THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Tôn Giả A Na Luật, Đệ Nhất Thiên Nhãn (Anurudha)
A Na Luật sinh ra trong
dòng dõi vua chúa. Khi tuổi còn nhỏ,
A Na Luật là một đứa trẻ
thiên tư hoạt bát và rất
thông minh mẫn tiệp. Đến tuổi
trưởng thành,
A Na Luật là một thanh niên
tướng mạo đường đường và bắt đầu hiểu được
ý nghĩa cuộc đời.
Nhắc lại sau khi
thành đạo thì
đức Phật trở về cung
thành Ca Tỳ La Vệ thuyết pháp giáo hóa và sau đó thì con Phật là
La Hầu La cũng
xuất gia theo Phật. Vua
Tịnh Phạn bèn lập
Bạt Đề lên làm
Thái tử để
kế nghiệp mai sau. Về sau
Thái tử Bạt Đề cùng với
sáu vị vương tử khác đi
xuất gia,
thành thử khi vua
Tịnh Phạn băng hà thì anh của
A Na Luật là
đại tướng Ma Ha Nam lên nối ngôi.
Sức
cảm hóa của
Thế Tôn quá mạnh, nên sau chuyến về thăm phụ vương và
gia đình thì chẳng bao lâu trong
hoàng tộc rất nhiều người xuống tóc
quy y theo Phật.
Trước tiên là
Nan Đà, người sẽ thay Phật làm vua tương lai, theo Phật làm
sa môn, kế đến là
La Hầu La làm
sa di. Điều nầy làm
chấn động những vương tử thanh niên trong thành.
A Na Luật cũng nằm trong
tình trạng ấy vì chính ông cũng muốn
xuất gia theo Phật.
Trong lúc còn đang bâng khuâng,
A Na Luật tìm đến anh là
Ma Ha Nam mà nói:
- Thưa anh!
Đức Phật trở về hoàng cung khiến cho mấy ngày
gần đây,
dòng họ Thích Ca chúng ta nhiều người cũng
xuất gia làm
sa môn để đem
cam lồ pháp vũ của Phật truyền đi khắp
tứ phương. Theo em nghĩ đó là một cuộc sống đầy
ý nghĩa.
Thái tử Nan Đà tuy có vợ đẹp là Tôn Đà Lị mà còn bỏ để
gia nhập tăng đoàn. Còn
La Hầu La nhỏ tuổi như
vậy mà cũng
xuất gia học đạo. Hai anh em ta
nếu không có một người
xuất gia thì thật là bất ổn. Vậy ý anh như thế nào?
Đại tướng Ma Ha Nam anh dũng đã lập nhiều chiến công với
quốc gia, nghe em nói bèn
trả lời:
-
A Na Luật!
Lời nói của em giống anh. Hai anh em mình
nhất định phải có một người đi
xuất gia mới đúng cách . Anh định bàn với em, từ nay em hãy lo
hiếu dưỡng cha mẹ để anh theo Phật làm
sa môn.
A Na Luật lắc đầu không chịu:
- Anh không thể
xuất gia được, nước nhà rất cần anh. Tuy em cũng biết võ công nhưng sánh với anh thật là thua xa. Xin anh hãy để em
xuất gia, thêm nữa tính em thì
thích hợp với
lối sống tịch tịnh của
tăng đoàn vì em không ưa chỗ
ồn ào náo nhiệt cũng như
nhàm chán ngũ dục của
hoàng cung.
Ma Ha Nam đành phải nhượng bộ trước
lập luận của em mình, nhưng từ khi
La Hầu La xuất gia thì
Đức Phật đã hứa với vua
Tịnh Phạn là trẻ em dưới tuổi vị
thành niên mà muốn
xuất gia phải có sự
chấp thuận của
cha mẹ. Vì thế
A Na Luật chỉ còn cách là
năn nỉ với vương phụ và vương mẫu để cho mình được
gia nhập tăng đoàn làm
tỳ kheo.
Cho dù đôi ba phen
nài nỉ,
A Na Luật vẫn bị từ chối nên
cuối cùng ông định
tuyệt thực cho đến chết.
Cha mẹ A Na Luật vì thương con mà phải chịu, nhưng nói:
- Nếu như con muốn
xuất gia thì hãy
thương lượng với vương tử
Bạt Đề. Nếu
Bạt Đề xuất gia thì
chúng ta cho con đi chung bằng không thì đừng đòi hỏi trông mong nữa.
Thuyết phục vương tử
Bạt Đề đi
xuất gia không phải là chuyện dễ bởi vì sau khi
La Hầu La làm
sa di thì vương tử sẽ kế ngôi vua xứ
Ca Tỳ La Vệ khi vua
Tịnh Phạn băng hà.
Mặc dầu việc khó như thế, nhưng
A Na Luật vẫn đem
ý định xuất gia nói và rủ
Bạt Đề cùng
xuất gia với mình.
Đối với việc
từ bỏ dục lạc,
vinh hoa phú quý của
cuộc đời để
xuất gia tu đạo thì
Bạt Đề cảm thấy rất khó, nhưng đối với chỗ thân tình như
A Na Luật thì khó mà từ chối thẳng nên
Bạt Đề suy nghĩ giây lát rồi
miễn cưỡng trả lời:
-
A Na Luật!
xuất gia làm
tỳ kheo chẳng còn được
lưu luyến dục lạc thế gian, ta và em đều còn trẻ làm sao
đủ sức chịu nổi? Em hãy đợi vài năm,
chúng ta hưởng hết những thú vui vương giả. Bảy năm sau ta sẽ
xuất gia với em.
Rõ ràng là
Bạt Đề khéo léo từ chối, nhưng
A Na Luật đôi ba phen nói rõ niềm vui của
cuộc đời xuất gia nên
Bạt Đề hẹn từ bảy năm xưống còn một năm. Rồi từ một năm xuống còn một tháng và
cuối cùng từ một tháng giảm còn 7 ngày.
Bảy ngày sau,
A Na Luật cùng
Bạt Đề và năm vị vương tử khác là
A Nan,
Đề Bà,
Kiếp Tân Na,
Bà Sa và
Nan Đề đồng lén
bỏ nhà ra đi tìm những
con đường Phật thường đến
du hóa. Khi đến mé rừng thuộc làng Di Na, các vương tử cởi bỏ
y phục, bảo
Ưu Bà Ly cạo hết râu tóc, khoác
áo cà sa và tìm đến
yết kiến Phật.
Đức Phật chưa cho
gia nhập tăng đoàn ngay mà bảo họ đến ở trong
tịnh thất để
tịnh tọa một
tuần lễ cho quên hết thân thế cao sang của mình rồi sau mới
chính thức cho
xuất gia và ra mắt
đại chúng.
Từ Chối
Thiếu Nữ Cầu HônSau khi
xuất gia,
A Na Luật thường nghe
giảng kinh điển, làm quen với
lối sống đạm bạc và đối với lời dạy của
Đức Phật thì
hoan hỷ phụng hành.
Tuy chưa chứng
thánh quả nhưng được kích động bởi niềm vui
Phật pháp cũng như muốn
báo ân đức Phật đã cho
xuất gia nên
A Na Luật dự định làm một chuyến
giáo hóa phương xa.
Đức Thế Tôn rất
hoan hỷ và khuyến khích
tôn giả cần phải có nhiệt tâm
hoằng pháp lợi sanh. Vì trong khi làm việc
độ sanh là
phương cách nuôi lớn
tín tâm mà
tín tâm có mạnh thì mới có thể
hy vọng khai ngộ chứng quả thánh được.
Một ngày nọ,
A Na Luật từ
tịnh xá Kỳ Viên đi đến nước
Kiều Tát La.
Trong suốt đoạn đường không có chỗ nào cho
tỳ kheo tạm trú,
A Na Luật không còn cách nào khác hơn là xin ngủ nhờ nhà dân chúng. Trong chốn đồng quê vắng vẻ và làng xóm lưa thưa,
A Na Luật ghé lại một ngôi nhà có vẻ
rộng rãi để xin
tá túc qua đêm. Thật chẳng ngờ hôm ấy cả nhà đi vắng hết chỉ còn một cô gái trẻ tuổi ở nhà mà thôi.
A Na Luật bị đặt vào
hoàn cảnh tấn thối
lưỡng nan vì một
tỳ kheo mà lại nghỉ đêm tại ngôi nhà chỉ có một người
thiếu nữ thì quá bất tiện mặc dù
Đức Phật chưa
chế giới đề cập đến điều nầy, còn ra đi thì
ngoài trời mây đen phủ kín như sắp mưa to.
A Na Luật không biết làm sao đành phải xin ở lại. Trong khi
A Na Luật vào nhà không lâu thì có một ông già lỡ đường ghé vào xin
tá túc nhưng cô chủ nhà quyết liệt từ chối. Thấy cô đối xử với ông già không chút
lễ độ cũng không có tình người,
A Na Luật không mấy
hài lòng.
Ngược lại
thiếu nữ đối với
A Na Luật rất
ân cần, mời trà mời nước cũng như hỏi gần hỏi xa.
A Na Luật chỉ ngồi
tịnh tọa,
nhất tâm niệm Phật và mong cho trời sáng để đi khỏi nơi nầy.
Đến nửa đêm,
ánh đèn dần dần mờ ảo,mông lung.
Thiếu nữ đến bên
A Na Luật thốt lời tình tứ:
- Em biết thầy là một
sa môn và đối với
sa môn mà có
ý nghĩ nầy nọ thì không phải, nhưng từ khi em gặp thầy thật khó ngăn được
cảm tình. Xin thầy hãy tin em, em không phải là hạng gái trắc nết
trăng hoa, rất nhiều công tử đến
cầu hôn mà em chẳng nhận lời ai. Em thấy thầy
dung mạo thanh tân,
hành vi đoan trang nên em không sợ
xấu hổ mà xin nguyện tự đính
hôn ước với thầy. Từ nay mời thầy cứ ở lại nhà em, ba má em
nhất định rất
vui mừng đấy ạ.
A Na Luật vốn
dòng dõi vương tôn
anh tuấn, đối với chuyện
ái tình của các cô
thiếu nữ,
A Na Luật cũng có chút
kinh nghiệm. Vốn từ thời còn ở
hoàng gia, cũng có nhiều
công nương bao vây xin
cầu hôn,
tuy nhiên A Na Luật nhận thấy ái tình chẳng
vui sướng gì vì thế
A Na Luật không hề bị nhiễm dục
mê hoặc. Đối với
A Na Luật thì chỉ có
tu đạo mới thật là niềm vui
an ổn nhất.
Khi lửa
ái tình của
thiếu nữ bộc phát thì khó mà
dập tắt ngay nên
A Na Luật chỉ còn cách là
nhắm nghiền đôi mắt, không ngó ngàng thì cô ta
mắc cỡ mà lui ra. Nhưng cô nàng lại có ý đồ
bất chánh, liền
tiến tới nắm tay
tôn giả.
A Na Luật vẫn
ngồi yên như một quả núi không nhúc nhích khiến cô nọ
dạn dĩ ôm choàng lấy Ngài.
Lúc ấy A Na Luật mới
trừng mắt nhìn cô ta trách rằng:
- Này cô nương! Cô không
mắc cỡ sao?
Nam nữ còn không thể làm như vậy. Huống chi tôi là người
xuất gia, sao cô lại đối với tôi chẳng có chút lễ độ?
Tình ái của
nam nữ trên
thế gian là nguồn gốc của bể khổ
sanh tử để gây ra đủ thứ
phiền não,
thị phi và rối răm. Cô hãy dẹp tắt
lửa tình của cô và hãy nhìn lại lòng mình.
Lời nói nghiêm nghị của
A Na Luật khiến
thiếu nữ hổ thẹn cúi đầu
hối hận. Sau đó, xin
A Na Luật tiếp dẫn cho mình
quy y Phật làm
Ưu Bà Di (
tín nữ).
Tình cảm
nam nữ là tập quán của
loài người, nhưng người
tu chân chính phải vượt khỏi tính người tầm thường thì mới tiếp thọ được tính Phật cao siêu
mầu nhiệm. Từ đó về sau
A Na Luật không dám ngủ lại ban đêm ở nhà
nhân gian.
Bị Mù Vì
Lời NguyệnĐạo tâm của
A Na Luật rất
kiên cố cho dù gặp sắc đẹp mà cũng không
xao động. Nhưng một hôm trong một buổi
giảng kinh của
Thế Tôn,
A Na Luật ngủ gục tại tỏa làm
Đức Thế Tôn ở xa nhìn thấy bèn nói:
Dốt thay kẻ mê ngủ
Thu mình trong vỏ sò
Một giấc ngủ ngàn năm
Không nghe
danh hiệu Phật.
Người
tỳ kheo kế bên bèn xô nhẹ
A Na Luật làm
tôn giả hoảng kinh
thức dậy,
Đức Thế Tôn bèn hỏi:
-
A Na Luật! Ông đi
xuất gia vì sợ phép nước hay vì sợ đạo tặc?
A Na Luật vội đứng lên
cung kính thưa:
- Thưa không phải.
Phật lại hỏi:
- Bạch Thế Tôn! Vì con
nhàm chán sanh lão bịnh tử và muốn
giải thoát ưu bi khổ não.
Phật dạy:
-
Mọi người đều khen ông không vì
nữ sắc mà
phạm giới, chắc ông tự mãn điều ấy lắm, ông xem, trong khi ta
thuyết pháp mà ông
ngủ ngon như vậy.
A Na Luật nghe Phật quở liền quỳ xuống
chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Xin
từ bi lượng thứ cho sự
ngu si giải đãi của con. Từ nay về sau,
cho đến lúc chết con không ngủ
trở lại nữa!
Đối với
đệ tử biết
nhận lỗi sám hối thì
đức Phật rất
hoan hỷ. Kể từ khi
A Na Luật phát nguyện,
Đức Phật thường
cổ động an ủi và khuyên
tôn giả nên gắng
dụng công vì việc
tu hành mà muốn
thành tựu thì không thể buông lơi và
dĩ nhiên cũng không thể quá
gấp rút. Từ đó về sau
A Na Luật dụng công chăm chỉ từ sáng đến tối và từ đêm đến ngày không ngừng nghỉ.
Khi
tu hành mà không ngủ một lúc, hoặc một hai ngày thì chẳng sao, nhưng lâu ngày chày tháng, tuy sức người có thể
miễn cưỡng cầm cự được, nhưng
sắc thân tứ đại sẽ bị
kiệt quệ và mang bịnh.
Quả thật ít lâu sau, vì không ngủ nghê gì cả, hai mắt của
A Na Luật bị sưng húp làm cho nhức nhối khó chịu.
Đức Phật biết
tôn giả chuyên cần dụng công đến sưng mắt nên Ngài rất
lo lắng. Một hôm
Đức Phật cho gọi
A Na Luật vào rồi dạy:
-
A Na Luật! Ta nói với ông
tu hành mà
gấp rút thì không xong mà
thái quá thì cũng không được.
A Na Luật thưa:
- Con đã từng
phát nguyện trước
Đức Thế Tôn nên con không thể làm trái
lời nguyện.
Phật dạy:
- Ông đừng
quan tâm đến
vấn đề phát nguyện, con mắt mới quan trọng.
Tuy
Đức Phật từ bi nói như vậy, nhưng
A Na Luật vẫn không chịu ngủ.
Đức Phật lại tìm
phương tiện nói:
- Này
A Na Luật! Tất cả
chúng sinh phải có
thức ăn mới sống, còn lỗ tai dùng
âm thanh làm
thức ăn, lỗ mũi dùng mùi hương làm
thức ăn, lưỡi dùng vị nếm làm
thức ăn, thân dùng xúc chạm làm
thức ăn và con mắt dùng ngủ nghỉ làm
thức ăn. Ông không ngủ không được vì con mắt sẽ thiếu nhu cầu mà ngay cả
Niết Bàn cũng cần đến
thức ăn huống chi con mắt.
A Na Luật thưa:
-
Niết Bàn ăn những gì?
-
Niết Bàn cần dùng thiền duyệt pháp hỷ làm
thức ăn vì
thiền duyệt sẽ đưa đến được
cảnh giới vô vi tịch tịnh.
A Na Luật bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con không ngủ cũng chẳng hại gì, xin Ngài cứ yên tâm!
Lòng từ bi của Phật,
A Na Luật rất cảm kích, nhưng
tôn giả không muốn làm trái
lời nguyện.
A Na Luật cứ thức mãi đến lúc đôi mắt sưng đỏ,
Đức Thế Tôn thấy thế bèn cho mời ngự y
Kỳ Bà đến trị bịnh cho
tôn giả.
Kỳ Bà khám bịnh xong bảo
A Na Luật chỉ cần ngủ
trở lại thì mắt sẽ lành ngay, nhưng
A Na Luật vẫn
kiên quyết không ngủ. Chẳng bao lâu hai mắt của
tôn giả trở thành mù lòa không còn thấy gì cả.
A Na Luật đã
chứng minh rằng với
quyết tâm sắt đá và
tâm nguyện tu đạo kiên cố cho dù phải
hy sinh đôi mắt mà vẫn không lùi bước để
trái với lời nguyện của mình.
Đức phật chỉ nói một câu mà
tôn giả đã
phụng hành như thế thì đủ biết lòng
cung kính của
tôn giả đối với
Đức Phật như thế nào.
Đức Phật Vá Y Cho
A Na LuậtTừ khi
trở thành mù lòa thì cuộc sống của
A Na Luật bỗng
trở thành vô cùng khó khăn, ngay cả những việc
bình thường như vá y hay đi
khất thực.
Trong
tăng chúng có nhiều vị
tỳ kheo khỏe mạnh thì mỗi khi đi
khất thực về thường đem phần cơm dư chia cho các
tỳ kheo bịnh
thành thử đối với việc
ăn uống thì
A Na Luật cũng tạm yên tâm. Từ khi bị
mù lòa, không trông thấy
mọi vật khiến
A Na Luật không còn bị
ngoại cảnh làm lay động nên
tôn giả một lòng chỉ
chú tâm tinh tấn mà
tu đạo.
Một hôm, ba y của
A Na Luật đã rách nát và mấy lần
tôn giả định vá lại, nhưng con mắt không thấy đường thì làm sao xỏ kim.
Đang lúc còn đang bâng khuâng thì gặp lúc
A Nan đi ngang qua.
A Nan thấy vậy mới nói:
- Này anh
A Na Luật! Ba y của anh rách hết rồi sao không vá lại.
Đức Phật có dạy là
y phục mới hay cũ không cần, nhưng
cần phải chú trọng cho
tề chỉnh sạch sẽ.
A Na Luật trả lời:
- Thưa anh A Nan! Tôi đã thử vá mấy cái y, nhưng con mắt tối đen không xỏ chỉ được, nếu anh có rãnh đến giúp tôi một phen được chứ?
A Nan rất
hoan hỷ nhận lời và hẹn ngày đến vá y.
A Nan về đến
tịnh xá Kỳ Viên định tìm thêm một vị
tỳ kheo nữa để giúp
A Na Luật, nhưng
thiên nhĩ của
Đức Phật đã nghe hai người
đối đáp nên khi vừa gặp
A Nan thì Ngài liền hỏi:
- Này A Nan! Sao ông không nói với ta đi vá y giúp
A Na Luật?
A Nan nghe Phật hỏi bất ngờ vội thưa:
- Bạch Thế Tôn! Ngài là bậc tôn quý, những việc vụn vặt của
đệ tử chúng con không dám làm bận rộn
Thế Tôn. Con và các
tỳ kheo đều muốn giúp
A Na Luật vá y nên con đang
dự định đi.
Phật dạy:
-
A Nan ! Ông đừng nên nói thế, ta cũng như các ông cũng là một
phần tử trong
tăng đoàn. Ta sẽ đi với ông vậy ông khỏi đi tìm nhiều người làm chi.
Đức Phật nói lời ấy khiến
A Nan vô cùng cảm động.
Mục Kiền Liên đứng kế bên cũng cảm kích
lòng từ bi sâu thẳm của
Đức Phật. Các vị đều nguyện theo Phật đến giúp
A Na Luật.
Phật đến núi
Ba La La và nói với
A Na Luật:
-
A Na Luật! Ông đem hộp kim chỉ ra đây. Ta đến để giúp ông vá y.
Nghe tiếng
Đức Phật,
A Na Luật bất ngờ hoang mang và trong đôi mắt
mù lòa bỗng ứa vài giọt lệ nên không biết phải nói thế nào đây.
Đức Phật xâu kim và lấy vải trong hộp ra đo cắt.
A Nan giúp phụ may luôn.
Trong vòng một ngày,
Đức Phật đã vá xong ba y cho
A Na Luật.
Một người là
tôn sư, là bậc
Thế Tôn phước đức viên mãn, còn một người là
đệ tử, là
tỳ kheo mù lòa, trong tình
sư đệ tương quan. Thầy thì
từ bi bác ái, còn
đệ tử cung kính đã biểu
hiện tình sư đệ của nhà Phật và nêu lên một tấm
gương sáng chói ngàn đời.
Nguyên Nhân Làm
Nữ Nhân Bị
Đọa LạcTuy
A Na Luật bị
mù lòa đôi mắt, nhưng tâm thì rất
sáng suốt lạ thường
vì vậy đối với những
sinh hoạt hằng ngày thì
tôn giả gặp nhiều điều không
vừa ý.
Đức Phật từ khi giúp
tôn giả vá ba y thì Ngài càng
quan tâm nhiều hơn. Chính
Đức Phật đã dạy cho
tôn giả tu tập môn:”
Kim Cang Chiếu Minh Tam Muội” và chẳng bao lâu
A Na Luật chứng được
thiên nhãn thông. Bấy giờ,
tôn giả cảm thấy hoàn toàn hân hoan cảm kích không lời nào tả cho hết. Thấy vậy,
Đức Phật càng
hoan hỷ và từ đó Ngài mới được
yên lòng.
Nhờ có
thiên nhãn nầy đã giúp cho
tôn giả có thể thấy rõ
mọi vật ở khắp nơi ngay cả
tam thiên đại thiên thế giới.
A Na Luật mất
nhục nhãn mà được
thiên nhãn làm cho tất cả
chúng tăng hết lòng ái mộ và
kính trọng. Việc chứng được
thiên nhãn thông chẳng những do
chí nguyện kiên quyết tu hành của
tôn giả mà một phần cũng do sức
từ bi của
Phật gia hộ. Từ đó,
A Na Luật không còn
lo lắng về việc vá y nữa, chẳng những thế bây giờ
tôn giả có thể nhìn thấy nhiều nơi mà người khác không thể thấy được.
Đặc biệt trong
kinh A Di Đà có nói
tôn giả dùng
thiên nhãn để thấy được
thế giới Cực Lạc ở
Tây phương. Vì thế sau nầy,
chúng sanh có thể
tin tưởng vào cõi
Cực Lạc của Phật
A Di Đà để cầu được
vãng sinh.
Thiên nhãn của
tôn giả chẳng những thấy được
thế giới Cực Lạc, mà cũng có thể thấy mọi
sinh hoạt ở dưới đia ngục. Một hôm,
tôn giả nhìn thấy rất nhiều
phụ nữ bị đọa trong
địa ngục, bèn đến hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn! Hôm nay con thấy rất nhiều
phụ nữ bị sa đọa vào
địa ngục. Theo con thấy người
phụ nữ rất dễ
tin theo lời Phật dạy cũng như người nữ nhiều
lòng nhân hơn nam giới thì cớ sao họ lại bị đọa
địa ngục nhiều hơn?
Phật dạy:
- Này
A Na Luật! Trong
Phật pháp, người nữ dễ
tin theo lời Phật dạy là
sự thật, nhưng người nữ
bình thường dễ tạo tội nhiều hơn. Người nữ có ba thứ tâm lớn hơn nam giới:
1)Thứ nhất, mỗi sáng sớm
thức giấc, tâm
tham lam của họ rất nặng vì họ mong rằng tất cả tài bảo trên
thế giới đều gom vào nhà họ.
2)Thứ hai, lúc ban trưa, tâm tật đố của họ tăng rất mạnh vì họ
cảm thấy rằng
toàn thể nhân loại đều làm
chướng ngại cho mình.
3)Thứ ba, lúc xế chiều tâm
dâm dục của họ lẫy lừng vì lúc nào cũng mong có người dựa kề bên mình.
A Na Luật! Tâm
tham lam, tật đố và
dâm dục của
nữ nhân rất dễ
chiêu cảm họ
phạm tội. Đó là
nguyên nhân khiến họ đọa
địa ngục rất nhiều.
A Na Luật chứng
thánh quả và
đạt được thiên nhãn nên
trở thành bậc
đệ tử thượng thủ trong
tăng đoàn. Nhưng khi bàn về
thiên nhãn thông với
Xá Lợi Phất thì
tôn giả Xá Lợi Phất vẫn răn dạy
A Na Luật như thường. Một hôm
A Na Luật đến hỏi
Xá Lợi Phất:
- Thưa tôn giả! Tôi dùng
thiên nhãn thanh tịnh có thể thấy được ba ngàn
đại thiên thế giới. Tôi được
chánh niệm tinh tấn không lay động,
hiện tại thân thể tôi
khinh an như dạo chơi trong trời đất tịch mịch và tâm tôi đã lìa
chấp trước cũng
như không còn
tán loạn. Xin hỏi
tôn giả đó có phải là ly
phiền não đắc
giải thoát không?
Xá Lợi Phất là bậc
thượng thủ đệ nhất trong
tăng đoàn,
thường hay thay
Phật thuyết pháp nên khi nghe
A Na Luật nói thế bèn bày
tỏ ý kiến:
-
Tôn giả A Na Luật! Vừa rồi ông nói nhờ có
thiên nhãn nên thấy rõ ba ngàn
đại thiên thế giới, đó là tâm
ngã mạn. Ông nói ông có
chánh niệm bất động, đó là tâm
kiêu ngạo. Ông nói tâm ông lìa
chấp trước, không còn
tán loạn, đó là tâm
cuồng vọng. Theo sự
hiểu biết của tôi,
cần phải xa lìa tâm
ngã mạn, tâm
kiêu ngạo, tâm
cuồng vọng thì mới thật là lìa
phiền não đắc
giải thoát.
Đối với lời dạy của
Xá Lợi Phất,
A Na Luật chẳng những không giận mà còn rất cảm kích.
Tôn giả biết rằng
lời nói của
Xá Lợi Phất là
lời nói của bậc chân chánh thấy đạo. Điều nầy
chứng tỏ A Na Luật là một người rất khiêm tốn vậy.
Tu Nơi Rừng Sâu Tịch Mịch
Năm đó nhân vào
mùa an cư kiết hạ thứ mười,
Đức Phật trụ tại nước Câu Diệm Di và chúng
đệ tử lúc ấy nổi lên chia rẽ lẫn nhau một cách mãnh liệt. Thấy thế,
Đức Phật phải đem chuyện
nhẫn nhục của vua
Trường Thọ để nhắc nhở cho
mọi người. Phật dạy:” Đem
oán hận để
trả thù cho
oán hận thì
oán hận kia không bao giờ dứt, chỉ có
từ bi nhẫn nại mới
dập tắt lửa oán thù”.
Lời Phật dạy đã làm nhiều người
cảm động mà
từ bỏ tâm
sân hận, nhưng vẫn còn một số ít không chịu nhường nhịn và
hòa giải với
mọi người. Khi ấy
Đức Phật lại nhớ đến đức
nhẫn nhục khiêm
tốn của A Na Luật, Ngài bèn đi bộ
một mình đến khu rừng
Ba Lợi Da
Sa La thuộc nước
Bạt Kỳ để thăm
A Na Luật đang
tu tập trong đó.
Trong rừng
Ba Lợi Da
Sa La, ngoài
A Na Luật còn có
Bạt Đề và Kiếp Tần La cùng tu một chỗ. Cả ba đều là anh em chú bác
với nhau, khi còn
tại gia họ rất
thân thiện, nay đã
xuất gia thì họ càng
thân thiện hơn. Ba vị có một lời
minh ước là luôn luôn
tuân theo lời chỉ dạy của
Đức Thế Tôn để
tu hành cho mau đạt
thành chánh quả.
A Na Luật hiện tại là một vị
A La Hán, còn
Bạt Đề và
Kiếp Tân Na cũng đã
khai ngộ trong
mùa an cư kiết hạ của năm đầu
xuất gia. Họ nay đã
trở thành ba vị
thánh giả cùng sống chung một nơi và cùng
sinh hoạt an tịnh hòa nhã trong một khu rừng sâu tịch mịch.
Ba vị cùng đính ước chung là
bình thường không ai nói chuyện với ai và cứ năm ngày thì họ hợp mặt để
luận bàn đạo lý một lần. Họ trình bày cũng như
trao đổi sự
tu hành tâm đắc, hay cần
sửa đổi bất cứ
sinh hoạt cuộc sống
hằng ngày. Thường ngày, các vị
đi vào làng
khất thực, nếu vị nào
trở về trước thì trải sàng tòa, châm nước trong lu,
sắp đặt bồn nước rửa chân và để vải chùi chân bên lu nước. Thọ trai xong, nếu
thức ăn còn dư thì để một nơi cao ráo để người về sau nếu ăn không no sẽ lấy
thức ăn đó để ăn tiếp.
Sau khi thu dọn gọn ghẽ, tự mình rửa tay rửa chân, sửa sang
tọa cụ và vào trong
tịnh thất niệm Phật hay
tọa thiền. Người về
tiếp theo, nếu ăn chưa no thì ăn tiếp
thức ăn người trước để lại. Nếu có
lợi dưỡng khác thì cũng
để dành như vậy, ăn rồi rửa chén bát, lau khô cất riêng một nơi, quét dọn chỗ ngồi ăn, dẹp cất
y bát, rửa chân tay, trải
tọa cụ tọa thiền tu tập như người trước.
Cho đến xế chiều, người xuất thiền trước bèn đến lu xem trong lu còn nước hay hết. Nếu hết thì xách thêm, một người xách không nổi thì đưa tay ra dấu, kêu thêm người giúp. Hai người
im lặng khiêng nước xong,
im lặng trở về phòng. Và cứ như thế,
sinh hoạt của các vị trong chốn rừng u tịch
đều đặn trôi qua.
Đức Phật không thích chỗ
sân si ồn ào chợt nhớ đến
A Na Luật nên đi đến khu rừng hòa bình của ba vị
tôn giả. Ngoài bìa rừng có người
canh giữ, ông ta không biết
Đức Phật vì
bình thường Ngài đi
giáo hóa các nơi đều có
đệ tử theo sau. Hôm nay,
đức Phật đi
một mình, nên trong lúc bất ngờ thì ông ta không ngờ đó là
Đức Phật quang lâm, bèn cản lại:
- Xin Ngài đừng vào đây, trong rừng nầy có ba vị thánh đang
tu tập.
Đức Phật mĩm cười, từ tốn
trả lời:
- Ông hãy vào nói với họ có người đến thăm
chắc chắn họ rất mừng khi thấy ta.
Người giữ rừng vào trước báo tin,
A Na Luật nhìn ra thấy chính là
Phật Đà quang lâm thì rất mừng rỡ. Ba người
vội vàng ra
nghinh tiếp,
A Na Luật đỡ
y bát,
Bạt Đề trải tòa, còn
Kiếp Tân Na múc nước rửa chân.
Đức Thế Tôn được sự đón tiếp
thành kính của ba vị
đệ tử, Ngài rửa tay chân xong liền an tọa rồi
hỏi thăm về
cách sinh hoạt và sự
tu tập của ba vị. Ba vị thật tình trình bày và
Đức Thế Tôn nghe xong thì
hoan hỷ khen ngợi:
- Các ông
tu hành hòa hợp như thế, cuộc sống đầy
an lạc, không tranh cãi trầm tịch. Mỗi người
nhất tâm nhất đức mà
tu tập thì thật trên đời không có cái nào đẹp hơn.
Đức Phật khen xong lại nói thêm về sự
tu hành của Ngài trong kiếp
quá khứ để khích lệ ba người. Từ một nơi
gây gỗ đến một nơi yên tỉnh hòa bình làm
Đức Phật rất
hoan hỷ và đối với sự
thăm hỏi bất ngờ của
Đức Thế Tôn càng làm cho
A Na Luật thật
vui mừng và phấn khởi.
Cảm Hóa Kẻ CướpSau khi chứng
thiên nhãn,
tôn giả A Na Luật không phải
hoàn toàn ở trong chốn rừng núi để lo
tu tập cho riêng mình mà trong tâm
tôn giả luôn luôn muốn
báo đáp ân đức của Phật đã cho
tôn giả niềm vui
Phật pháp bằng
cách đi hoằng pháp lợi sanh ở những nơi chưa có
đệ tử Phật đến.
Bề ngoài A Na Luật có vẻ
lạnh lùng, nhưng trong tâm thì nhiệt tình vô hạn.
Tôn giả không kể là
hoàng cung vua chúa, hay gia trang của
trưởng giả cho đến núi sâu, rừng thẳm cũng đều thấy hình bóng của
A Na Luật một thời
giảng kinh thuyết pháp độ sanh.
Như tại làng Ma
Na Đề thuộc nước Chiêm Bà có người đau nặng, sau khi nghe
tôn giả thuyết pháp liền dứt hết lo
buồn phiền não và sau đó hết bịnh. Từ việc đem lại niềm vui cho bệnh nhân,
tôn giả cũng phải
đối đầu với bọn hung ác
trên đường hành đạo.
Ngày xưa khi
A na Luật xin ngủ đêm tại một nhà
thường dân, đã bị
thiếu nữ trong nhà
dụ dỗ lôi kéo, từ đó
tôn giả phát nguyện không ghé nhà ai ban đêm. Điều nầy đối với một vị
tỳ kheo đi
hóa đạo thật là bất tiện mặc dù
A Na Luật đã quen với
nếp sống đơn giản là ngày ăn một bữa và đêm ngủ dưới bóng cây.
Một hôm,
A Na Luật đang
du hóa tại một làng quê đến chiều tối thì đi qua khu rừng kế bên để
tọa thiền. Đêm hôm ấy trên không trăng soi mờ nhạt, mặt đất in bóng cây lưa thưa và gió thổi lao xao,
tôn giả khép mắt
ngồi yên đợi cho trời sáng. Đêm càng sâu càng vắng và
bóng dáng tôn giả chìm lẫn trong rừng cây tịch mịch. Bỗng từ xa có nhiều tiếng người
xì xào bước về phía
tôn giả. Khi khoảng cách giữa họ và
tôn giả không còn xa mấy, thì
tôn giả nhận ra đây chính là bọn
cường hào thảo khấu vừa đi
cướp bóc về.
A Na Luật thở dài một tiếng làm kinh động bọn
đạo tặc đang chuẩn bị chia chác
với nhau. Vì tiếng
thở dài của
tôn giả làm cho bọn cường tặc biết có người
nghe lén hành động
đạo tặc của chúng nên chúng
lên tiếng hỏi ngay:
- Các bạn!
Chúng ta bị lộ rồi, thật là xui xẻo,
chúng ta phải giết ngay tên nầy mới được.
Cả bọn rút dao ra, cầm lăm lăm trên tay
sáng ngời và tiến gần đến chỗ ngồi
A Na Luật.
Tôn giả liền nói lớn:
- Các ngươi muốn giết ta thì hãy đến giết đi, nhưng khi ta chết rồi thì các ngươi cũng không toàn mạng.
Bọn cướp nghe nói
kinh hãi,
đưa mắt nhìn nhau, chẳng biết phải
đối phó ra sao. Sau cùng tên đầu đảng
xem xét lại một lúc rồi mới nói:
- Ông là ai? Lại chen vào
phá hoại việc làm của
chúng ta đêm nay?
A Na Luật nghiêm trang trả lời:
- Ta là
sa môn, đang
tịnh tọa tại chỗ nầy. Nếu nói rằng ta thấy các ngươi làm quấy thì được, còn nói ta
phá hoại việc làm của các ngươi thì không đúng.
Tên đầu đảng hỏi:
- Ông sẽ đi
tố cáo chúng ta phải không?
Tôn giả đáp:
- Ta chẳng cần đến quan phủ
tố cáo làm gì. Tuy ta không
báo cáo các ngươi và quan tại địa phương không biết hành động của các ngươi, nhưng
nhân quả báo ứng chẳng
tha cho các ngươi bao giờ. Ta
xót thương cho các ngươi sau nầy chịu nhiều quả khổ
bi thảm. Thật đáng tiếc thay!
Lời nói của
tôn giả đánh thức lương tâm của bọn cướp khiến chúng
vứt bỏ hết
khí giới, lòng hung ác biến đi và được thế bằng
bản chất thuần
lương trung hậu. Tất cả
lãnh thọ lời dạy của
tôn giả và đồng
phát nguyện quy y Phật để
trở lại cuộc sống của những người dân
lương thiện, tử tế.
Phật Dạy
Bát Đại Nhân GiácĐối với
A Na Luật thì việc
hoằng pháp lợi sanh rất quan trọng cho việc phát huy
Phật giáo đến khắp
mọi người, nhưng
tôn giả không bao giờ sao lãng việc
tu học cho chính mình. Một hôm,
tôn giả ở lại nước
Chi Đề và đang
tịnh tọa tại làng Sấu Thủy Chử thì chợt
tư duy về
ý nghĩa chữ Đạo.
A Na Luật tự hiểu rằng: Đạo chẳng phải do
tham dục mà
đạt được mà
cần phải do
tri túc mới
đạt đến. Đạo không thể tìm cầu ở những nơi ồn áo náo nhiệt mà chỉ ở những nơi vắng vẻ
an nhàn mới thấy được đạo.
Cầu đạo thì phải cần
tinh tấn,
chánh niệm cũng như phải
tu học và
trí tuệ mới mong
đạt được.
Lúc
tôn giả đang tu duy về chữ Đạo, thì
Đức Thế Tôn ở tại vườn Lệ Dã thuộc nước Bà Kỳ Sấu dùng tha tâm thong biết được
tâm sở cầu của
tôn giả bèn
đặc biệt ngự đến làng Sấu Thủy Chử để khen
A Na Luật đã
tư duy chân chánh và khởi niệm chân chánh.
Một lần nữa,
tôn giả lại được
vinh hạnh tự thân
Đức Phật quang lâm đến chỗ
cư ngụ của mình.
A Na Luật đem
vấn đề suy nghĩ của mình ra trình và
thỉnh Phật ấn chứng.
Tôn giả thưa:
- Bạch Thế Tôn! Sống trong
tăng đoàn vì
lục hòa mà không nghĩ đến lợi riêng và quên
bản ngã thì điều ấy chúng con làm được cũng như đối với
chúng sanh phải
hết lòng từ bi nhân ái thì điều ấy chúng con đã biết. Nhưng, Bạch Thế Tôn!
Chúng tại gia rất đông và hàng
đệ tử xuất gia đi vào xã hội để
hoằng pháp lợi sanh cũng rất đông thế thì làm thế nào để họ cũng được
giác ngộ, tấn
nhập Niết Bàn. Xin
Đức Phật từ bi khai thị.
Đức Thế Tôn bèn
hoan hỷ giảng
Bát Đại Nhân Giác:
-
A Na Luật! Ông hỏi điều ấy rất hay. Ông đã nghĩ đến
vấn đề cho người
tu học Bồ Tát đạo, ta sẽ vì ông nói
Bát Đại Nhân Giác cho hàng
đệ tử Phật
chí thành tụng niệm cả ngày lẫn đêm:
Ø Điều thứ nhất: Các ông đối với
thế gian và
nhân sinh nên quán
vô thường,
vô ngã, nỗi khổ,
lý không và
bất tịnh. Nên rời xa
sanh tử để cầu được
giác ngộ.
Ø Điều thứ hai: Các ông
cần phải biết căn nguyên của nỗi khổ vốn là đối với
tham dục thế gian không chịu rời bỏ. Các ông nên ít muốn
vô vi thì
thân tâm mới được
tự tại.
Ø Điều thứ ba: Các ông cần xét kỹ
tâm không biết chán đủ của mình, suốt ngày do tham cầu mà tạo tội.
Nếu có thể an bần thủ đạo,
tri túc thường lạc, lấy
trí tuệ làm
sự nghiệp thì cuộc sống mới được
bình an.
Ø Điều thứ tư: Các ông không được làm biếng hay trễ nãi trong khi làm
việc lành và đối với sự
lợi ích cho người không nên
thối tâm. Phải
tiêu diệt phiền não,
hàng phục ma chướng mới có thể ra khỏi lao ngục của
ba cõi.
Ø Điều thứ năm: Các ông
cần phải nhận định cho
rõ ràng là
sanh tử luân hồi rất
đáng sợ nên
cần phải chuyên tâm tu học để
thấu triệt đạo lý nầy rồi
phát tâm giáo hóa chúng sanh để đem
an lạc đến cho họ.
Ø Điều thứ sáu: Các ông phải biết rằng người
nghèo khổ rất nhiều lòng
oán hận.
Bồ tát phải đem tài vật
cứu tế cho họ, dùng
tinh thần an ủi họ và dạy họ không nên ghi nhớ
hận thù cũng
như không nên oán trách người khác.
Ø Điều thứ bảy: Các ông trong
cuộc đời đừng để cho
ngũ dục đánh ngã. Không kể là
tại gia hay
xuất gia, đừng
chạy theo đắm nhiễm
dục lạc của
thế gian và cần có
nếp sống thanh tịnh tinh khiết.
Ø Điều thứ tám: Các ông đừng làm kẻ
ích kỷ, nên
phát tâm từ bi để độ khắp tất cả
chúng sanh và nguyện cho
chúng sanh bớt khổ cũng như đừng vì lợi riêng mình mà
cầu an lạc.
Ø Nhân lời thưa hỏi của
tôn giả A Na Luật mà
Đức Phật đã giảng tám điều
cần yếu cho người
tu học Bồ Tát đạo.
Chúng sanh theo đó mà
tu hành để
cải thiện sinh hoạt hằng ngày khiến cho
nếp sống của họ trở nên
an lạc và
tự tại.
Lời Sau Cùng Với
Đức PhậtSự
hoạt động tích cực của
tôn giả bên ngoài
tăng đoàn như thế nào thì bên trong
Đức Phật cũng đãi ngộ
tôn giả như thế ấy.
Tôn giả cùng các vị
đại đệ tử của Phật như
Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên… là những tấm
gương sáng cho
Phật giáo trải dài mấy ngàn năm
trong lịch sử.
Khi
giác hạnh của
Đức Phật đã
viên mãn thì Ngài đã 80 tuổi và
Đức Thế Tôn quyết định nhập diệt tại thành
Câu Thi Na bên rừng cây
Long Thọ thì
tôn giả A Na Luật và
tôn giả A Nan đều có mặt bên cạnh.
Lúc ấy nhằm ngày rằm tháng hai,
Đức thế Tôn nằm nghiêng giữa hai cây
Long Thọ có hoa đỏ thắm phủ trên thân Ngài trên đỉnh núi phía Tây với trăng tròn chiếu sáng. Các
đệ tử vây quanh bốn bên và quỳ lớp lớp từ trong ra ngoài để nghe
Đức Phật thuyết giảng lần
cuối cùng. Ngài dặn dò
cặn kẽ các
đệ tử nên giữ
trì giới,
hoằng pháp lợi sanh,
tinh tấn tu tập, nêu cao đức tính
nhẫn nhục và
giữ gìn khẩu nghiệp.
Cuối cùng, như còn lo ngại cho hàng
đệ tử về sau,
Đức Phật dạy:
- Này các tỳ kheo! Đối với pháp ta đã giảng dạy, các ông
cố gắng noi theo chớ đừng
quên lãng. Ta
ví như ông
lương y chẩn bịnh cho thuốc mà lành bệnh hay không chẳng phải lỗi ở thầy, ta cũng như người
dẫn đường tài giỏi để dẫn người đi đến đường lành, còn đi hay không chẳng phải là lỗi ở người hướng dẫn. Này các tỳ kheo! Những
pháp như tứ diệu đế,
mười hai nhân duyên ta đã nói đó đều là
chân lý mà ta đã
chứng ngộ và nó sẽ là
ngọn đèn sáng cho
thế gian và cũng là chiếc thuyền
vượt qua biển khổ. Người nào
hiểu rõ không còn
nghi ngờ đối với các pháp đó là đã vào đạo. Nay ta sắp
nhập diệt, nếu các ông còn có điều gì
nghi ngờ hãy mau ra thưa hỏi, ta sẽ
giải thích cho.
Đức Phật đã tha thiết hỏi đi hỏi lại ba lần trong đêm
vắng lặng, nhưng
đại chúng đều lặng thinh không một lời thưa hỏi. Thật ra
đại chúng đều là những
đệ tử theo Phật lâu năm nên đối với các pháp
căn bản không còn chỗ nào không hiểu.
Lúc ấy,
tôn giả A Na Luật là người
đủ tư cách đại diện cho
tăng đoàn, bèn quỳ gối mặt rồi
chắp tay cung kính mà
bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn!
Đệ tử chúng con đều đã hiểu sâu pháp
tứ diệu đế và
mười hai nhân duyên là
chân lý của
vũ trụ nhân sinh. Trên
thế gian nầy,
mặt trời có thể lặn,
mặt trăng có thể nóng,
tuyết sơn có thể
biến thành biển cả và
đại địa có thể thành gò đất, nhưng
giáo pháp tứ diệu đế và
mười hai nhân duyên của Phật thì không bao giờ thay đổi.
Đức Phật an tịnh nghe
A Na Luật thưa xong thì trên gương mặt lộ vẻ
hoan hỷ vì câu
trả lời của
A Na Luật đã
đáp ứng được sự
lưu tâm của Ngài
trong suốt 49 năm
hành cước hóa độ chúng sanh. Sau khi
Đức Phật nhập diệt thì
tôn giả cùng với 500 vị
đại A La Hán lo
kết tập kinh điển trong
núi Kỳ Xà Quật, nhưng không thấy nói đến
sự tích của
tôn giả về sau kể cả việc quan
trọng như tôn giả nhập diệt ở đâu và khi nào? Thật là một điều đáng tiếc!
Tôn giả A Na Luật có
ý chí kiên cường không lay chuyển. Cho dù có mù đi đôi mắt mà không hề
thối tâm khiến cho
đại chúng hết lòng cảm phục. Mất
nhục nhãn mà được
thiên nhãn giúp cho
tôn giả tu hành và
truyền đạo vô cùng an tường tự tại.
Tôn giả A Na Luật quả thật xứng danh là vị
thượng thủ trong
giáo đoàn.