TỰ ĐĂNG MINH-PHÁP ĐĂNG MINH & NHẬT NGUYỆTĐĂNG MINH Thích Tâm Thiện
Trên con đường tu tập, có nhiều pháp môn-phương tiện khác nhau. Tuy vậy, để có thể đi đến thành tựu, pháp môn nào cũng cần có hơi thở của chánh niệm, tỉnh thức, vì đó là những yếu tố tạo nên ánh sáng giác ngộ từ nội tâm. Ánh sáng tự nội ấy luôn là nền tảng thăng hoa trong thế giớitâm linhPhật giáo. “Tự đăng minh, Pháp đăng minh”, và “Nhật NguyệtĐăng Minh” là những điểm giáo huấn đặc thù về ánh sáng tự nội được trình bày trong kinh tạng từ Nguyên thủy đến Đại thừa. Kinh tạngNguyên thủy ghi lại rằng, trước lúc Đức Phậtnhập niết bàn, tôn giả A-nan và hàng đệ tử đã vô cùngsầu muộn, nghĩ rằng sau khi Như Laidiệt độ sẽ không còn nơi nương tựa cho đời sốngtâm linh nữa. Các vị lo âu về sự ra đi của đấng cha lành, vì bóng mát đại từ của thế gian rồi đây sẽ không còn hiện hữu. Trước những tâm thái như vậy, Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này A-nan, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình nương tựa chính mình (attàsaranà). Dùng chánh pháp làm ngọn đèn (dhamma dipà), dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác…” Đó là lời dạy cuối cùng của Đức Phật trước giờ Niết bàn. Lời dạy tuy rất ngắn gọn nhưng nó được xem là một di giáotâm linh vĩ đại, chuyên chở tinh hoa của triết lý giác ngộ và đời sốngtịch tịnh. Bước đầutu tập, bao giờ chúng ta cũng cần một nơi nương tựa, một vị đạo sư, vị thầy đưa đường dẫn lối. Nương tựa đạo sư, dĩ nhiên, không phải là tìm nơi để gởi gắm tâm tư hay khát vọng. Mục đích của việc nương tựa đạo sư là để cầu pháptu hành, thọ học các giáo huấn và nương theo đạo hành của tôn sư, rồi từ đó, tự mình thăng chứng cõi ngộ cho chính mình. Lời dạy sau cùng của Đức Phật chỉ rõ hai khía cạnh thiết yếu của sự nương tựa (viharatha), đó là Tự đăng minh(atta-dipà) “Hãy là ngọn đèn cho chính mình”, và Pháp đăng minh(dhamma dipà) “Dùng chánh pháp làm ngọn đèn”. Trong suốt chiều dài lịch sử của Phật giáo, hai yếu tính này luôn là giáo huấn quan trọng làm nền tảng cho mọi trú xứ tâm linh. Bước sang thế giới của Đại thừa, đặc biệt ở kinh Pháp Hoa, một lần nữa chúng ta gặp lại giáo huấnthiêng liêng đó qua hình ảnhĐức PhậtNhật NguyệtĐăng Minh(Candrasūryapradīpa). Theo quan điểmlịch sử của Đại thừa, trong những năm cuối đời, khi sắp mãn duyên giáo hoá ở cõi Tà-bà, dù tuổi đã cao, Đức Thế Tôn vẫn quyết địnhgiảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa trên đỉnh núi Linh Thứu, “Ngài sẽtuyên nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh trống pháp lớn, và diễn pháp nghĩa lớn”. Những biểu từ trên được mô tả trong chương đầu (Tự Phẩm) của kinh là sự báo hiệu rằng pháp hy hữu chưa từng có sắp được Thế Tôntuyên thuyết. Pháp hy hữu ấy chính là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Mở đầu phần Tự Phẩm, chương thứ nhất, kinh giới thiệu truyền thốnggiác ngộ của các vị cổ Phật trong quá khứ, các Ngài tuần tựthọ ký cho nhau thành Phật với hai mươi nghìn Đức Phật cùng đồng một hiệu Nhật NguyệtĐăng Minh(Candrasūryapradīpa), và cùng đồng một họ Phả-la-đoạ (Bharadvàya). Đức PhậtNhật NguyệtĐăng Minh sau cùng, lúc chưa xuất gia có tám vị vương tử. Khi hay tin vua cha xuất giathành đạo, tám vị vương tử cũng xin xuất giatu học, về sau tất cả đều thành Phật, vị thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng (Dìpamkara), tiền kiếp là thầy của Đức Thích Ca Như Lai. Về ý nghĩa, nhật là mặt trời, nguyệt là mặt trăng, đăng là đèn, minh là ánh sáng. Như vậy, Nhật NguyệtĐăng Minh có nghĩa là ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng, và ánh sáng của đèn. Để nguồn sáng thường hằngliên tục, nơi nào ánh sáng mặt trời, mặt trăng không thể chiếu đến thì cần có ánh sáng của đèn. Cũng vậy, đối với danh hiệu của Đức cổ Phật Nhiên Đăng, nhiên là thắp sáng, đăng là đèn; danh hiệu Nhiên Đăng, do đó, có nghĩa là vị Phật thắp lên ngọn đènchánh pháp. Thông qua ý nghĩa của Phật hiệu cũng như sự nối tiếp rất đặc trưng của hai mươi nghìn Đức Phật cùng đồng hiệu cho thấy các giá trịtâm linh và năng lực nhiệm mầu nó luôn gắn liền với ánh sáng tự nội trên cung đường giác ngộ. Ở đây, kinh nhấn mạnh đến chi tiết hai mươi nghìn Đức Phậttuần tựthọ ký cho nhau và cùng mang một Phật hiệu giống nhau là dấu ấn nổi bật, nhằm bày tỏ yếu tính của sự giác ngộ, cái làm nên truyền thốnggiác ngộ của chư Phật. Yếu tính đó chính là tuệ giác nội tại, một loại ánh sáng chỉ xuất hiện trong tâm thứccá thể nhưng được ví như là ánh sáng của mặt trờirực rỡgiữa ban ngày, mặt trănghuyền diệu giữa ban đêm, hay là ánh sáng của đèn xoá tan mịt mù nơi tăm tối. Vì đó là thành quả của quá trình tư duythiền định, gội rửa phiền não, và tịnh hoá nội tâm. Trên bình diện lịch sử-tư tưởng, điều này cũng hiển lộ sự nối kết tương thừa của truyền thống “truyền đăng tục diệm”, nối dài từ thời Phật giáo Nguyên thủy đến Phật giáoĐại thừa, hay nói khác đi là từ Tự đăng minh, Pháp đăng minhcho đếnNhật NguyệtĐăng Minh. Điều thú vị ở đây là khi nói đến Nguyên thủy, chúng ta nói đến giai đoạn khởi nguyên của lịch sửPhật giáo cách đây hơn 2,600 năm. Nhưng kinh Pháp Hoa nói đến khái niệm nguyên thủy rất khác, một loại nguyên thủy vượt thời gian, nó lâu xa hơn cả khái niệm nguyên thủy mà chúng taquan niệm, nếu không muốn nói đấy là một loại nguyên thủy-vĩnh hằng. Kinh ghi rằng: “Vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp về trước, có Đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh diễn nói chánh pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba thời đều lành, nghĩa lý rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ các tướng phạm hạnhthanh bạch. Ngài vì hàng Thanh văn, nói pháp Tứ đế; vì hàng Duyên giác, nói pháp mười hai Nhân duyên; vì hàng Bồ tát nói sáu pháp Ba-la-mật làm cho thành tựu Vô thượng chánh giác. Kế đến, lại có Đức Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, và như thế đến hai mươi nghìn Đức Phật đều cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, đầy đủ mười hiệu, tuần tựthọ ký cho nhau, những pháp được nói ra, đầu, giữa, sau đều lành.” Thuật ngữ A-tăng-kỳ ở đây chỉ đến một khoảng thời gian rất dài, dài đến vô hạn, vô lượng, vô biên, vô số kiếp, không thể tính đếm được. Kinh nói rằng, Đức Nhật NguyệtĐăng MinhNhư Laicuối cùng (trong số 20,000 Đức Phật đồng hiệu) sau khi xuất định, vì Bồ tátDiệu Quang, đã giảng kinhPháp Hoa suốt sáu trăm nghìn năm. Với thời gian dài lâu như thế, dù chỉ trong ý niệm, rõ ràng khái niệm nguyên thủy của 2,600 năm quả thực là ngắn ngủi. Tuy nhiên, vấn đề không nhằm chỉ đến thời gian, hữu hạn hay vô cùng, điều đáng chú ý ở đây là bản thể của ánh sáng-giác ngộ, hay nói khác hơn là nguồn mạch tâm linh đích thực của Phật giáo trong cái nhìn của Pháp Hoa. Mô tả đặc trưng về hai mươi nghìn Đức Phật cùng hiệu Nhật NguyệtĐăng Minh cũng gợi lên những ý nghĩasâu xa về tính chấtsiêu việt của khả tính giác ngộ cũng như cái chân lý được chứng ngộ bởi chư Phật trong quá khứ. Quả thật, dù xưa hay nay, chân lý chỉ có một. Cũng vậy, tính chấtgiác ngộ của chư Phật trong quá khứ và hiện tại cũng chỉ có một, đấy là ánh sáng chiếu diệu từ nội tâm, hay còn gọi là tự giác thánh trí. Cái nôi của chánh pháp nằm ở đó. Tịnh độ hay niết bàn cũng phát sinh từ đó. Thiếu vắng ánh sáng giác ngộ từ nội tâm, cuộc hành trìnhtâm linh của hành giả sẽ biến thành mông lung mây khói! Trước khi thuyết kinhPháp Hoa, Đức Thế Tôn phóng một luồng hào quang giữa đôi chân mày xuyên suốt mười tám nghìn thế giới ở phương đông. Thính chúng nương vào ánh quang minh của Ngài có thể nhìn thấy sự thật trong toàn chân pháp giới, từ địa ngục A-tỳcho đến trời Sắc-cứu-kính, thấy rõ sự sinh tử luân hồi của chúng sinh trong các cõi, cho đến thấy rõ tiến trình tu hànhthành Phật. Luồng ánh sáng từ lông trắng giữa đôi chân mày biểu thị cho năng lựcvô cùng của Phật huệ-tri kiến Phật. Đức Phật xác định rằng cái năng lực của tri kiến ấy không chỉ có riêng ở Đức Phật mà nó cũng có mặt bình đẳng ở bất kỳ chúng sinh nào. Như mặt trời toả chiếu khắp thế gian, khi Phật huệ có mặt thì vạn pháp đều được soi sáng rạng ngời, phơi bày một cách không ngăn ngại, phơi bày như là chính nó, từ sinh tửcho đếnNiết bàn. Đức Thế Tôn vì thương xótchúng sinh ở đời hiện tại và vị lai nên đã dùng ánh quang minh của Ngài để hiển thị toàn cảnh pháp giớidung thông, đồng thời dắt dẫn thính chúngthể nhập vào nhất chân pháp giới, một thế giới vượt lên trên mọi héo hắt của thời gian và không gian, vượt lên trên mọi cách biệt thánh phàm. Ánh sáng linh diệu từ cõi ngộ ấy bất kỳ lúc nào và ở đâu cũng là suối nguồn tâm linhvô tận, nó luôn mang đến cho hành giả một sức sống mãnh liệt, diệu thường dù ở chốn trần lao. Thật vậy, bóng tối không thể xoá nhoà bóng tối, chỉ có ánh sáng mới có thể diệt trừ bóng tối cho dù nó đã trú ngụ đâu đó cả nghìn năm. Trong cõi vô minh với đôi mắt mù loà, chúng sinh vẫn mãi miết thăng trầm trong ba cõi. Vì vậycon đườngthoát lysinh tử khổ đau chính là sự trở về phát huy ánh sáng giác ngộ từ nội tâm. Đấy là mục tiêutối hậu của Phật giáo, và đấy cũng là tiếng nói thiêng liêng của chư Phật: “Tự đăng minh, Pháp đăng minh” và“Nhật Nguyệt Đăng Minh”. Nam MôCửu Viễn Thật ThànhĐại Ân Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam MôQuá KhứNhật Nguyệt Đăng Minh Phật. Tu viện Thượng Hạnh, Mùa Đông, Dallas, 2020 Tự Đăng Minh-Pháp Đăng Minh