xin lỗi,
giải thích tràng giang
đại hải và xin bắt cháu về.
Thiền sư lẳng lặng ngồi nghe. Khi trao trả đứa bé, ông lại cũng chỉ hỏi một câu là:
- Có thật như vậy sao?
Tóm lại người
tu nhẫn nhục là không
oán hận, không
trả thù và không muốn thấy
cuộc đời là một bãi chiến trường, một lò lửa của
sân hận. Chính lửa
sân hận nầy có thể thiêu đốt tất cả những gì
quý báu mà
loài người đã
xây dựng được trên
thế giới nầy. Vâng! Lửa
sân hận chỉ có thể
bị dập tắt bằng nước
nhẫn nhục ba-la-mật mà thôi.
4)
Tinh tấn: Đi trên
con đường tâm linh có nghĩa là lội ngược lại với giòng thường tình bởi vậy sự mỏi mệt và tâm
biếng nhác là mối
đe dọa rất lớn dễ làm
con người thoái chí trong việc
tu hành.
Nếu không có tâm
nhẫn nhục thì khó
đạt được Bồ-đề. Còn
con người không
tinh tấn nổ lực thì khó lòng đến chỗ
giải thoát giác ngộ. Ở đây cần chú ý rằng sự
mệt mỏi có hai loại: một loại
liên hệ đến sự
kiệt sức thuộc cơ thể và loại kia là do
tâm thức gây ra và kéo theo các
yếu tố bất thiện như chán nản và
buồn ngủ. Điều nầy có thể xảy ra khi
chúng ta làm việc gì mà ta không
thích thú. Nhiều người
than phiền là khi
thực hành môn
ngồi thiền hay
niệm Phật một cách nổ lực thì họ trở nên
mệt mỏi hơn nhiều so với khi họ đọc sách báo khá lâu. Khi cái ngã
cảm thấy bị
đe dọa thì cái ngã ấy vốn đã bắt rễ
sâu xa trong cái
Vô Minh để
tỏa ra một đám sương mù
hắc ám dày đặc phát sinh
từ tâm Si.
Trái lại rất nhiều người đã
dày công hành thiền hay
niệm Phật cho biết rằng họ không cần ngủ nhiều như trước kia trong khi tu
Tinh tấn hạnh
Bồ tát ba-la-mật làm cho
thân tâm hoàn toàn tự tại. Nhưng thế nào là
tinh tấn ba-la-mật?
Tinh tấn ngăn ngừa các điều ác đừng sanh: Như
cuộc đời chúng ta chưa hề
sát hại sinh vật, nói lời
dối trá, trộm cướp gian xảo… thì
dĩ nhiên từ đây về sau cũng phải
tinh tấn thêm lên và
cố gắng giữ gìn đừng cho
ác tâm sinh khởi.
Tinh tấn diệt cho mau các điều ác đã sanh: Trong
quá khứ nếu
chúng ta đã lỡ tạo những
tội ác như
tham lam trộm cướp,
đam mê sắc dục,
giận dữ kiêu căng…thì nay phải
tinh tấn đừng cho nó
tăng trưởng thêm nữa và
cố gắng diệt trừ cho hết những
bất thiện nầy.
Tinh tấn lảm cho các điều lành phát sanh:
Con người vì tâm vị kỹ chỉ lo cho mình mà không nghĩ đến người khác thì
lòng từ bi không bao giờ phát triển. Muốn phá cái
bản ngã nầy thì từ nay
chúng ta nên
cố gắng bố thí, làm
việc từ thiện xã hội để giúp đỡ kẻ tật nguyền
nghèo khổ,
chuyên cần nghe kinh học Phật…thì các điều lành sẽ được phát sinh.
Tinh tấn làm cho các điều lành
tăng trưởng: khi đã bắt tay vào làm
việc thiện thì nên cô gắng làm thêm nữa, đừng chán nản bỏ cuộc. Khi biết
Phật pháp phải
cố gắng thực hành để thấy được
chân lý của
đạo Phật.
Tu hành đừng chấp vào
phương tiện mà phải
chú tâm vào
cứu cánh là
giải thoát vì thế càng
tinh tấn tu tập thì càng gần với
chân lý và
dĩ nhiên trí tuệ càng
mở rộng.
Nếu
thực hành tinh tấn với
dụng tâm không
trong sạch như vì danh, vì lợi, vì sợ, vì
kiêu căng thì không đúng với
tinh tấn ba-la-mật.
Tu Phật là muốn đoạn
trừ phiền não và tìm lối
giải thoát ra khỏi
luân hồi thì
tinh tấn là phải
chuyên cần tu luyện với
ý chí sắt đá để
đạt đến cứu cánh của mình. Trong
thế gian nầy càng
tinh tấn thì càng
thành công lớn. Chính nhà tỷ phú Bill Gates đã làm việc rất hăng say không
mệt mỏi khi ông ta còn rất trẻ và ngày nay tuy là người giàu
nhất thế giới mà ông ta vẫn
tích cực hoạt động không ngừng. Như thế thì
bí quyết để
thành công là
tinh tấn.
Tinh tấn ví như chất dầu xăng làm cho chiếc xe chạy. Cho dù chiếc xe thật tốt, tài xế rất giỏi và
con đường bằng phẳng mà
nếu không có xăng thì chiếc xe vẫn nằm ỳ một chỗ.
Con đường tu đạo thì
cũng thế, cho dù có làu thông
kinh điển mà không
tinh tấn công phu tu tập thì không bao giờ được
kiến tánh. Cũng
ví như người ngồi trên một chiếc bè,
nếu không chèo lái thì
mãi mãi không bao giờ
đến bờ bên kia.
Vì thấy tầm quan trọng của
tinh tấn cho nên câu nói sau cùng của
Đức Phật với các chúng
đệ tử trước khi Ngài
nhập diệt là:
“Hỡi các ngưởi
thân yêu của ta! Hãy
tinh tấn lên để giải thoát”.
Như thế nếu
chúng sinh luyện được đức
tinh tấn để chiến thắng tánh lười biếng,
buông lung thì không có một
trở lực nào làm chậm bước tiến trên
con đường giải thoát giác ngộ.
5)
Thiền định: Chữ Thiền được viết tắt từ chữ
Thiền Na, tức là phiên âm từ chữ Dhyana trong
Phạn Ngữ, được dịch là
tư duy hay
tĩnh lự.
Tư duy là
tu tập bằng
phương pháp suy nghiệm và
suy cứu về những đối tượng của
tâm thức. Còn
tĩnh lự là dùng tâm thể
vắng lặng để thẩm sát các
vấn đề đạo pháp. Nói một cách tổng quát thì
thiền định là
định tâm trọn vẹn vào một
vấn đề gì để
suy xét cho thấu lý tức là
chấm dứt những suy tư rời rạc nối đuôi nhau.
Sau khi
chứng ngộ dưới gốc Bồ-đề,
Đức Phật Thích Ca đã thốt lên rằng:”Thật
kỳ diệu thay tất cả mọi
chúng sinh đều có
Phật tánh, nhưng vì bị
vô minh che lấp nên họ không
nhận ra điều ấy”. Lời
tuyên bố đầu tiên của
Đức Phật chính là tinh yếu của
toàn bộ giáo lý của Ngài. Đúng như thế! Mọi
chúng sinh dù nam hay nữ, dù
thông minh hay khờ dại, dù đẹp đẻ hay
xấu xa, dù khỏe mạnh hay yếu đau cũng đều có
Phật tánh như nhau.
Trải qua bao nhiêu kiếp sống
luân hồi,
tâm thức của
chúng sinh đã bị cái vỏ cứng của cái
vô minh che phủ nên họ không
nhận thức được cái
Phật tính toàn vẹn trong sạch hoàn hảo kia nữa. Muốn
giải thoát chúng ta phải
quay về với cái
Phật tánh đó để thấy rõ rằng bao lâu nay
chúng ta đã để cho
vô minh lôi cuốn mà không hề hay biết.
Phương cách hữu hiệu nhất để
trở về với cái
Phật tánh thanh tịnh đó là
tọa thiền.
Lịch sử Phật giáo đã
chứng minh một cách hùng hồn rằng từ
Đức Phật đến các
đại đệ tử của Ngài được
giác ngộ nhờ
công phu tọa thiền. Tâm của Phật và tâm
chúng sinh thật ra không hề khác nhau. Cái tâm nầy có thể
ví như mặt nước hồ thu. Tâm của Phật thì như mặt nước yên tĩnh. Trên đó
mặt trăng chân lý có thể
phản chiếu một cách
toàn vẹn. Trong khi tâm của
chúng sinh thì giống như mặt nước đang bị các làn sóng
vô minh khuấy động không thể
phản chiếu gì được.
Mặt trăng chân lý lúc nào cũng chiếu sáng do đó
vấn đề chính của sự
tu tập là làm sao
để tâm của mình có thể
phản chiếu rõ ràng mặt trăng chân lý mà thôi. Bây giờ nên tự hỏi cái gì đã làm khuấy động tâm của chúng ta?
Phải chăng đó là các tư tưởng? Trong việc
tu tập, việc đầu tiên
chúng ta phải làm là đánh tan các
tư tưởng lúc nào cũng muốn dấy lên nầy. Đây là điều không dễ vì
trải qua bao kiếp sống
vô ý thức,
vọng niệm đã thành một
thói quen không dễ gì mà bỏ ngay được. Tất cả mọi
tư tưởng dù thanh cao hay
xấu xa đều có khởi đầu và có
chấm dứt.
Vì có sinh nên có diệt nhưng vì nó cứ
tiếp tục nổi lên nên
chúng ta cứ tưởng rằng nó
thường hằng bất biến. Đó là sự
nhận xét sai lầm đầu tiên. Nếu những
tư tưởng nầy
tiếp tục khuấy động tâm của
chúng ta,
chúng ta sẽ không thể
phân biệt cái thật với cái giả được.
Con người đã
đánh giá cao các
tư tưởng trừu tượng, các
phân biệt của
lý trí, của
lý luận nhưng tất cả những cái nầy đều là sản phẩm của
tư tưởng. Mà đã là sản phẩm của
tư tưởng vốn
vô thường có sinh có diệt thì gốc rễ của nó đã nằm ở chốn
vô minh rồi.
Tư tưởng chính là tâm mệnh của
con người. Nó chính là nguồn gốc của sự
mê hoặc và
chúng ta cần phải phân biệt thật
rõ ràng vai trò của
tư tưởng.
Lý trí vốn có
tính cách nhất thời với các khái niệm cố định.
Thiền định là
phương pháp làm ngưng lại và giết đi những
tư tưởng nầy. Một khi các làn sóng
tư tưởng khuấy động đã
chấm dứt thì
chúng ta sẽ
nhận thấy rằng
mặt trăng chân lý lúc nào cũng chiếu sáng. Giây phút
nhận ra điều nầy là
kiến tánh, là
giác ngộ có nghĩa là
hiểu rõ được
bản thể chân thật của
tự tánh. Khác với những
ý niệm lý luận hay
triết học vốn
xuất phát từ
tư tưởng nghĩa là có khởi đầu và có
chấm dứt và có thể thay đổi theo
thời gian. Sự
chứng ngộ chân lý dựa trên các làn sóng
tư tưởng chấm dứt nầy không thay đổi hay có thể mất được. Nó sẽ ở
mãi mãi với
chúng ta và từ đó
chúng ta có thể sống một cách
thoải mái bình an trong cái tâm trạng đầy
phúc lạc thanh thản.
Còn
phiền não thì sao?
Một người không thể có sự
an lạc khi tâm ý
bất định và đầy tạp niệm.
Chúng ta hảy
quan sát một kẻ đang bị say sóng trên một con thuyền
vùi dập giữa phong ba. Người đó không thể
bình phục được dù bên tai có văng vẳng lời người bạn nhắc nhở là khi tới bờ thì sẽ hết. Một kẻ ở trong
trạng thái tâm tư
bất định thì cũng như một kẻ đi thuyền trong cơn giông bão. Người đó không thể nào
được giải thoát khỏi
phiền não cho dù có hiểu rằng
an lạc sẽ đến khi ông ta
thành công trong phép
tịnh tâm. Một người đi thuyền khi về
tới bến thì bệnh say sóng tự nó sẽ hết.
Tương tự như thế,
phiền não sẽ tự nó
chấm dứt khi
con người đã
thành công trong phép
tịnh tâm vậy. Do đó nếu
con người muốn
an lạc thì phải
thực hành phương pháp tịnh tâm.
Dựa theo
Bồ tát hành thì
tu tập Thiền định dẫn
con người đến những kết quả mỹ mãn như sau:
·Khi
tu thiền một
thời gian dài lâu thì
ngũ căn được
tịch tịnh và
chánh định sẽ
phát khởi.
·Nhờ
Thiền định mà
tâm Từ bi được phát triển để
thương yêu tất cả
chúng sinh và muốn cho tất cả được an vui
hạnh phúc.
· Nhờ
năng lực Thiền định mà các
phiền não Tham-Sân-Si không còn phát sinh nữa.
·Khi tâm đã định thì
lục trần là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc,
Pháp không còn lay động.
·Tìm lại
an lạc thanh tịnh trong
tâm hồn.
·Một khi
tâm niệm đã lắng yên thì
ái dục không còn phát sinh làm
tâm không còn
ô nhiễm.
·Điều quan trọng của kẻ
tu thiền là tuy chứng được
chân không nhưng không bao giờ bị rơi vào chỗ
hư vô.
·Tận diệt tất cả những sự
trói buộc để được phát khai
trí tuệ,
giải thoát và
chứng ngộ Niết bàn.
6)
Trí tuệ ba-la-mật:
Trí tuệ là
điều kiện tối hậu để
thấu triệt chân lý. Trong
tam vô lậu học thì Giới và Định chỉ có
mục đích mở đường cho sự
rèn luyện Trí tuệ. Giới có thể làm cho thân và khẩu được
thanh tịnh và Định giúp tâm được an trụ,
thanh tịnh và
chân chính. Huệ tức là
trí tuệ sẽ phát huy phần
tâm linh quan trọng nhất của
con người là
trí năng để
đạt đến cứu cánh giải thoát. Trong
Phạn ngữ có rất nhiều danh từ được dịch là
trí tuệ, nhưng
ý nghĩa của chúng đôi khi cũng có ít nhiều
sai biệt. Đó là:
* Panna là
biện tướng trí tức là
trí tuệ phân biệt được
chân tướng vô ngã,
vô thường,
khổ não của
hiện tượng giới.
* Patisambhida là
minh giải trí tức là
trí tuệ giúp phân tích và
biện giải các pháp một cách
minh bạch rõ ràng.
* Nana là phá
tướng trí tức là
trí tuệ trực nhận chân lý và
phá chấp tướng của
vạn hữu. Đây chính là
trí tuệ của chư Phật và chư
Bồ Tát bất thối.
* Bodhi hay Bồ-đề tức là trí
giác ngộ. Đây là
trí tuệ của các bậc huyền thông
đạo lý để dứt
trừ phiền não,
vọng chấp.