AI VÀO ĐỊA NGỤC
Nguyên Minh
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh
Ai vào địa ngục?
Trong
kinh Pháp cú, kệ số 202,
đức Phật dạy rằng:
Không lửa nào bằng tham dục,
Không ác nào bằng sân hận.(Vô hỏa như
tham dục,
Vô ác như
sân hận.)
Mỗi
chúng ta đều đã hoặc đang bị ngọn lửa
tham dục thiêu đốt, và cũng có thể sẽ
tiếp tục chịu sự thiêu đốt
lâu dài của nó. Mỗi
chúng ta cũng đã hoặc đang
chìm đắm trong
sân hận,
si mê, và cũng có thể sẽ
tiếp tục chìm đắm lâu dài trong đó!
Khi
nhận thức được điều này là
chúng ta bắt đầu tự
hé mở cánh cửa bước vào một tương lai tươi sáng hơn. Bởi vì chỉ khi
nhận thức đúng
thực tiễn, ta mới có thể
phát khởi được những
nỗ lực đúng hướng để tự mình thoát ra khỏi những gì xấu ác trong
hiện tại.
Mỗi một
con người đều sẵn có khả năng hướng thiện hay
sa ngã. Chính
nhận thức của
chúng ta về cuộc sống
quyết định việc ta sẽ nghiêng theo khuynh hướng nào, và do đó cũng
quyết định việc đời sống này của
chúng ta rồi sẽ đi về đâu.
Một
nếp sống buông thả với sự
tiếp nối không ngừng của những
hành vi bất thiện, tất yếu sẽ không thể mang lại điều gì
tốt đẹp về mặt
tinh thần. Những
giá trị vật chất mà
chúng ta có được do
thực hiện những
hành vi bất thiện luôn có
tác dụng nuôi lớn sự
tham lam,
sân hận và
si mê. Vì thế, những
tác hại nhìn thấy được của những
hành vi ấy thật ra là không
đáng sợ bằng những
tác hại vô hình, những
tác hại về mặt
tinh thần.
Do lòng
tham lam,
sân hận và
si mê được
nuôi dưỡng và phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn, những người có
tâm bất thiện sẽ không thể có được sự
thanh thản thật sự trong cuộc sống. Mỗi một sự
thỏa mãn vật chất của họ trong cuộc sống bao giờ cũng là một liều thuốc độc nuôi lớn thêm nguồn
khổ não trong
nội tâm. Và một khi
nội tâm đã
chất chứa đầy
khổ não thì sẽ không có bất cứ niềm vui
thanh thản nào có thể được cảm nhận.
Những người như thế chẳng khác nào quay lưng về phía có nguồn sáng, để rồi phải bước đi trong
tối tăm. Mỗi một
hành vi,
ý tưởng của họ đều
sai lầm vì không có được sự soi rọi của một
nhận thức đúng đắn, và do đó càng đưa họ đi
xa hơn nguồn
sáng trí tuệ. Những gì chờ đón họ
trong đời sống tương lai
chắc chắn chỉ có thể là một sự
tối tăm và sa đọa ngày càng khó thoát ra hơn nữa.
Nhưng không chỉ là một tương lai tăm tối, mà
sự thật còn quan trọng hơn nữa là họ không thể có được một
hiện tại tốt đẹp như vẻ ngoài mà người khác có thể vẫn nhìn thấy. Đó là vì
nội tâm của họ đang
chìm đắm trong những
trạng thái khổ đau do
tham lam,
sân hận và
si mê gây ra. Vì thế họ không có niềm vui,
chán ghét cuộc sống và
chịu đựng nhiều
khổ não.
Những gì
chúng ta đang nói đến là được xét từ khía cạnh
tinh thần. Vì thế, ta có thể thấy rằng một người
giàu có chưa hẳn đã có được cuộc sống
vui vẻ thật sự. Nếu sự
giàu sang của họ là kết quả của những
việc làm bất chính, và nếu
tâm thức của họ vẫn
tiếp tục chìm đắm trong sự
tham lam đã được chính họ
nuôi dưỡng trong suốt thời gian làm giàu, thì việc có được niềm vui
chân thật trong
hiện tại đối với họ sẽ là điều
hoàn toàn vô lý! Bởi vì sự
giàu sang,
sung túc không thể giúp họ
thoát khỏi những
quy luật tự nhiên chi phối tâm hồn. Và do đó, họ sẽ phải gánh chịu những tâm trạng
khổ não do lòng
tham lam và những
việc làm bất thiện của họ mang lại. Điều đó làm cho
nội tâm của họ mất đi sự
thanh thản cần có để cảm nhận những niềm vui
chân thật trong cuộc sống.
Và khi không có được niềm vui
chân thật trong cuộc sống, tự
thâm tâm họ sẽ nảy sinh
cảm giác chán ngán đối với
đời sống. Vì sao vậy? Những niềm vui giả tạo do sự
thỏa mãn vật chất mang lại bao giờ cũng chỉ là tạm bợ, thoáng qua. Cuộc sống
không thật sự được
nuôi dưỡng bằng những niềm vui giả tạo đó, mà luôn cần đến những niềm vui
chân thật như một nguồn
sinh lực. Điều này
giải thích vì sao có rất nhiều người
nghèo khó nhưng vẫn luôn vui sống và sống tốt, trong khi có những người khác
giàu có nhưng luôn cảm nhận mỗi ngày
trôi qua như một sự
chịu đựng nặng nề.
Không có niềm vui,
chán ghét đời sống và phải
chịu đựng khổ não trong
nội tâm. Những điều này không gì khác hơn mà chính là những
đặc điểm đã được
mô tả về
địa ngục (naraka). Vì thế, sự
xuất hiện của những
yếu tố này
trong đời sống
nội tâm của một người chính là sự biểu hiện của
địa ngục.
Tùy theo từng mức độ khác nhau mà ta có thể gọi bằng những tên gọi khác nhau, nhưng cho dù với tên gọi nào thì những
bản chất như trên vẫn là không thay đổi.
Nhận thức này hẳn có phần nào đó còn
xa lạ với một số người, những người lâu nay vẫn quen nghĩ về một
địa ngục âm u chìm sâu trong lòng đất, và chỉ chờ đón những kẻ ác
sau khi chết.
Tuy nhiên, có lẽ không ai phủ nhận được
tính chất hợp lý của nó khi
đối chiếu với những gì xảy ra
trong đời sống, cũng như khi
tự quán xét
nội tâm của chính mình.
Trong kinh Phật
mô tả về sáu
cảnh giới khác nhau mà tất cả
chúng sinh tùy theo nghiệp lực đều phải chịu
luân chuyển thọ sinh trong đó. Những
cảnh giới này
bao gồm:
thiên giới,
cảnh giới của
chư thiên hay các
cõi trời, với
hình tướng oai nghiêm,
xinh đẹp và được
thọ hưởng nhiều
phước báo, khoái lạc;
nhân giới,
cảnh giới của
con người, là cõi
thế gian mà hiện
chúng ta đang sống; a-tu-la giới,
cảnh giới của loài a-tu-la, được
mô tả là một loại
chúng sinh có đủ
thần thông như
chư thiên nhưng kém về
oai đức và hình thể;
ngạ quỷ giới,
cảnh giới của loài quỷ đói, với nhiều hình thể khác nhau như gầy ốm, cổ rất nhỏ, miệng
phun lửa... do
nghiệp lực mà tất cả những
chúng sinh này đều không bao giờ được
ăn uống no đủ;
súc sinh giới,
cảnh giới của các loài
thú vật, mỗi loài đều phải chịu những nỗi khổ khác nhau
tùy theo nghiệp lực; và
cuối cùng là
địa ngục giới,
cảnh giới mà
chúng sinh luôn phải sống trong
trạng thái không có niềm vui,
chán ghét và
chịu đựng đủ mọi
khổ não.
Điều
đặc biệt là trong sáu
cảnh giới vừa kể trên,
chúng sinh ở mỗi
cảnh giới đều được
mô tả về hình thể
xinh đẹp hoặc
xấu xí, chỉ riêng
cảnh giới địa ngục không thấy
mô tả về
hình tướng của những
chúng sinh trong đó, mà chỉ thấy nói về những
khổ não họ phải gánh chịu. Điều này
phải chăng cho thấy rõ
tính chất phi vật thể,
tính chất của một
cảnh giới tinh thần dành cho hết thảy mọi
chúng sinh tạo nghiệp ác?
Mặt khác, trong kinh nói về các
cảnh giới từ
cõi trời cho đến các loài
ngạ quỷ,
súc sinh... đều thấy nhắc đến tuổi thọ dài ngắn, chẳng hạn như ở
cõi trời chư thiên có tuổi thọ
lâu dài, loài
súc sinh có tuổi thọ ngắn ngủi và thường phải chết vì sự giết hại... Riêng
cảnh giới địa ngục không thấy nói đến tuổi thọ của
chúng sinh trong đó, nhưng nói rằng họ chỉ được thoát ra khỏi đó khi
nghiệp báo đã hết.
Phải chăng đây chính là một tấm gương
phản chiếu những
nghiệp ác của
chúng sinh, nên khi những
nghiệp ác đó không còn nữa, nghĩa là khi những tâm thiện được
sinh khởi, thì
cảnh giới đó cũng
tự nhiên mất đi?
Nhiều
câu chuyện về những người
thoát khỏi địa ngục được kể lại trong kinh cũng nói lên những điều
phù hợp với
nhận xét này. Một trong những
câu chuyện như thế được nhiều người biết đến nhất là chuyện bà Thanh-đề, mẹ của ngài Mục-kiền-liên, một vị
đệ tử lớn của
đức Phật.
Ngài Mục-kiền-liên là một vị
đệ tử đã
tu chứng, được
đức Phật khen là “thần thông đệ nhất” trong số các
đệ tử hàng
Thanh văn. Tuy vậy, mẹ của ngài là bà Thanh-đề lại là người không tin
Tam bảo, thường làm nhiều việc ác. Vì thế, sau khi bà chết thì ngài Mục-kiền-liên dùng
thiên nhãn quán sát thấy được bà đang phải
chịu đựng những
khổ não trong
cảnh giới địa ngục. Ngài đã vận dụng
hết sức thần thông của mình để mong cứu mẹ ra khỏi
cảnh giới này, nhưng
hoàn toàn không thể làm được.
Vì vậy, ngài không còn cách nào khác hơn là đến
cầu cứu với
đức Phật.
Nhân lời
thỉnh cầu của ngài Mục-kiền-liên,
đức Phật đã truyền dạy pháp Vu-lan-bồn (Ullambana), tức là lễ cúng
trai tăng được
thực hiện vào dịp rằm tháng Bảy, nhân ngày
Tự tứ khi
chư tăng vừa qua ba tháng
an cư trong mùa mưa, thường được gọi với tên
thông dụng hơn là
lễ Vu Lan.
Nhờ sức
chú nguyện của
chư tăng mười phương, bà Thanh-đề được
cảm hóa và
sinh khởi thiện tâm, nên ngay trong ngày đó
thoát khỏi cảnh giới địa ngục và sinh về
cõi trời.
Sự giải thoát tức thời của bà Thanh-đề ra khỏi
cảnh giới địa ngục gợi cho ta thấy rằng cách hiểu về
địa ngục như một
cảnh giới của những nỗi khổ
tinh thần phi vật thể như đã nói là
hoàn toàn phù hợp. Vì một khi tâm thiện được
sinh khởi thì ngay
tức thời cảnh giới địa ngục sẽ tự nó mất đi, nghĩa là
chúng sinh ấy
được giải thoát.
Nhận xét này cũng gợi ta nhớ đến
Bồ Tát Địa Tạng với
đại nguyện cứu vớt hết thảy
chúng sinh đang chịu khổ trong
cảnh giới địa ngục. Vị
Bồ Tát này với cây
tích trượng và hạt
minh châu trong tay, thường
xuất hiện trong
cảnh giới địa ngục để giúp những
chúng sinh nơi đây
phát khởi tâm thiện, và chính bằng cách này ngài
cứu thoát được
vô số chúng sinh ra khỏi những
khổ não trong
cảnh giới địa ngục.
Còn một khác biệt khác nữa giữa
địa ngục với các
cảnh giới khác mà
chúng ta có thể
nhận ra qua những
mô tả trong
kinh điển. Đó là, những
chúng sinh trong
cảnh giới địa ngục không thấy nói đến việc
tiếp tục tạo nghiệp. Trong khi từ
cõi trời cho đến các loài
ngạ quỷ,
súc sinh đều vẫn
tiếp tục tạo nghiệp
thiện ác trong đời sống của mình, thì những
chúng sinh ở
địa ngục không thấy
mô tả việc này. Họ chỉ toàn là
chịu đựng những
khổ não do
ác nghiệp đã tạo,
mãi mãi cho đến khi những
ác nghiệp đó vơi đi, và nhờ một
tác nhân nào đó giúp họ
sinh khởi được tâm thiện, họ mới có thể thoát ra khỏi
cảnh giới này.
Những khác biệt
lần lượt nêu trên đưa
chúng ta đến một
nhận xét chung:
cảnh giới địa ngục theo như trong
kinh điển mô tả là khác hẳn so với tất cả những
cảnh giới khác. Đây là một
cảnh giới tinh thần đặc biệt của những
chúng sinh tạo
nghiệp ác.
Hay nói khác đi, đây không phải là một
cảnh giới với những chủng loại
chúng sinh khác nhau thác sinh trong đó và có
đời sống cụ thể như
cõi trời,
cõi người cho đến súc sinh... mà là một
cảnh giới tinh thần hiện hữu song song với mọi
cảnh giới khác.
Ngay khi nào
tâm thức của mỗi
chúng sinh sa đọa vào các
nghiệp ác, bị
lôi cuốn bởi các
tâm niệm tham lam,
sân hận,
si mê,
tâm hồn họ sẽ bị
chìm đắm bởi
tác hại của những
ác nghiệp đó và
cảnh giới địa ngục lập tức xuất hiện. Và ngay khi nào
tâm thức bừng tỉnh,
nhận ra được các
nghiệp ác và những
tác hại của chúng,
thiện tâm sẽ nhờ đó mà
sinh khởi, và
ngay lập tức cảnh giới địa ngục tan biến.
Một khi đã nhận rõ được sự
hiện hữu của
cảnh giới địa ngục ngay
trong đời sống
hiện tại này như thế nào,
rõ ràng là
chúng ta không còn
cần thiết phải
quan tâm đến việc có một
địa ngục sau khi chết hay không. Bởi vì sự
hiện hữu một
địa ngục sau khi chết thật ra cũng phải là một điều khó hiểu, khó tin, mà chỉ
đơn giản là sự kéo dài của những
khổ não mà
chúng ta đã không thoát ra khỏi được ngay
trong đời sống
hiện tại này.
Như đã nói, mỗi
chúng ta đều sẵn có khả năng hướng thiện cũng như khả năng sa đọa, nên khi có được một
nhận thức rõ ràng về
địa ngục cũng như những
nguyên nhân làm cho
chúng ta sa đọa vào đó,
chắc chắn không ai trong
chúng ta lại có thể chọn
con đường đi vào khổ não.
Bởi vậy, hết thảy những người đang
chìm đắm trong
đau khổ chỉ có thể là do họ tự chọn lấy
con đường như thế. Và sự chọn lựa
sai lầm này
xuất phát từ việc không có một
nhận thức đúng về
đời sống và không đủ
lòng tin vào lời dạy chân chánh của những bậc
giác ngộ. Một khi tự mình không
nhận biết đường đi, cũng không tin được vào người
dẫn đường chân chánh, thì điều tất yếu không thể
tránh khỏi là phải đi sai đường,
lạc lối.
Khổ đau trong cuộc sống là điều không ai mong muốn. Nhưng hầu hết
chúng ta đều
chấp nhận điều đó là bởi vì
chúng ta không
nhận biết được rằng mọi khổ đau đều do chính
chúng ta tự chuốc lấy. Những
đau khổ trong
thế giới vật chất này là do chính những
nghiệp ác đã tạo của
chúng ta mang lại, và những
đau khổ trong
thế giới tinh thần cũng không gì khác hơn là kết quả tất yếu của những
tâm niệm bất thiện như
tham lam,
sân hận và
si mê.
Vì thế,
đời sống vật chất của
chúng ta hôm nay không gì khác hơn là biểu hiện của những gì ta đã làm trong
quá khứ. Những điều
tốt đẹp luôn mang lại những kết quả
tốt đẹp, và ngược lại; như một phép tính
chính xác mà không ai có thể làm thay đổi kết quả. Và song song với
đời sống vật chất đó là
một thế giới
tinh thần với những
vui buồn sướng khổ, như một sự
phản chiếu chính những
tâm niệm thiện ác của
chúng ta trong đời sống.
Hiểu được điều này,
chúng ta sẽ không bao giờ
dại dột đánh đổi những niềm vui
chân thật dài lâu của
việc làm điều thiện để có được những niềm vui giả tạo tạm bợ do sự
thỏa mãn vật chất mang lại.
Chúng ta có thể
thực hiện những sự
so sánh rất
cụ thể để thấy được thế nào là một sự
lựa chọn đúng đắn.
Hãy lấy một ví dụ. Có một người bạn đang gặp khó khăn và do đó nhờ bạn đứng ra
lo liệu một sự việc quan trọng.
Sau khi
thực hiện công việc, bạn có thể sẽ
nói dối anh ta một cách dễ dàng về chi phí
thực hiện công việc để qua đó thu về cho mình một món tiền lớn.
Nhưng bạn cũng có thể
chân thành giúp đỡ anh ta trong lúc khó khăn ấy, và không cần tính toán đến cả công sức đã
bỏ ra của mình, nói gì đến việc dối gạt anh ta để kiếm tiền?
Trong hai
trường hợp, những gì được và mất của bạn có thể mang ra
cân nhắc và
so sánh một cách
hoàn toàn cụ thể.
Trường hợp thứ nhất, về
vật chất bạn kiếm được một khoản tiền lớn, nhưng về
tinh thần bạn không thể
tránh khỏi phải
trải qua những tâm trạng
bất an: sự
lo lắng về
lời nói dối có thể bị phát hiện, và do đó kèm theo nhiều
nỗ lực suy nghĩ, tính toán để che giấu
sự thật, có thể phải kéo theo nhiều
hành vi lừa dối khác nữa. Và khi sự lừa dối đã
thành công, bạn cũng không thể có một tâm trạng
thanh thản, do những ray rứt trong
nội tâm về khoản tiền kiếm được không
chính đáng.
Tâm hồn bạn ngay trong lúc này phải
chất chứa thêm một “trọng lượng”
đáng kể làm cho nó trở nên “trĩu nặng” hơn trước đó. Và
sự tích lũy của những “trọng lượng”
tương tự như thế này chính là
nguyên nhân nhấn chìm bạn vào
cảnh giới khổ đau của
tinh thần, đánh mất đi sự
thanh thản vốn có của
tinh thần. Vì thế, điều bạn có được trong
trường hợp này không sao bù đắp lại những gì bạn mất đi!
Trong
trường hợp thứ hai, khi bạn chọn lựa một sự giúp đỡ
chân thành, có thể là
đời sống vật chất của bạn sau đó có kém hơn đôi chút. Nhưng với
tâm niệm giúp đỡ bạn bè,
chắc chắn bạn không thể lấy đó làm một sự
buồn phiền. Ngược lại, bạn còn có được một niềm vui nhẹ nhàng với
cảm giác hài lòng,
thỏa mãn vì đã làm được một việc nên làm. Sự chọn lựa này vừa mang lại cho bạn thêm một phần
thanh thản trong đời sống
tinh thần, vừa cứu bạn
thoát khỏi mối nguy cơ sa đọa vào
tội lỗi. Vì thế, điều bạn mất đi trong
trường hợp này là quá nhỏ nhoi không
đáng kể so với những gì bạn có được.
Khi một người chọn lựa khả năng thứ nhất trong
trường hợp này, chỉ có thể là do họ không hiểu hoặc không tin được vào những gì vừa nói trên. Và cả hai
nguyên nhân – không hiểu hoặc không tin – đều là
xuất phát từ sự
si mê, thiếu
trí tuệ. Bởi vì khi một người có đủ
trí tuệ để
phán đoán đúng về sự việc thì người đó không
thể không hiểu hoặc không tin vào
sự thật.
Vì thế,
điều chắc chắn là
chúng ta hoàn toàn có thể
quyết định được việc tự thân có sa đọa hay không. Ta chỉ mất đi khả năng tự quyết này khi không có đủ
trí tuệ sáng suốt, bởi vì khi ấy ta sẽ chịu sự
lôi cuốn, sai sử của những
tâm niệm bất thiện như
tham lam,
sân hận và
si mê.
Địa ngục hiện hữu ngay trong cuộc sống này. Đó là
sự thật mà mỗi
chúng ta đều có thể
nhận ra khi
quán sát nội tâm của chính mình. Ngay khi một
tâm niệm bất thiện khởi lên, cánh
cửa địa ngục sẽ mở ra chờ đón
chúng ta. Và ngược lại, ngay khi một tâm thiện khởi lên thì
cửa địa ngục cũng
tự nhiên khép lại.
Có lần, một kiếm khách
ngang tàng tìm đến
thiền sư Bạch Ẩn để đặt câu hỏi về việc có
địa ngục và
thiên đường hay không.
Thiền sư không
trả lời, chỉ hỏi lại anh ta: “Anh là ai?” Anh ta đáp: “Tôi là một kiếm khách.”
Thiền sư cười nhạt và
mạt sát: “Anh mà là kiếm khách à? Tôi nhìn anh giống một người ăn xin hơn.” Anh chàng
ngay lập tức nổi giận và rút gươm ra khỏi vỏ, xông đến.
Thiền sư nhoẻn miệng cười và nói: “Cửa
địa ngục đang mở.” Chàng trai ngay khi ấy
nhận ra ý nghĩa câu nói của
thiền sư, liền tra gươm vào vỏ và
cung kính vái lạy.
Thiền sư lại nói: “Cửa
địa ngục đã khép, cửa
thiên đường đang mở.”
Mỗi ngày, nếu
chúng ta bình tâm xét lại những
tư tưởng,
lời nói và
việc làm của mình,
chúng ta sẽ dễ dàng
nhận ra là có rất nhiều lần
cửa địa ngục hé mở. Thậm chí có những lần
chúng ta đã bước hẳn vào trong đó. May thay, cũng chỉ cần quay lưng về phía
địa ngục là
ngay lập tức chúng ta có thể nhìn thấy cửa thiên đường!
Tuy nhiên,
chúng ta sẽ không có nhiều cơ hội nữa một khi
đời sống này
chấm dứt. Và nếu như ngay trong cuộc sống này,
chúng ta không thể
vĩnh viễn khép lại cánh
cửa địa ngục, thì
rõ ràng là
chúng ta không thể
tránh khỏi một tương lai
u ám. Vì thế, một người khôn ngoan sẽ không thể chờ đợi lâu hơn nữa, mà ngay trong giây phút
hiện tại này của
đời sống phải biết
nỗ lực hết sức để
vĩnh viễn thoát ra khỏi những nỗi khổ của
tâm hồn. Và để làm điều đó, không có cách nào khác hơn là phải
trừ diệt đi ba
yếu tố độc hại là
tham lam,
sân hận và
si mê, như
chúng ta đã đề cập đến trong một phần trước đây.