AI VÀO ĐỊA NGỤC
Nguyên Minh
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh
Những tâm hồn trĩu nặng
Trong cuộc sống,
trạng thái tâm hồn chúng ta thường xuyên thay đổi, phần lớn là
tùy thuộc vào
tính chất của những gì xảy đến với ta và cảm nhận của
bản thân ta đối với những sự việc ấy. Khi gặp những
diễn tiến thuận lợi, những cảm nhận
êm ái,
thích thú,
tâm hồn ta thấy
vui vẻ, sảng khoái, và những
lúc ấy ta
trải qua một
trạng thái tâm hồn thường là nhẹ nhàng,
thanh thản. Ngược lại, khi gặp phải những điều trở ngại,
bất lợi, những cảm nhận bực dọc, khó chịu,
tâm hồn ta thường
trải qua một
trạng thái nặng nề, trầm uất...
Nhưng đó chỉ là nói qua một vài khía cạnh
nổi bật nhất.
Sự thật thì mỗi người
chúng ta nếu
tĩnh tâm suy xét lại, tự phân tích những
trạng thái tâm hồn mà mình đã
trải qua, đều có thể thấy được
vô số những dị biệt,
vô số những cảm nhận khác nhau, thậm chí có thể nói là không sao kể ra hết được. Đôi khi
chúng ta còn có cả những
trạng thái xen lẫn như nửa buồn nửa vui hoặc vừa mừng vừa sợ... Nói cách khác,
vấn đề vô cùng phức tạp và hầu như
hoàn toàn không thể phân tích theo
phương pháp liệt kê của toán học hay phân loại
cụ thể theo khoa học...
Tuy nhiên, trong sự rối rắm
phức tạp vô cùng đó,
chúng ta có thể dễ dàng
nhận thấy nổi bật lên hai khuynh hướng chính trái ngược nhau. Một số
trạng thái tâm hồn có thể được
mô tả là nhẹ nhàng,
thanh thản, tất nhiên là với những mức độ khác nhau, và một số
trạng thái ngược lại có thể
mô tả như là nặng nề, trầm uất, cũng với những mức độ khác nhau. Khi hai khuynh hướng này
đồng thời xuất hiện, chúng sẽ
tác dụng theo nguyên tắc “mạnh được, yếu thua”, nghĩa là khuynh hướng nào mạnh hơn sẽ đẩy
tâm hồn ta đi về phía
tương ứng của nó, hoặc là nhẹ nhàng
thanh thản, hoặc là nặng nề trầm uất...
Hai khái niệm “nhẹ” và “nặng” được dùng ở đây tất nhiên là với nghĩa
trừu tượng của chúng, nhưng điều đó không có nghĩa là không
liên quan đến nghĩa đen của từ. Nếu ta nhớ lại những
trạng thái tâm hồn mà
bản thân mình đã từng
trải qua, ta sẽ có thể thấy rằng việc
sử dụng hai khái niệm này để
mô tả các
trạng thái của
tâm hồn là
vô cùng chính xác.
Khi
tâm hồn ta thực sự nhẹ nhàng,
thanh thản, có khi ta
cảm thấy bản thân mình cũng như tất cả mọi sự vật quanh ta đều nhẹ nhàng đến mức dường như có thể dễ dàng bay bổng lên, nhảy múa trong niềm
hân hoan hay sự sảng khoái mà ta đang cảm nhận. Mỗi một
hành vi,
cử chỉ của ta
trong lúc ấy đều có thể nhẹ nhàng,
linh hoạt và được
thực hiện một cách dễ dàng, như thể trọng lượng cơ thể ta đã thật sự “nhẹ” đi rất nhiều...
Ngược lại, khi
tâm hồn ta chìm sâu trong sự nặng nề, trầm uất, ta
cảm thấy bản thân mình cũng như mọi thứ chung quanh đều nặng nề,
chậm chạp. Trong tâm trạng đó, ta
cảm thấy ngay cả những
cử động thông thường như nhấc tay, đưa chân... cũng đều nặng nề, khó khăn hơn, như thể là trọng lượng
thân thể đã “nặng” thêm rất nhiều...
Và
thực ra thì sự nặng, nhẹ của những
trạng thái tâm hồn như thế đã thay nhau
chi phối cuộc sống của
chúng ta. Và trong một
chừng mực nào đó, chúng
tác động đến tình cảm, cung cách ứng xử cũng như
quan điểm của ta về
đời sống.
Khi
tâm hồn ta nhẹ nhàng,
thanh thản, ta dễ có khuynh hướng giúp đỡ,
tha thứ cho những
lỗi lầm của người khác, kể cả những lầm lỗi của chính
bản thân mình, cũng như luôn nhìn đời một cách
lạc quan,
tích cực.
Ngược lại, khi
tâm hồn ta rơi vào
trạng thái nặng nề, trầm uất, ta dễ có khuynh
hướng vị kỷ, né tránh người khác, dễ cáu gắt, bực dọc và luôn
cố chấp đối với những
lỗi lầm của người khác cũng như của chính
bản thân mình. Trong tâm trạng đó, cuộc sống quanh ta thường luôn bao phủ trong một lớp sương mù xám xịt,
u ám và mang đầy màu sắc
bi quan,
ảm đạm.
Đến đây, có lẽ bạn đọc đã có thể dễ dàng
hình dung được mối tương quan giữa những khái niệm
trừu tượng của hai từ nặng, nhẹ khi được dùng để
mô tả tinh thần với
nghĩa đen của chúng khi được dùng để
biểu thị những
tính chất cụ thể của sự vật. Và câu hỏi đặt ra lúc này là: Liệu có thể chỉ ra được những tâm trạng nặng nề và
nguyên nhân sinh khởi của chúng hay chăng?
Câu
trả lời là có, và hầu như tất cả
mọi người đều có thể đưa ra. Chỉ cần có một sự
xem xét khách quan những diễn biến trong
nội tâm cũng như một chút
so sánh và
suy luận là có thể thấy được ngay mối tương quan giữa những gì xảy đến cho
chúng ta trong cuộc sống với những tâm trạng nặng nề mà ta phải gánh chịu.
Tuy nhiên, việc phân tích và
hệ thống được tất cả các
nguyên nhân làm cho
tâm hồn ta trở nên nặng nề lại không phải là chuyện dễ dàng, bởi
tính chất phức tạp và đa dạng của
vấn đề. Mặc dù vậy, với
trí tuệ siêu việt của mình, cách đây hơn 25 thế kỷ,
đức Phật đã từng làm điều đó và đưa ra những lời dạy rất
cụ thể về các
nguyên nhân này.
Trong rất nhiều
kinh điển, Phật dạy rằng có năm nhóm
nguyên nhân làm cho
tâm hồn ta
u ám, nặng nề, mất đi sự
sáng suốt. Và vì chúng che mờ đi sự
sáng suốt của
tâm trí, nên được gọi chung là
ngũ cái. Chữ cái có nghĩa là ngăn che, làm khuất lấp, nên
ngũ cái tức là năm sự ngăn che, làm khuất lấp. Và làm khuất lấp ở đây được hiểu là làm khuất lấp đi sự
sáng suốt của
tâm hồn.
Nhóm
nguyên nhân thứ nhất được kể ra ở đây là sự
tham lam. Khi trong lòng ta ôm ấp sự
thèm muốn, khao khát về một đối tượng nào đó, sự khao khát làm cho
tâm hồn ta luôn ở trong một
trạng thái không
thanh thản.
Sức mạnh của lòng
tham lam buộc ta phải luôn hướng về đối tượng,
chìm đắm trong những
ý tưởng – nhiều khi là
vô nghĩa – về đối tượng đó, và trí óc thì không ngừng
hoạt động để
tìm ra phương cách chiếm hữu,
đạt được đối tượng.
Bởi vì có
vô số đối tượng của lòng tham, nên cũng có
vô số các
trường hợp khác nhau, với những mức độ
chi phối khác nhau đến
tâm hồn chúng ta.
Tuy nhiên, khuynh hướng chung là sự
tham lam luôn làm cho
tâm hồn ta trở nên nặng nề, mất đi sự
sáng suốt và không một lúc nào được nghỉ ngơi
thanh thản. Vì thế, người ta thường
so sánh tác hại của lòng
tham lam như một ngọn lửa vô hình, thiêu đốt
tâm hồn chúng ta ngay từ lúc bắt đầu
sinh khởi, và sẽ không bao giờ dừng lại
cho đến khi nào ta có thể
nhận ra và
diệt trừ được nó.
Nói chung, lòng
tham lam ở mức độ nhỏ nhoi, tầm thường sẽ gây ra những
tác hại nhỏ nhoi, tầm thường. Chẳng hạn như khi ta mong muốn có được một đôi dép mới, một cái cà-vạt hay một chiếc nón hợp thời trang... Có thể bạn thấy ngại khi dùng cụm từ “lòng tham” trong những
trường hợp này, bởi có vẻ như đây là những sự việc quá nhỏ nhoi, tầm thường, và bạn khó lòng
nhận ra được cái gọi là “tác hại” của chúng.
Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ bạn sẽ thấy rằng sự mong muốn đó của bạn
quả thật không phải gì khác hơn là một mức độ thấp của lòng
tham lam, và do đó mà không
thể không có những
tác hại nhất định cho
tâm hồn bạn. Những
tác hại ấy được biểu hiện ở việc chúng chiếm chỗ
thường xuyên trong
ý nghĩ của bạn,
thôi thúc bạn hành động theo hướng để
đạt được sự mong muốn đó, và
cuối cùng, nếu như một
hoàn cảnh không
thuận lợi nào đó xảy ra làm cho bạn không thể
thỏa mãn sự mong muốn – dù là nhỏ nhoi – đó, bạn sẽ thấy trong lòng
không vui, thậm chí có thể là bực dọc.
Mặt khác,
giá trị vật chất của đối tượng đôi khi cũng không phải là
yếu tố duy nhất quyết định lòng
tham lam của bạn là “lớn” hay “nhỏ”. Đôi khi người ta có thể
theo đuổi những sự vật rất tầm thường với một niềm khao khát mãnh liệt, và đôi khi sự mong muốn đối với những
giá trị vật chất lớn lao lại cũng có thể chỉ ở mức
bình thường. Vì thế,
tác hại của lòng tham đến mức độ nào là
do nơi cường độ của nó trong
tâm hồn chúng ta, chứ không thể
đánh giá qua
giá trị vật chất của đối tượng được
theo đuổi.
Một giải thưởng
văn chương với trị giá chỉ bằng một vài tháng lương, nhưng có thể là
mục tiêu theo đuổi của bạn trong nhiều năm. Bởi vì kèm theo cái
giá trị vật chất nhỏ nhoi đó lại là một
danh vọng lớn lao mà bạn khao khát, và bạn luôn nghĩ rằng những
nỗ lực,
cố gắng của
bản thân có thể giúp bạn
đạt được điều đó. Mỗi khi giải thưởng được
công bố và bạn không có tên trong danh sách đoạt giải, một
nỗi buồn lớn lao có thể xâm chiếm
tâm hồn bạn suốt nhiều ngày sau đó.
Ngược lại, sự mong muốn đối với một giải trúng khuyến mãi hàng trăm triệu đồng khi bạn mua một món hàng lại là rất nhỏ nhoi, và bạn có thể dễ dàng quên đi
ngay sau khi mở gói hàng và thấy rằng mình là người không trúng giải...
Có thể nói
tóm lại một điều là, lòng
tham lam là một trong các
nguyên nhân gây
khổ não cho
tâm hồn bạn. Lòng tham càng mãnh liệt thì
khổ não càng lớn lao, bạn càng bị nhấn chìm vào những tâm trạng nặng nề hơn trong cuộc sống. Trong
thực tế, bạn có thể
nhận biết quanh mình không ít những
con người đang bị lửa tham thiêu đốt và có những
hành vi ứng xử
hoàn toàn thiếu
sáng suốt. Sự thực là những người ấy luôn sống trong những tâm trạng nặng nề,
u uất và không ai có thể
cứu thoát họ ra khỏi đó ngoài những
nỗ lực hướng thiện của chính họ.
Nhóm
nguyên nhân thứ hai làm cho
tâm hồn ta
trĩu nặng chính là sự
sân hận. Nói theo một cách
dễ hiểu hơn, đó là sự tức giận đối với những điều không
vừa ý. Và ở mức độ nặng nề hơn thì sự tức giận đó
trở thành sự
oán hận, căm ghét đối tượng.
Vì sao
chúng ta tức giận? Có
vô số nguyên nhân khác nhau, nhưng có thể nói một cách khái quát nhất là vì
chúng ta không được
hài lòng, vì sự việc đã không diễn ra theo ý
chúng ta, hoặc khi ai đó không làm đúng
theo như ta mong muốn.
Như vậy, nói một cách khác thì
sân hận là kết quả gây ra do sự trái ý. Nếu mọi sự việc đều diễn ra theo ý
chúng ta, nếu
mọi người đều làm theo đúng ý ta, ta sẽ không tức giận. Và vì không tức giận nên cũng không thể có sự
oán hận hay căm ghét.
Nhưng một cuộc sống mà trong đó không có bất cứ điều gì trái ý
chúng ta, không có bất cứ ai làm trái ý ta, lại là điều mà
chúng ta không sao có thể
hình dung ra được!
Vì thế,
sự thật là hầu hết
chúng ta đều đã từng
trải qua trạng thái tức giận ở những mức độ khác nhau.
Tùy theo mức độ của sự trái ý mà
chúng ta có thể
nổi giận với những “cường độ” khác nhau. Và cũng giống như lửa tham, ngọn lửa
sân hận cũng sẽ không ngừng thiêu đốt
chúng ta ngay từ khi nó vừa
sinh khởi.
Vì
nguyên nhân của
sân hận là sự trái ý, nên
vấn đề “hợp lý” hay “bất hợp lý” thường
ít khi được nhắc đến. Khi một người
nổi giận,
chúng ta rất hiếm khi có thể
thành công trong việc
thuyết phục anh ta về những gì là
hợp lý hay không
hợp lý trong sự
nổi giận của anh ta. Điều
duy nhất có thể làm được thường là phải chờ cho
cơn giận qua đi, trước khi anh ta có thể
chấp nhận lắng nghe người khác hoặc tự mình
nhận ra những
sai trái.
Một
học sinh tốt nghiệp
phổ thông và chọn thi vào ngành y, không có gì
sai trái và không thể bị
buộc tội vì
quyết định của mình. Nhưng
quyết định đó của em lại có thể là
nguyên nhân gây ra
cơn giận khủng khiếp ở người cha, chỉ vì từ lâu ông ta luôn mong muốn rằng em sẽ học để
trở thành một thầy giáo! Người cha có thể
hoàn toàn vô lý trong việc này, nhưng sự
vô lý đó sẽ không bao giờ có thể được
nhận ra khi ông ta đang giận! Và
sự thật là khi sự trái ý của đứa con làm cho ông ta
nổi giận, thì đối với ông ta, việc
nổi giận đó lại chính là
phản ứng “hợp lý” nhất. Khi một đứa con làm trái ý mình, nếu người cha không
nổi giận, đó mới là chuyện
hoàn toàn “vô lý”!
Vì
chúng ta thường xuyên gặp phải những điều trái ý trong cuộc sống, nên khả năng “nổi giận” là rất thường gặp. Nếu mức độ “trái ý” là nhỏ nhặt,
chúng ta thường chỉ khởi lên sự
bực tức hay khó chịu ở mức độ khó
nhận ra.
Tuy nhiên, vì những
bực tức hay khó chịu này là
hoàn toàn có thật, nên chúng vẫn gây ra cho
tâm hồn ta những
tác hại nhất định. Điều này dễ dàng
nhận ra nhất là khi chúng được
tích lũy lại ở một mức độ “đậm đặc” đủ để làm thay đổi tâm trạng của
chúng ta. Bạn đã từng
trải qua một
trường hợp tương tự như vậy hay chưa? Đó là khi mà trong cùng một ngày bạn
liên tiếp gặp phải những chuyện “trái ý” nhỏ nhặt. Mỗi sự việc ấy không đủ để làm cho bạn
nổi giận, nhưng vì có quá nhiều sự việc như thế, nên sự
bực tức của bạn sẽ
tích lũy và dồn nén lại
cho đến khi
bộc phát ra – có thể là vào cuối ngày – bởi một
nguyên nhân cuối cùng nào đó. Vì thế, nếu chỉ xét riêng
nguyên nhân cuối cùng này,
chúng ta sẽ thấy rằng “cơn giận” ấy là
hoàn toàn vô lý.
Nói
tóm lại, lòng
sân hận là
nguyên nhân thứ hai trong các nhóm
nguyên nhân gây ra
trạng thái nặng nề, trầm uất cho
tâm hồn chúng ta. Với mức độ nặng nề, những
cơn giận có thể đốt cháy
hoàn toàn mọi khả năng phán xét của
lý trí cũng như sự nhẹ nhàng
thanh thản của
tâm hồn. Vì thế, chúng góp phần trong việc
giam hãm,
trói buộc tâm hồn chúng ta, và chính bằng cách này, chúng tạo ra những tâm trạng nặng nề, trầm uất.
Nhóm
nguyên nhân thứ ba được đề cập đến ở đây là
trạng thái mê ngủ hay mỏi mệt của cơ thể. Bởi vì mối quan hệ giữa
tinh thần và thể xác là không phủ nhận được, nên một khi thể xác rơi vào
tình trạng nặng nề,
uể oải thì tất yếu
tinh thần cũng sẽ nặng nề, trầm uất. Ngược lại, một
thân thể khỏe mạnh,
linh hoạt chắc chắn dễ dàng hơn trong việc tạo ra một
trạng thái sảng khoái, hưng phấn cho
tâm hồn.
Vấn đề cần nói thêm ở đây là,
chúng ta rơi vào
trạng thái mê ngủ hay mỏi mệt không phải bao giờ cũng do sự
hoạt động quá sức của cơ thể. Những
trường hợp thiếu sự nghỉ ngơi
thỏa đáng để dẫn đến
trạng thái này chỉ là tạm thời, vì bạn sẽ thay đổi theo hướng
tốt hơn ngay sau khi được nghỉ ngơi đầy đủ.
Tuy nhiên, trong một số
trường hợp nguy hiểm hơn,
trạng thái mê ngủ hoặc
uể oải, kém
năng động lại là dấu hiệu của sự lười nhác, ít
hoạt động. Và đây mới chính là điều mà
chúng ta cần
quan tâm phân tích.
Nếu bạn sống một
nếp sống thụ động, không có những
mục tiêu phấn đấu
cụ thể để vươn tới, và thiếu một sự
rèn luyện nghiêm túc về
tinh thần cũng như
thể lực, bạn sẽ có rất nhiều nguy cơ rơi vào
tình trạng vừa nói trên. Trong
trường hợp đó, bạn sẽ
thường xuyên bị cảm giác
mệt mỏi,
uể oải chi phối, lúc nào cũng muốn rơi vào giấc ngủ, ngay cả khi bạn không làm gì
quá sức và cũng đã được ngủ nghỉ rất nhiều. Một
con người như thế sẽ sống trong tâm trạng nặng nề, trầm uất gần như
thường xuyên, và sự nghỉ ngơi không bao giờ có thể là
giải pháp để cứu họ ra khỏi
trạng thái ấy!
Ngược lại,
giải pháp cho
vấn đề phải là một sự
nỗ lực thay đổi
nếp sống.
Chúng ta cần có những
mục tiêu phấn đấu
cụ thể trong cuộc sống để
kích thích năng lực làm việc, và cần
hoạt động trí óc nhiều hơn để
vượt qua chứng bệnh “mê ngủ” đang mắc phải.
Nói
tóm lại,
trạng thái mê ngủ hay
mệt mỏi,
uể oải là nhóm
nguyên nhân thứ ba gây ra sự nặng nề, trầm uất cho
tâm hồn chúng ta.
Trạng thái này có thể là tạm thời, do sự làm việc
quá sức và thiếu nghỉ ngơi, nhưng cũng có thể là một kiểu “bệnh tật” do
nếp sống không
lành mạnh mang lại. Dù là trong
trường hợp nào, thì việc ngăn không để thể xác rơi vào sự mê ngủ và
mệt mỏi,
uể oải cũng đều sẽ giúp
chúng ta tránh được sự nặng nề, trầm uất cho
tâm hồn.
Nhóm
nguyên nhân thứ tư là tâm trạng
bất an và
hối tiếc.
Chúng ta thường rơi vào những tâm trạng như thế này sau khi
thực hiện một sự việc nào đó và rồi không
hài lòng với sự việc ấy. Hai tâm trạng
bất an và
hối tiếc thường
xuất hiện đồng thời, bởi vì khi
chúng ta không
hài lòng với cách
thực hiện công việc của chính mình thì kèm theo đó
chúng ta cũng sẽ có sự
lo lắng về một kết quả không hay mà
việc làm đó rất có thể
mang đến.
Một ví dụ
cụ thể sẽ cho
chúng ta thấy rõ hơn
vấn đề này. Chẳng hạn như, trong một lúc
bực tức bạn đã quá lời
xúc phạm cấp trên của mình. Sau đó, bạn
suy nghĩ lại và
nhận ra được
sai lầm, vì thế mà bạn
cảm thấy hối tiếc về
việc đã làm. Nhưng cũng
đồng thời với sự
hối tiếc này, bạn sẽ nảy sinh một tâm trạng
bất an khi nghĩ đến những
hậu quả có thể có do
việc làm sai trái đó. Cả hai tâm trạng này – sự
hối tiếc và
bất an – sẽ
kết hợp với nhau để
cùng lúc gây
tác hại, nhấn chìm bạn vào một
trạng thái tâm hồn nặng nề, trầm uất.
Nhóm
nguyên nhân cuối cùng được đề cập đến ở đây là tâm trạng
nghi ngờ, phân vân không
quyết định. Đó là khi bạn phải đối mặt với hai hay nhiều khả năng chọn lựa và không đủ
phán đoán để đưa ra một
quyết định dứt khoát. Vì
tâm trí bị
giằng co giữa hai hay nhiều chiều hướng khác nhau nên bạn không thể có được sự
thanh thản, nhẹ nhàng, mà ngược lại sẽ rơi vào
trạng thái nặng nề, trầm uất.
Sự
nghi ngờ thường phát sinh khi bạn không có đủ
hiểu biết hoặc
niềm tin vào đối tượng. Nhưng mặt khác, đây cũng là một biểu hiện của
thói quen do dự, thiếu tự quyết,
thường xuyên ỷ lại vào người khác.
Nếu như sự
cân nhắc nhiều khả năng khác nhau của
vấn đề trước khi đi đến
quyết định cuối cùng là điều rất
cần thiết để
hạn chế sai lầm, thì sự
do dự không
quyết định vào đúng thời điểm
cần thiết lại là một trong các
nguyên nhân dẫn đến thất bại. Hơn thế nữa, nếu điều này đã lặp lại nhiều lần đủ để hình thành một
thói quen nơi bạn, nó sẽ
trở thành một trong những
nguyên nhân làm cho
tâm hồn bạn
trĩu nặng, rơi vào những
trạng thái thiếu
sáng suốt, nặng nề, trầm uất.
Năm nhóm
nguyên nhân vừa kể trên có thể nói là bao quát hết thảy những
nguyên nhân gây ra tâm trạng nặng nề cho
tâm hồn chúng ta.
Nếu có thể trừ bỏ được hết thảy các
nguyên nhân này, điều tất nhiên là
chúng ta sẽ có được một
tâm hồn luôn nhẹ nhàng,
thanh thản và
sáng suốt. Vì thế, sự
sáng suốt của
tâm hồn chúng ta thực ra không phải là
yếu tố có được từ bên ngoài, mà chỉ cần loại trừ được tất cả những
yếu tố ngăn che, bao phủ thì sự
sáng suốt ấy sẽ
tự nhiên hiển lộ.