TÂM NÀY LÀ PHẬT —
LÀ NGƯỜI THEO ĐẠO (Ở NHẬT BẢN)
Nguyên tác: This Mind is the Buddha”*1 — Being Religious (in Japan) Tác giả: Gereon Kopf
Việt dịch: Quảng Cơ - Biên tập: Tuệ Uyển
Trong bốn năm qua, tôi đã viết 17 bài luận về Phật giáo tại Nhật Bản cho trang Buddhistdoor Global. Trong những bài luận này, tôi đã khám phá rất nhiều hoạt động và tín ngưỡng ở Nhật Bản, ở nhiều mức độ khác nhau, có liên quan đến các truyền thống Phật giáo. Những bài luận này có thể gợi lên một hình ảnh, mà tôi nghĩ là khá chính xác, rằng tôn giáo vẫn tồn tại và phát triển mạnh mẽ ở Nhật Bản, mặc dù dưới vỏ bọc của một xã hội ở thế kỷ 21. Thật thú vị, nhận thức này trái ngược với sự hiểu biết mà nhiều người Nhật Bản có về bản thân họ. Các học giả về tôn giáo cũng như bất kỳ ai quen thuộc với Nhật Bản đều biết rằng nhiều người Nhật sẽ phủ nhận rằng họ theo đạo. Nhóm người Nhật khá lớn này không chỉ bao gồm những người theo hệ tư tưởng phản tôn giáo mà còn bao gồm những người tham dự các nghi lễ tôn giáo ít nhiều thường xuyên, tin vào cuộc sống sau khi chết cũng như các linh thức và sở hữu "bàn thờ Phật" (tiếng Nhật: butsudan) để tưởng nhớ người đã khuất hoặc "kệ thần" (tiếng Nhật: kamidana) để tôn kính các vị thần của Thần Đạo (Shintō) trong nhà của họ. Tôi tin rằng lý do cho sự căng thẳng (mâu thuẫn?) này nằm ở định nghĩa về tôn giáo và tôi muốn giới thiệu một khái niệm về tôn giáo dựa trên những ý tưởng của các nhà tư tưởng Phật giáo Nhật Bản phát triển.
Như đã biết, thuật ngữ “tôn giáo” (religion) được dịch sang tiếng Nhật là “shūkyō” (tôn giáo) và được Amane Nishi (1829–97) giới thiệu vào Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19. Thuật ngữ này được dùng để chỉ các hệ thống tín ngưỡng và thực hành du nhập từ Châu Âu và Bắc Mỹ. Do đó, “Shūkyō” chỉ các hệ thống tín ngưỡng tập trung vào việc thờ cúng (thường xuyên) một vị thần (nhất thần giáo*2), được chứng kiến trong một kinh thánh, đòi hỏi một bộ chuẩn mực đạo đức nhất định. Ngoài ra, thuật ngữ “tôn giáo” dường như ngụ ý một thế giới quan nhị nguyên, phân biệt giữa “tôn giáo” và “phi tôn giáo”, “thế tục”, hay như các học giả tôn giáo sẽ nói, những gì nằm ngoài thế giới không gian-thời gian của trải nghiệm của chúng ta (siêu việt) và những gì nằm bên trong thế giới đó (nội tại). Cái sau là thế giới “này” của sự trở thành, thay đổi và đau khổ, cái trước là thế giới bên kia, được đặc trưng bởi tính vĩnh cửu và sự đình chỉ chung của các định luật vật lý. Tất nhiên, cả hai định nghĩa về “tôn giáo” đều phiến diện và lỗi thời, nhưng chúng giải thích tại sao nhiều người Nhật Bản coi mình “không theo tôn giáo”, ngay cả khi họ tham gia vào các hoạt động “tôn giáo” đáng chú ý, chẳng hạn như việc tôn kính các vị thần thánh và các nghi lễ ngụ ý niềm tin ít nhiều mạnh mẽ vào thế giới bên kia.
Nếu bây giờ chúng ta chuyển sang tôn giáo ở Nhật Bản, chúng ta có thể nhận ra những hiện tượng phù hợp với định nghĩa này và một số hiện tượng thì không. Thuộc về loại trước là các ngôi chùa Phật giáo, đền thờ Thần đạo và các quán trà truyền thống có kiến trúc ngụ ý sự phân đôi thực tại của chúng ta thành hai thế giới; thế giới thường ngày và thế giới thần thánh. Để di chuyển từ thế giới này sang thế giới khác, đặc biệt là từ thế giới thường ngày sang thế giới thần thánh, người ta phải đi qua một cánh cổng, thanh lọc bản thân tại một "bồn nước" được chỉ định cụ thể (temizuya) và, trong trường hợp của các nghi lễ trà đạo truyền thống, phải thay quần áo. Ngôn ngữ chính thức bên trong "không gian linh thiêng" được đánh dấu, 3*ngôn ngữ nghi lễ, được chính thức hóa và xóa bỏ những khác biệt xã hội được truyền đạt bởi người Nhật Bản hàng ngày. Tương tự như vậy, biểu tượng hai thế giới như vậy có thể được tìm thấy và được gợi lên bởi các cuộc hành hương mời người thực hành rời bỏ thói quen hàng ngày của họ, đến một địa điểm được đánh dấu đặc biệt, mặc áo choàng của người hành hương và tham gia vào các nghi lễ và nghi thức được quy định. Các chuyên gia tôn giáo như tu sĩ và pháp sư là những người đi lại và giao tiếp giữa hai thế giới này.