THỨC ĂN ĐỂ TỒN TẠI
Thích Tuệ Sỹ
Vậy, những loại
thực phẩm nào
trưởng dưỡng, đưa đến
trạng thái điều hòa giữa
nội giới và
ngoại giới, là
điều kiện tất yếu cho sự phát triển của sinh vật trong nấc thang tiến hóa?
Khế kinh nói có bốn loại
thực phẩm:
1.
Đoàn thực hay
đoạn thực2.
Xúc thực3. Ý
tư thực4.
Thức thựcTùy
trình độ phát triển của từng bậc mà
thực phẩm được chia thành bốn loại như vậy.
Thức ăn nào cũng cần sự
tiêu hóa, nghĩa là
thực phẩm sau khi được
dung nạp phải qua một quá trình
chuyển hóa thì mới thành
thức ăn thật sự.
Đối với các Thánh như A-la-hán thì
các loại thức ăn này không
cần thiết nữa.
Tuy nhiên, các vị Phật, các vị
Thánh giả khi chưa nhập Niết-bàn, còn
tồn tại thân xác, vẫn cần đến bốn loại
thức ăn này.
1- Đoàn thực hay Đoạn thựcTiếng Phạn là kavaḍikārāhāra. Trong đó, từ kavaḍa, nghĩa là một miếng; và kavaḍi-kārā: làm thành một miếng. Trong chữ Hán, chữ đoàn có nghĩa là vo tròn lại. Gọi là
đoàn thực vì ở
Ấn Độ có cái tục ăn bốc, người
Ấn Độ thường vo tròn
thức ăn lại rồi bốc ăn, nên các vị
ngày xưa mới dùng
hình tượng ăn bốc để chỉ chung cho tất cả
thức ăn vật chất. Ngay cả nước thường là uống bằng ly nhưng nước
dưới sông cũng có thể vốc vào tay rồi uống; do vậy, nói
thức ăn (
thực phẩm) là
bao gồm cả
thức uống. Nhưng
ý nghĩa này không
phù hợp với phong tục, tập quán người Hán, nên ngài
Huyền Trang dịch lại là
đoạn thực, chỉ
thức ăn bằng phiến đoạn, có thể chỉ cắt thành từng phần đoạn.
Nói chung,
đoàn thực hay
đoạn thực là loại
thực phẩm vật chất được
tác thành bằng
bốn đại chủng; chúng hợp thành ba loại đối tượng của
giác quan: hương, vị và xúc. Xúc được
dung nạp qua
xúc giác, hương được
dung nạp qua
khứu giác, và vị được
dung nạp qua
vị giác. Cả ba
yếu tố này, sau khi được
dung nạp phải
trải qua quá trình
chuyển hóa mới
trở thành dưỡng
chất để làm
năng lượng duy trì và
tiến hóa của sự sống. Cơ bản, tất cả
chúng sinh đều cần đến loại
thức ăn là thức mà ta có thể gọi là
bản năng sinh tồn, nhưng trong quá trình
tiến hóa của sinh vật, có loài chỉ có
đoạn thực là
thức ăn duy nhất được biết đến. Chẳng hạn, loại
chúng sinh chỉ có một căn, tức
mạng căn là quan năng
duy trì sinh mạng
tồn tại, vì
thức thực thuộc về
bản năng tự nhiên của sinh vật nên không được xét đến. Loại
chúng sinh này vì không có các quan năng khác nên không có
xúc thực; chúng cũng không có
ý thức nên không có ý
tư thực.
Tất cả
chúng sanh trong
Dục giới, kể cả
chư Thiên cho đến một phần
chúng sinh trong
địa ngục đều cần có
đoạn thực.
Đoàn thực có hai loại: thô và tế. Thô là
thức ăn,
thức uống. Tế là sự tắm rửa, áo quần che chắn… Nhưng thô tế còn
tùy theo loại, vì đối với loại này là thô nhưng lại là tế đối với loại kia. Đối với
chúng ta, cơm, gạo là thô; nước và những cái khác là tế; đó là
tính cách tương đối của thô, tế. Ở đây,
chúng ta không
bàn luận về
tính chất thô tế của
thực phẩm mà chỉ chú trọng
bản chất của nó thôi.
Vậy,
bản chất này là gì? Theo định
nghĩa kinh điển, cái gì làm
trưởng dưỡng và
tăng ích các căn, thì cái đó mới được gọi là
thực phẩm (dưỡng chất).
Trong ba
yếu tố tạo thành
đoạn thực, xúc là cái được nạp thọ bởi thân. Đói và khát là 2 trong 11 loại xúc. Đói là muốn ăn, khát là muốn uống (định nghĩa của Câu-xá).
Yếu tố thứ hai là hương, tức mùi hương. Hương có
tác dụng tăng ích nếu đó là
mùi thơm. Mùi thối thường gây
tổn hại nên không được kể là
thực phẩm. Thứ nữa là vị;
thực phẩm có 6 vị: mặn, nhạt, chua, cay, đắng, ngọt. Những thứ
chúng ta ăn vào như
ngũ cốc, rau trái các thứ, chưa được kể là
thực phẩm, mà các
yếu tố hương, vị, xúc hàm chứa trong đó mới đáng nói đến.
Thật ra cả ba
yếu tố xúc, hương và vị cùng được nạp thọ
một lần như là một tổ hợp, nhưng để cho
dễ hiểu nên
chúng ta phân tích thành xúc riêng, hương riêng và vị riêng.
Cụ thể, khi
chúng ta đưa
thực phẩm vào miệng (
thân căn), thì lưỡi là phần thứ nhất của
thân căn xúc chạm
thức ăn, với
cảm xúc là cứng hay mềm, nóng hay lạnh; thứ đến ta có
cảm giác mặn, lạt, chua, cay, ngọt, đắng... đó là vị;
đồng thời cũng cảm nhận được mùi của nó là thơm hay thối, khó ngửi hay
dễ chịu, đó là hương.
Xúc, hương và vị sau khi được
dung nạp phải
biến hoại thì khi đó mới
trở thành dưỡng chất.
Biến hoại ở đây không phải là tiêu hoại theo nghĩa
vô thường mà là
tiêu hóa metabolism).
Nếu không tiêu hóa được, thì cái được ăn vào không những không
trưởng dưỡng và
tăng ích các căn mà có khi còn gây
tác hại. Do vậy,
chúng ta sau khi ăn tuy
cảm thấy hết đói, nhưng
thực phẩm đó cũng chưa chắc
trở thành dưỡng chất, nếu nó không được tiêu biến.
Cần
lưu ý, xúc của
đoạn thực chỉ là xúc của
thân căn thôi. Do vậy,
sắc xứ không phải là
đoạn thực.
Sắc xứ là gì? Nói riêng biệt,
sắc xứ chỉ cho những gì là đối tượng của mắt nhìn. Duyên mắt (căn) và sắc (cảnh) mà thức con mắt phát sinh. Tai và tiếng,
cho đến thân và cái được xúc chạm cũng vậy. Tổ hợp ba gồm căn, cảnh và thức là xúc. Xúc này không phải là
yếu tố trong
đoạn thực. Chính nó là
xúc thực. Con mắt cần
xúc thực để
tồn tại và
tăng trưởng; vì nó
cần phải nhìn những gì
thích hợp mà không bị
tổn hại, như đối tượng không sáng quá hoặc tối quá. Các cõi từ
Sơ thiền trở lên có xúc nhưng không có hương và vị, tức là không có
khứu giác và
vị giác, do đó không có
đoạn thực. Mặc dù
chúng sanh ở đó được nói là
vẫn có mũi và lưỡi nhưng chỉ là
hình thức để trang trí cho đẹp chứ không có
tác dụng gì cả. Điều này có nghĩa là
đoạn thực chỉ có trong
Dục giới mà thôi, còn từ
Sắc giới trở lên không còn cần đến nó nữa.
2- Xúc thựcThức ăn do
tiếp xúc, do xúc chạm. Hình thái của xúc là
tiếp xúc ngoại cảnh, tức căn và cảnh
tiếp xúc nhau ngay khi đó
nhận thức khởi lên. Căn, cảnh, thức, ba thứ này hòa hiệp thành tổ hợp xúc.
Căn-cảnh-thức
hoạt động theo hướng
tích lũy. Nói chung, tất cả
các loại thực đều do
tích lũy mà có
tác dụng tăng ích –
bản chất sự vật là như vậy. Nhưng
sự tích lũy cũng có
giới hạn của nó; hơn nữa
vật chất có
sanh diệt, chỉ
tồn tại một
thời gian ngắn rồi hủy. Cái này diệt là
điều kiện (duyên) cho cái khác sinh.
Hiện tượng áp suất là một minh họa
cụ thể.
Xúc thực cũng vậy, vì
bản chất của nó là
vật chất.
Xúc có hai loại: xúc
hữu lậu và xúc
vô lậu. Tất cả
chúng sanh từ
Dục giới cho đến Vô sắc giới đều
tồn tại bằng
xúc thực. Với hạng
phàm phu, khi con mắt nhìn cảnh thì
nhãn thức khởi lên, và tạo thành tổ hợp xúc
hữu lậu, nhưng với một vị A-la-hán thì tổ hợp này là xúc
vô lậu.
Thai nhi chỉ có thân xúc và ý xúc, còn các xúc kia chưa có vì các căn chưa phát triển đầy đủ. Thân xúc của
thai nhi là những
điều kiện bảo vệ của người mẹ như nhiệt độ nóng, lạnh điều hòa,
ăn uống những chất bổ dưỡng; đây là xúc thuận ích. Nếu
điều kiện bảo vệ (thân xúc) này thiếu hay không điều hòa hoặc người mẹ bị
va chạm mạnh thì
thai nhi sẽ không
trưởng thành hoặc sẽ bị hủy; đây là xúc
tổn hại.
Tuy các căn chưa phát triển đầy đủ nhưng
thai nhi cũng có ý xúc, vì ý lúc này chính là ý tiềm tàng từ trong
chủng tử phát khởi, nó
gồm có hai phần: thức mạt-na và thức thứ sáu. Thức thứ sáu
dựa trên thân thức. Như vậy, khối
vật chất danh sắc tồn tại tối thiểu bốn thức: Thức A-lại-da (thức thứ tám), thức mạt-na (thức thứ bảy), thức thứ sáu (
ý thức) và
thân thức (năm thức trước). Nói chung, khối
vật chất danh sắc chứa đựng ba tầng
hoạt động của thức. Tầng sâu nhất là thức thứ tám, tầng
trung gian là thức thứ bảy, tầng ngoài cùng là thức thứ sáu và năm thức trước. Chính
xúc thực đã làm cho các tầng thức này phát triển. Sự phát triển này chung cho tất cả
chúng sanh từ
Dục giới cho tới
Vô sắc giới. Đối với
thai nhi chỉ có sự xúc chạm là những
điều kiện bảo vệ,
cho đến khi phát triển đầy đủ mắt, tai, mũi, lưỡi.
Thai nhi sau khi được sinh ra, các căn đều cần có xúc, bấy giờ tự nó xúc (xúc chạm) lấy để phát triển.
Giai đoạn phát triển của khối
vật chất chỉ có
sáu xúc vì sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý phải luôn luôn có xúc mới
tồn tại và phát triển. Nếu tính cả chu kỳ phát triển của sự sống thì phải đủ cả tám xúc.
Nói rộng, bất cứ cái gì cũng cần có xúc để phát triển, như cây cối cũng cần sự xúc chạm của nhiệt độ ấm, nóng hay thậm chí cả
âm nhạc để phát triển, nhưng sự phát triển này không thuộc loại
chấp thọ đại chủng, mà xúc ở đây là
sự tích lũy trong
trạng thái quan hệ hòa hiệp của các pháp. Các pháp hòa hiệp nhau thì phát triển
tồn tại, nếu nghịch nhau thì nó rã ra. Tụ và tán, đó là của
quy luật tồn tại, chứ không phải là
xúc thực. Xúc trong căn, cảnh, thức mới là
xúc thực.
Trong bốn loại
thực phẩm,
thức ăn của con mắt thuộc loại
xúc thực chứ không phải
đoạn thực. Khi con mắt nhìn sắc, sắc này đương nhiên cũng
biến hoại vì
bản chất của nó là như vậy. Nhưng nó không biến
hoàn toàn như vật thực được
tiêu hóa trong dạ dày. Cho nên,
sắc xứ như xanh, vàng, đỏ, trắng các thứ không thể
thành thực phẩm như dạng vật thực, mà
thành thực phẩm theo dạng xúc. Đây là chỗ cần
phân biệt giữa
đoạn thực và
xúc thực.
Căn-cảnh-thức hiệp lại tạo thành xúc. Xúc
đưa tới thọ. Thọ là
cảm giác, trong thọ có
khổ thọ,
lạc thọ và
xả thọ (phi khổ phi
lạc thọ).
Lạc thọ là
cảm giác thoải mái,
đưa tới sự phát triển, gọi là
tăng ích thọ và xúc
đưa tới sự phát triển là thuận ích xúc, tức là xúc làm cho
vật chất hài hòa.
Khổ thọ là
trạng thái khó chịu, luôn gây
tổn hại, làm cho các căn
va chạm nhau rồi dẫn đến tan rã.
Khổ thọ thật ra là
trạng thái không điều hòa giữa
vật chất và
tinh thần, tức
trạng thái mất
quân bình, không cân bằng giữa căn, cảnh khi
tiếp xúc với nhau.
Trạng thái không cân bằng này tạo ra sự
thoái hóa,
ban đầu các căn (phần
vật chất) bị hỏng nhiều hay ít. Như khi
chúng ta ăn phải chất độc (
đoạn thực), cơ thể sẽ
phản ứng làm
chúng ta buồn nôn khó chịu hay bị
ngộ độc; đây gọi là
ngộ độc thức ăn. Con mắt cũng có sự
ngộ độc bởi xúc, nhưng vì nó chịu
ảnh hưởng tác hại bên trong, không thể nhìn thấy.
Xả thọ cũng gồm hai phần: xả thuận ích (xả
bình thường) và xả
tổn hại (không
khổ không lạc).
Cảm thọ lạc đưa đến sự
tiến hóa. Như người
thiền định, thì
cảm thọ lạc trong
thiền định càng ngày càng tăng.
Lạc thọ của
thiền định là một loại
thức ăn nuôi dưỡng cơ thể. Nhưng,
vật chất có
giới hạn, nên cơ thể
con người phát triển cao và nặng tới mức nào đó thôi, nếu như phát triển
quá mức thì sẽ
trở thành bệnh, như bệnh béo phì.
Trái lại, khi
cảm thọ trong
thiền định tăng lên sẽ phát triển khả năng
duy trì thân thể đó nên không cần ăn mà vẫn
tồn tại,
đồng thời cảm thọ còn phát sinh thêm một loại khác nữa mà
chúng ta không thấy, đó là quan năng của
giác quan phát triển đến mức mắt có thể nhìn thấy những vật
rất tinh vi mà không cần kính hiển vi; đây là sự khuếch trương căn mà
chúng ta gọi là
thiên nhãn. Điều này nghe có vẻ
thần bí nhưng trong
lý luận chúng ta thấy
thích hợp với sự phát triển
tự nhiên của
quy luật tiến hóa, giống như con vật bốn chân có thể đứng được trên hai chân, để rồi chạy nhảy và
dần dần tiến hóa lên có thể bay được.
Như đã
giải thích, thức nào khởi lên cũng đều có xúc cả,
A-lại-da thức cũng có xúc. Do vậy, có tất cả tám xúc, nhưng
ý nghĩa thực phẩm (
xúc thực) của
ý thức là
nổi bật hơn hết. Năm thức trước
hoạt động có
giới hạn. Trong quá trình
tiến hóa, từ
sơ thiền trở lên năm thức trước bị mất dần, còn thức thứ sáu thì
tồn tại trong cả
ba cõi. Lại nữa, khi
tiếp xúc với cảnh thô hiển bên ngoài,
ý thức thu nhận cảm thọ hỷ, lạc và xả thuận ích,
mà cả ba loại
cảm thọ này đều có khả năng
duy trì và phát triển, trong khi thức thứ bảy lấy đối tượng là thức thứ tám quá
vi tế và thức thứ tám chỉ
tương ưng với
xả thọ.
Do
tính chất phổ biến trong
ba cõi và
ý nghĩa dinh dưỡng của thức thứ sáu
nổi bật hơn các thức khác nên
ý nghĩa thực phẩm (
xúc thực) của nó cũng
nổi bật hơn cả. Ở đây chỉ nói đến
sáu xúc vì chỉ
giới hạn trong
ba cõi.
Xúc thực lên cao nhất là
Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.
Vô sắc giới, lên một bậc nữa là
Diệt tận định, xúc này không còn.
Vô sắc giới tuy không có con mắt nhưng vẫn còn ý
phân biệt, tức là trong
cảm thọ của tầng
thiền định cao nhất vẫn còn
xả thọ, song
xả thọ này là thuận ích, tức
cảm thọ đưa đến sự điều hòa để
duy trì tồn tại.
Vô sắc giới không có sắc nên đây là
tồn tại với
ý thức và căn của
ý thức.
Hiện tại,
chúng ta được
nuôi dưỡng bằng
thực phẩm cơ bản là
đoạn thực và có thể có đủ khôn ngoan để
lựa chọn loại
đoạn thực thích hợp, vừa ngon vừa bổ dưỡng, nhưng với
xúc thực thì
chúng ta chỉ như trẻ nít cho gì ăn nấy, không
phân biệt tốt xấu. Cho nên kinh sách Hán nói: “Nhãn bị sắc khiển quy ngạ quỹ; nhĩ tùy thanh khứ nhập A-tỳ” (Mắt bị sắc lôi vào đường
ngạ quỷ; tai bị tiếng dẫn xuống
địa ngục A-tỳ). Những ai đã từng có
kinh nghiệm lạc thọ của
thiền định đều có thể biết rõ
ý nghĩa tăng ích và
tổn hại của loại
xúc thực này.
3- Ý TƯ THỰCThức ăn bằng ý tư, bằng
tư tưởng,
ý chí; nói chung, nó là
hy vọng tương lai. Người ta thường nói: sống là
hy vọng. Nhưng
chính xác hơn nên nói: sự sống được
duy trì bằng
hy vọng và
ý chí.
Tư là
tư duy,
tư tưởng. Ý là
ý chí.
Hoạt động của
ý thức có hai phần,
tư duy và có
ý chí. Bằng
tư duy,
ý thức duyên đến những cái
trừu tượng liên hệ đến sự vật hay sự việc trong
ba đời. Còn
ý chí thì luôn luôn hướng đến tương lai và
quyết định nên làm gì để
tồn tại.
Cơ
bản hình thái của tư là
hy vọng và
quyết định, là thức
hữu lậu cùng
hoạt động song hành với dục, nghĩa là tư khởi lên thì dục cũng khởi lên theo.
Cần
lưu ý, có 2 từ Sanskrit là chanda và kāma mà Hán dịch chỉ một từ là dục. Dục được nói ở đây, tiếng Phạn là chanda, chỉ
hy vọng, ước muốn; chứ không phải kāma:
dục vọng,
ham muốn vật chất,
tham muốn dục lạc. Có năm
yếu tố tạo thành kāma: sắc (sắc đẹp), thanh (tiếng hay), hương, vị, xúc. Những cái hưởng thụ
dục lạc này mang tính
hiện tại, vì sắc, thanh, hương, vị,
xúc chỉ có
tác dụng trong
hiện tại. Còn dục chanda là
hy vọng, ước muốn, mong muốn một
sự kiện gì đó xảy ra; thành ra đối tượng của cái dục này là tương lai. Ý tư là
ý chí sinh tồn, là nguồn
hy vọng duy trì sự sống, mất
hy vọng thì mất
năng lực duy trì. Do vậy, ý tư là một loại
thức ăn.
Tư khởi lên cùng với
ý thức để mong cầu cái gì đó ở tương lai. Khi
chúng ta muốn làm việc gì đó, như
ăn cắp,
ăn trộm hay
bố thí,
phóng sanh, thì
ý chí,
động lực của
ý muốn sẽ
thúc đẩy hành động khởi lên, lúc đó tư
trở thành thực phẩm. Còn tư theo
ý nghĩa nhớ lại
quá khứ, nó là tư niệm. Niệm
hoạt động với tư, niệm tư này không thể
trở thành thực phẩm.
Cùng
tương ưng sáu thức, có sáu nhóm tư (
lục tư thân), và đều có thể làm
thức ăn, nhưng
nổi bật nhất là tư của thức thứ sáu (ý tư). Vì
đặc sắc của
ý thức là
hy vọng, trước một cảnh vật, một đối tượng, mong cầu một đối tượng sẽ đến trong tương lai. Năm thức trước chỉ
hoạt động trong
hiện tại, không có
hy vọng.
Ý thức là
hoạt động cả ba thời, cho nên sự mong cầu với đối tượng tương lai là ở thức thứ sáu.
Trong kinh có dẫn một
câu chuyện về ý
tư thực như sau:
Trong
quá khứ trước thời
đức Phật, một
gia đình nọ có ba bố con, gặp lúc trời hạn
mất mùa đói kém, người bố lại thất nghiệp không kiếm được
việc làm, nhà đã mấy ngày hết gạo, ba bố con không có gì
ăn uống cả. Bấy giờ, người bố lấy một cái bao đựng toàn cát treo lên trần nhà và nói với hai đứa nhỏ rằng, “Gạo bố
để dành đây. Hai con hãy ngồi đợi bố ra ngoài tìm
thức ăn, khi về bố sẽ nấu cơm cho các con ăn”. Thật ra người bố đi tìm gạo. Hai đứa nhỏ ở nhà cứ nhìn lên bao cát và nghĩ rằng có gạo ở trong đó và chờ bố về lấy xuống nấu cơm, nên chúng cứ
hy vọng là sẽ có cơm ăn. Do
hy vọng đó mà hai đứa trẻ đã có thể sống được trong khi người bố đi tìm gạo không được và cứ đi mãi.
Thời gian sau, không rõ là bao lâu, có người hàng xóm tới (chắc cũng đi tìm
thức ăn), hỏi hai đứa nhỏ: “Bố các con đi đâu rồi, có gì ăn không?” Đứa trẻ
trả lời: “Thưa, có gạo. Nhưng bố con treo cao quá nên không lấy xuống được”. Người hàng xóm nghe vậy cũng mừng và nghĩ là gạo thật nên
vội vàng lấy xuống. Không ngờ mở bao ra chỉ toàn là cát. Hai đứa trẻ bấy giờ nhìn thấy toàn cát, mất
hết hy vọng được ăn, liền ngã lăn ra chết.
Qua
câu chuyện trên đây,
chúng ta có thể
suy luận và
nhận thấy rằng,
ý muốn,
hy vọng tuy không
trưởng dưỡng, không nuôi lớn sự sống, nhưng cũng
duy trì được sinh mạng trong một
thời gian nào đó, cho nên
hy vọng cũng là
thức ăn.
Hy vọng này không phải là
khát ái, mà là một loại
tin tưởng, là
niềm tin và rất
cần thiết cho sự sống.
4- THỨC THỰCThức ăn là thức hay là
thức ăn bởi thức, và hình thái
hoạt động của nó là
chấp trì.
Chấp trì thế nào? Cơ thể sau khi
dung nạp đoạn thực vào,
thể lực được
tăng trưởng làm cho thức (
hữu lậu) cũng tăng.
Xúc thực, ý
tư thực cũng vậy, đều
nuôi dưỡng các căn và làm cho thức
tăng trưởng.
Đoạn thực,
xúc thực và ý
tư thực duy trì hiện tượng tồn tại và sự
tồn tại này luôn luôn hướng đến tương lai.
Xúc thực vừa
duy trì hiện tượng tồn tại và phóng tới tương lai; nó làm
tăng trưởng thức. Mà
hoạt động cơ bản của thức là
duy trì,
chấp trì cái
hiện tại, nên nói
thức thực có khả năng
chấp trì. Khi thức
tăng trưởng, nó
trở lại nuôi dưỡng,
duy trì năm căn và
duy trì cả
ý căn.
Ngoài ra, Kinh nói:
Thức thực là
phiền não. Dòng
liên tục của thức là tự ngã. Có
tồn tại ý niệm về tự ngã thì mới có khả năng
duy trì sự sống, nên
thức ăn của thức chính là
phiền não, bởi nó
nuôi dưỡng và làm
tăng trưởng chấp thọ, hướng đến tương lai và
tác thành một đời sống tương lai. Như vậy,
thức thực duy trì ái, và tất cả các thứ khác. Nó
duy trì tồn tại hiện tại và phát triển các thủ (uẩn) trong tương lai; do đó nói
thức thực chính là
phiền não.
Sự sống được nói ở đây là sự sống của
hữu tình chứ không phải là của cây cỏ;
tuy nhiên trong
thế giới này,
các loại hữu tình hay vô tình đều có cấu trúc sự sống cơ bản tương đồng là
vật chất hay
sắc pháp được tạo thành bởi các
đại chủng. Nơi loài vô tình, các
đại chủng này thuộc loại phi
chấp thọ; trong khi nơi các loài
hữu tình, chúng là
đại chủng có
chấp thọ, tức có khả năng
tiếp nhận kích thích dẫn đến
cảm thọ khổ hay lạc. Từ thọ khởi lên
tham ái trong quá trình
duyên khởi xúc, thọ, ái, thủ, hữu; quá trình
tác thành sự sống có
ý thức,
diễn tiến trật tự theo
quy luật tự nhiên, gọi là
duyên khởi.
Yếu tố tạo nên sự sống là
công năng, tức
chủng tử hay gọi là
tập khí.
Tập khí có ba nhóm:
danh ngôn tập khí,
ngã chấp tập khí và
hữu chi tập khí.
Trong quá trình
nhận thức, khi căn, cảnh, thức hòa hiệp thì sinh ra xúc, tùy xúc mà có thọ;
tùy theo thọ mà tưởng khởi lên với sự
can thiệp của
ý thức. Nó cấu trúc và phân loại các
đặc điểm được
ghi nhận từ đối tượng thành các
ấn tượng cá biệt, và mỗi
ấn tượng được
lưu trữ bằng một tên gọi. Sau đó, chỉ gợi lên tên gọi, kéo theo nó là
toàn thể ảnh tượng của đối tương
bao gồm toàn bộ hình thái được
nhận thức trong
quá khứ,
hiện tại và tương lai. Đó là
danh ngôn tập khí, cơ sở để ký ức được
tích lũy. Ký ức được
tích lũy tác thành ý niệm phân biệt sự
tồn tại của tự ngã, một tự thể
tồn tại liên tục từ trước đến
hiện tại và có thể lưu tồn
trong suốt tương lai; đó gọi là
ngã chấp tập khí. Nhưng thật ra không có một tự ngã
liên tục thường hằng, mà chỉ là dòng
sinh diệt liên tục không
gián đoạn của
năng lực chủng tử, được
ý thức cấu trúc
phân biệt thành hình ảnh một tự ngã
thường hằng.
Công năng chủng tử được cấu trúc
phân biệt như vậy tạo thành
động lực tái sinh; gọi đó là
hữu chi tập khí.
Trong ba loại
tập khí này, nguồn gốc tạo nên sự sống là
nhận thức và hành động.
Nhận thức chính là
phân biệt tập khí.
Hằng ngày,
chúng ta nhận thức các đối tượng qua các
giác quan, rồi
ý thức cấu trúc chúng lại thành các hợp thể, sau đó lưu vào bộ nhớ và
trở thành tập khí tồn tại dưới dạng
công năng được gọi là
chủng tử. Bộ nhớ này chính là thức thứ tám. Còn hành
động tức là
nghiệp cảm. Nghiệp là hành động do tham-sân-si, hay đối nghịch lại là
vô tham -
vô sân -
vô si,
ý muốn thiện hay
bất thiện khởi lên
thúc đẩy. Tất cả những hành động như vậy lưu lại thành
tập khí. Rồi những
tập khí này tạo thành dòng sống
tiếp nối liên tục từ đời này sang đời khác do được
chấp trì bởi thức thứ tám. Như vậy, ngoài sáu thức,
tồn tại một
bản chất tạo
thành sự sống.
Bản chất này là do
chúng ta tạo ra chứ không phải ai
ban cho.
Bản chất này
ô nhiễm hay
thanh tịnh là
tùy theo chúng ta tạo ra những
tập khí tốt hay xấu; do vậy,
đời sống khổ đau hay
hạnh phúc là
tùy thuộc vào
chủng tử mà
chúng ta tạo ra, chứ không có một thứ
quyền năng hay
Thượng đế nào có thể
can thiệp được.
Quay trở lại danh sắc, bốn
thức ăn này làm cho
danh sắc phát triển tức là trong
danh sắc đã có thức rồi nhưng thức phát triển chưa đầy đủ vì căn phát triển chưa đầy đủ. Căn càng ngày càng phát triển thì
thức ăn cũng ngày càng phát triển. Từ
danh sắc phát triển dần
cho đến khi
thành hình đầy đủ một
hữu tình thì bốn loại
thức ăn cũng theo đó và
tùy theo cấp bực mà phát triển.
Đoạn thực chỉ hữu dụng ở
Dục giới. Trong
Sắc giới chỉ
tồn tại xúc thực. Xúc và ý
tư thực tuy
phổ biến cả ba giới nhưng do y trên thức mà
hoạt động nên
tùy theo thức mà có mặt hay không. Nói chung, cả
ba cõi đều có
xúc thực, nhưng ở
Sắc giới xúc thực nổi bật nhất, vì trong
Sắc giới có
Tứ thiền và xúc trong
Tứ thiền có hỷ, lạc và xả. Khi lên
Vô sắc giới, xúc ở đây rất
vi tế, chỉ có xả (
xả thọ) và thức mà thôi, trong đó cũng có ý
tư thực. Ba loại
thức ăn trước, từ
đoạn thực,
xúc thực cho đến ý
tư thực, đều có
tác dụng phát triển các căn và
đồng thời làm
tăng trưởng thức. Khi thức phát triển thì
tham ái phát triển. Rồi đến lượt chính
tham ái khởi
ý muốn đi tìm
thức ăn để
duy trì sự sống,
duy trì sự
tồn tại của các căn. Đây là mối quan hệ
hỗ tương giữa bốn loại
thức ăn.
Chúng sanh cần
thức ăn cũng giống như xe cần
năng lượng chất đốt.
Thức ăn là
nguyên nhân tạo thành
ba cõi và dẫn
chúng sanh đi lòng vòng trong
sanh tử. Chỉ khi nào
năng lượng chất đốt không còn thì xe mới ngừng chạy. Nói cách khác là trong
thế giới vật chất,
chúng ta bị khống chế bởi
thân thể vật lý, nên đi đứng nằm ngồi đều bị
chướng ngại bởi mưa gió, nhiệt độ nóng lạnh, lúc thì
cảm thấy khỏe, lúc thì
cảm thấy mệt mỏi; đây là những
chi phối căn bản không ai thoát được, ngay cả bậc Thánh nếu còn
thân thể thì cũng còn bị
chi phối bởi thân xác đó. Càng lên cao thì
thân thể không còn
tác dụng gì đối với
tâm lý, như người nhập tầng định cao thì dù uống phải chất kịch độc vẫn
tỉnh táo bình thường không hề thấy
đau đớn, vì đã
dùng sức thiền định trấn áp; đây gọi là
công phu hàm dưỡng.
Công phu hàm dưỡng càng cao thì sức khống chế
vật chất càng cao nên có thể
vượt qua mọi trở ngại
vật lý như
đói khát, mưa gió, đau bệnh, nhưng khi ra khỏi
thiền định,
trở lại thân thể bình thường thì vẫn phải chịu
tác động của
quy luật vật lý như thường. Song, vì là
pháp hữu vi,
yếu tố tâm vẫn chịu
quy luật của
pháp hữu vi; đó là
quy luật sanh diệt.
Sự hình thành
ba cõi dựa trên nhiều
yếu tố, một trong những
yếu tố không thể thiếu được là
thức ăn.
Thức ăn vật chất tạo thành
Dục giới.
Thế giới vật chất gồm năm thứ gọi là năm tố chất
dục vọng. Năm
yếu tố này tạo ra năm
sợi dây ràng buộc thế giới vật chất. Cao hơn một bậc là loại
thức ăn hỷ lạc của
thiền định.
Thức ăn bằng
cảm thọ (
hỷ lạc) này càng lúc càng
tinh vi cho đến cao
nhất chỉ còn lại hai
yếu tố tưởng và thọ. Nói chung khi lên cao
cảm thọ tinh vi,
tế nhị và kéo dài hơn.
Cuối cùng chỉ còn lại thức là tầng
Diệt tận định. Sau rốt, loại
thức ăn thức nào cũng không còn nữa và nhập Niết-bàn; đó là cấp bậc của các vị A-la-hán.
Thức ăn nào cũng có biên độ và
giới hạn của nó,
vượt qua biên độ này nó không còn
tác dụng, nên người nhập thiền ăn bằng
cảm thọ hỷ lạc chỉ đến mức nào đó thì chìm xuống.
Vượt qua mức đó,
trở lại sắc thân bình thường cũng cần ăn, cần thở, tức là từ
trạng thái cao nhất của cõi cao nhất rồi chìm xuống các cõi thấp,
trở lại Dục giới. Từ đó tạo thành khái niệm
luân hồi.
Liên quan đến vấn đề thức ăn, trong Kinh có một
câu chuyện như sau: Một
gia đình nọ có hai bố mẹ và một cậu
quý tử. Hai vợ chồng này mang đứa con trai
duy nhất đi qua sa mạc. Họ nghĩ rằng số lương thực
đem theo là
đủ dùng cho chuyến đi. Nhưng chưa ra khỏi sa mạc họ đã hết
thực phẩm. Hai vợ chồng biết rằng tất cả ba người sẽ cùng chết
nếu không tìm ra cái gì để ăn. Bấy giờ, hai người cùng bàn
với nhau rằng, thay vì cả ba cùng chết thì chi bằng nên
ăn thịt đứa con để giữ được mạng sống, sau này rời khỏi sa mạc sẽ lại sanh đứa khác. Và thế là họ phải đành tâm
ăn thịt đứa con để sống mà ra khỏi sa mạc. Họ vừa
ăn thịt con, vừa đi, vừa kêu khóc: “Con tôi đâu?”
Đây là
bi kịch của cuộc sống
chúng sanh. Ăn để sống; sống để hưởng thụ. Vì thiếu
trí tuệ nên không
nhận thức được thứ gì
tăng ích hay tổn tại. Và cũng vì bị
bức bách bởi
khát ái nên ăn bất cứ thứ gì vớ được mà không có khả năng
lựa chọn.
Thế gian đau đớn vì
ngộ độc thức ăn;
chúng sinh đau khổ vì
ngộ độc phiền não. Để có được
một đời sống
an lạc thật sự,
chúng ta cần phải tu tập để phát triển khả năng
tâm linh của mình, phát triển
trí tuệ để có khả năng
lựa chọn.
Trạch pháp hay khả năng
lựa chọn đúng
sự thật là một trong 7 thành tố của trí giác, tức khả năng biết rõ pháp gì thiện, pháp gì
bất thiện.
Đức Phật dạy: “Trong
đời sống hằng ngày, trong khi
tiêu thụ,
chúng ta cũng phải biết
thức ăn của mình được tạo ra bằng sự
đau khổ của kẻ khác, của những loài sinh vật khác”. Và do vậy,
chúng ta cần phải tu tập để
giải thoát khỏi bốn loại
thức ăn này, như lời
đức Phật dạy: “Bốn loại
thức ăn là cái đáng nhàm tởm; các ngươi
cần phải nhàm chán thức ăn”.