Và khi
Phật giáo truyền lên phía Bắc cũng có
kiết tập kinh điển, nhưng sự
kiết tập quan trọng nhất là vào thời vua Ca Nị Sắc Ca. Từ đó, các
bộ kinh điển
Đại thừa ra đời
gồm có Duy Ma, Thắng Man,
Vô lượng thọ, Quán
Vô lượng thọ tức
kinh A Di Đà,
Dược Sư,
Đại Bảo tích,
Pháp hoa, Bát-nhã,
Hoa nghiêm và Niết-bàn.
Đại là lớn, là đông, là
đại chúng.
Đại thừa có nghĩa là
mở rộng.
Vì vậy,
tinh thần Phật giáo Đại thừa thể hiện rõ nét rằng
Phật giáo đến vùng nào thì nhẹ nhàng
kết hợp với nền
văn hóa,
văn minh của nơi đó làm cho
giáo pháp Phật được
mở rộng thêm.
Trong khi Nam truyền
Phật giáo phát triển ít và còn giữ lại hai
hình thức của
thời kỳ Phật còn
tại thế là vấn y và
khất thực. Ngày nay,
Phật giáo Nam truyền có mặt ở các nước
Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia và cũng được
truyền bá sang một số nước
Âu Mỹ.
Hình thức phục sức của
tu sĩ Nam truyền
Phật giáo vấn
y theo kiểu Phật còn
tại thế, vì
y phục này là
văn hóa của
Ấn Độ. Và khi
Phật giáo truyền bá đến các nước
Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia thì cách
ăn mặc ở các nước này cũng giống với
Ấn Độ nên không có sự thay đổi về
y phục của
tu sĩ Nam truyền.
Thứ hai là các Tỳ-kheo phải đi
khất thực, vì Phật
tại thế, Ngài cấm Tỳ-kheo tham chính, sản xuất, buôn bán. Vì thế,
hình thức khất thực được coi là pháp
căn bản nhất của
Phật giáo Nam truyền.
Thật vậy, Tỳ-kheo nghĩa thứ nhất là
khất sĩ, lấy
khất thực làm hạnh chính. Vì Tỳ-kheo không có
vật dụng nào khác ngoài
y bát thể hiện ý nghĩa xuất gia không được
sở hữu bất cứ thứ gì và chỉ lấy ba
pháp ấn là không,
vô tác và
vô nguyện làm chuẩn mực
tu hành. Trước nhất, Tỳ-kheo luôn an trụ
pháp không, từ
tư tưởng là không
cho đến mạng sống cũng không và nhìn
cuộc đời là biển khổ.
Vì vậy, người tu cần ra khỏi biển khổ
cuộc đời càng sớm càng tốt gọi là
xuất thế tục gia, không
dính líu đến
cuộc đời.
Đầu tiên
bỏ nhà thế tục và
tu hành để tâm không còn buồn giận lo sợ, đoạn sạch
phiền não gọi là xuất
phiền não gia, thì tâm
hoàn toàn trống không mới trụ được
pháp không để
cuối cùng ra khỏi
ba cõi Dục giới,
Sắc giới và
Vô sắc giới.
Dục giới có 6
cõi trời cũng còn ở trong 6 nẻo
luân hồi, đó là cõi
Tứ thiên vương thiên,
Đao lợi thiên,
Dạ ma thiên,
Đâu suất đà thiên,
Hóa lạc thiên và
Tha hóa tự tại thiên.
Trời hay
chư thiên có
đời sống cao hơn
loài người, nhưng họ còn dục, còn
ham muốn, còn tình cảm.
Chư thiên có nam, nữ nhưng không có
dâm dục giống
trần tục.
Tuy nhiên họ còn có
dục tâm nên họ còn hưởng thụ
vui chơi, nhưng thân của họ
vi tế hơn thân
con người.
Con người thuộc
thai sanh là phải chui vô thai mẹ mới sanh ra được. Trong khi thân
chư thiên là
Hóa sanh, nên họ không bị khổ như
thai sanh.
Tùy theo phước tu được mà có
Hóa thân tương ưng,
vì vậy có phước mới làm
chư thiên.
Nhưng Phật nói
chư thiên hưởng hết phước cũng bị đọa xuống làm người.
Quan sát loài người, Phật dạy rằng trong
cõi người có
ngũ thú tạp cư nghĩa là
thế giới loài người có đủ năm loại người sinh sống là
chư thiên,
con người và những người thuộc
ba đường ác của
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh sanh lại.
Nếu là
chư thiên bị đọa xuống làm người thì
cốt cách thần tiên còn nên họ là người
thông minh, tánh thuần hậu,
sức khỏe tốt,
ngoại hình đẹp. Nếu
chúng sanh của
ba đường ác sanh lại làm người thì họ có
ngoại hình khó coi, tánh hung dữ, hôi dơ,
xấu xí,
nghèo khổ, ngu dốt. Còn người sanh lại thì thuộc hạng trung bình.
Trở lại Tam pháp ấn của Tỳ-kheo theo
Phật giáo Nam truyền, trụ
pháp không thì dứt bỏ thú vui của
loài người, của
chư thiên và thú vui của 18
cõi trời Sắc cũng bỏ luôn để ra khỏi
lục đạo tứ sanh, tức
chấm dứt sanh tử luân hồi và
chứng quả vị A-la-hán không
tái sanh lại. Nam truyền
Phật giáo vẫn giữ
truyền thống này.
Tuy nhiên, cũng có một số
cải cách vì không phải ai cũng giữ trọn được pháp này. Thật vậy, giữ
hình thức vấn
y theo Phật thì được, hoặc giữ hạnh đầu-đà ngày ăn một bữa. Còn những điều khác
như không giữ tiền, hay đi
khất thực thì có vị cũng không
tuân thủ.
Thiết nghĩ đó là sự
cải cách cho
phù hợp để
đời sống tu hành được
thuận lợi.
Còn
Phật giáo Bắc truyền khi tiến lên phía Bắc đã
tiếp nhận những nền
văn minh mới truyền sang. Thật vậy, từ thời Alexandre đại đế đã đem quân xâm chiếm
Ấn Độ và
văn minh của Hy Lạp, Ai Cập là hai nền
văn minh lớn của Trung Đông cũng theo đó mà
thâm nhập vào đất Ấn. Theo
lịch sử, 5.000 năm trước Tây lịch,
loài người đã có ba nền
văn minh lớn là
văn minh của Ai Cập,
văn minh của
Ấn Độ và
văn minh của Trung Hoa.
Phật giáo Bắc truyền lên phía Bắc liền
tiếp thu văn minh Ai Cập, Hy Lạp vì theo
tinh thần Đại thừa hay
đại chúng, những gì
chúng ta chưa biết thì phải học, không chê bỏ những cái hay khác với mình.
Thể hiện rõ nét
tinh thần tiếp thu sâu sắc tinh ba của
văn minh Ai Cập, nhất là về toán học và
thiên văn học,
chúng ta thấy
kinh Hoa nghiêm thường đề cập đến hai
lãnh vực này.
Khi Phật
tại thế, những gì không biết thì hỏi Phật, nhưng Ngài ở Niết-bàn,
chúng ta căn cứ vào lời Phật dạy. Phật nói rằng những gì Ngài nói
ví như nắm lá trong tay, còn
giới hạn. Những gì Phật biết như lá trong rừng, mà Phật không thể nói được vì
mọi người không có khả năng
tiếp thu, không thể
sử dụng. Ý này Phật thường
ví như người bị mũi tên độc, phải mau rút mũi tên độc và chữa sạch vết thương để
cứu mạng sống. Bấy giờ mà nói về
vũ trụ bao la hình thành như thế nào,
con người từ đâu đến đây… quả là
vô ích. Bao giờ
mọi người có khả năng hiểu, Phật mới nói,
ví như người mù được sáng mắt, mới có thể
diễn tả màu sắc cho họ.
Vì vậy, trên
con đường truyền bá Chánh pháp, căn cứ
lời Phật dạy,
Bắc truyền Phật giáo trước tiên tiếp thu văn minh Ai Cập và Hy Lạp
tiêu biểu cho tinh ba của
kiến thức nhân loại, sau đó truyền xuống Trung Á,
Phật giáo lại
tiếp thu luôn
văn minh của Trung Hoa.
Nhưng phải khẳng định rằng
kinh điển Đại thừa và kinh
Nguyên thủy là một, không phải hai. Thật vậy, tuy cùng một việc, nhưng người
thông minh hiểu khác, người chỉ hiểu theo
ngôn ngữ, hay hiểu
bề ngoài, không hiểu chiều sâu thì khác. Vì
trình độ hiểu biết khác,
năng lực khác mà có sự
diễn dịch kinh điển khác nhau.
Vì vậy, với sự
kết hợp ba nền
văn minh lớn của
loài người lại có thêm
tuệ giác vô thượng của
Đức Phật và
kinh nghiệm tu hành của chư vị
Tổ sư đã tạo nên sự ra đời của
kinh điển Đại thừa toát lên
tính chất sâu sắc hơn, nên được nhiều người
tiếp thu và được vua chúa Trung Hoa
ủng hộ.
Khi
Phật giáo Đại thừa truyền sang Trung Hoa, đến
Mông Cổ,
Tây Tạng, Hàn Quốc,
Nhật Bản,
Việt Nam thì có phần khác hơn
Phật giáo Nguyên thủy. Đó là
Phật giáo Đại thừa chẳng những
chấp nhận văn minh của
nhân loại mà còn
chấp nhận cả nền
văn hóa bản địa ở nơi
Phật giáo đặt chân đến. Sự
tùy thuận này nhằm giúp cho sự
tu hành của
tu sĩ thích hợp với phong tục tập quán của từng
quốc gia, từng vùng miền và tạo nên sự
tồn tại vững bền của
Phật giáo trong công cuộc
hoằng dương Chánh pháp lan rộng khắp
mọi nơi.
Thật vậy, khi
Phật giáo truyền đến Trung Hoa,
văn hóa nước này
không chấp nhận thầy tu trẻ tuổi, khỏe mạnh đi
khất thực, nên người ta không theo. Vì thế, các vị Tổ
nhận thấy nước này có sẵn
Khổng giáo chủ trương
xây dựng đời sống theo
Tam cương Ngũ thường và
Lão giáo có
thiên văn, địa lý,
bói toán mà người dân Trung Hoa và vua chúa cũng
tin theo.
Nếu đến đó mà nói theo
Nguyên thủy là không có địa lý,
thiên văn,
bói toán thì ai chịu nghe theo.
Người xưa có câu
nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc, vào nhà người ta mà nói và làm
trái với họ thì bị đuổi ra ngay, hoặc gặp khúc sông uốn cong,
đi thẳng không được phải đi đường vòng thôi.
Truyền bá đạo pháp phải tùy người, tùy chỗ mà hành xử cho
thích hợp, nhưng
Phật giáo vẫn có bản chất riêng.
Bước đầu,
Phật giáo chấp nhận tư tưởng của người, nhưng
trí tuệ của
tu sĩ Phật giáo hơn người và
việc làm tốt hơn người thì họ cũng phải đồng
thuận theo.
Có thể nói
Phật giáo Đại thừa không đặt nặng
vấn đề hình thức, nhưng coi trọng
trí tuệ. Và
Phật giáo Nguyên thủy tất yếu cũng đặt
trí tuệ lên hàng đầu. Tỳ-kheo không
thể không có
trí tuệ, Tỳ-kheo phải có
hiểu biết bằng người, thậm chí
hiểu biết hơn người là
tiêu chuẩn theo
Phật giáo Đại thừa. Riêng tôi theo
tinh thần Đại thừa, nên thuở nhỏ tôi mặc áo
tu học trường
phổ thông và trường
đại học với giáo sư người đời, vì phải học những gì mình chưa biết để
mở rộng kiến thức hơn người mới làm thầy
thiên hạ được.
Tinh thần Phật giáo Đại thừa chủ trương
tu sĩ phát huy
hiểu biết càng nhiều càng tốt,
cho đến hiểu biết hơn người, từ đó
Phật giáo Đại thừa mới đủ
năng lực hội nhập vào
xã hội Trung Hoa, cũng như
gắn bó mật thiết với
xã hội Việt Nam qua thuyết
Tam giáo đồng nguyên.
Thật vậy, khi
Phật giáo mới
du nhập vào Trung Hoa thì để
tùy thuận mới nói rằng việc
bói toán, cúng sao giải hạn của
Lão giáo là nhất và
Tam cương Ngũ thường của
Khổng giáo cũng nhất. Nhưng
lần hồi, người ta thấy các vị
cao tăng hiểu biết hơn các ông đồ nho, hơn các ông
đạo sĩ. Vì
hiểu biết của họ có
giới hạn trong
lãnh vực của họ thôi và họ ôm chặt lấy
hiểu biết hạn hẹp như vậy tất nhiên chẳng thể nào hơn nổi
tu sĩ Phật giáo thông cả
Lão giáo,
Khổng giáo và
Phật giáo.
Vì vậy, người ta
nhận xét rằng dân chúng
bản địa trước sùng Nho, sau họ trọng Thích.
Thực tế là các ông vua Trung Hoa, hoặc các vị vua thời Đinh-Lê-Lý-Trần nước ta theo
đạo Phật vì thấy
Phật giáo hay hơn
Nho giáo,
Lão giáo.
Thể hiện tinh thần hòa hợp,
Phật giáo Việt Nam tôn trọng đạo Khổng,
đạo Lão, nhưng
vị trí của
đạo Phật vẫn cao hơn, cao hơn về
hiểu biết vì
Phật giáo đã tổng hợp được
văn minh Ai Cập,
Ấn Độ và Trung Hoa. Cho nên các vị
cao tăng chú sớ
kinh điển Đại thừa mang tính
đại chúng phổ cập được nhiều
thành phần xã hội.
Phật giáo Đại thừa với
tinh thần mở rộng giáo pháp và hài hòa vào
sinh hoạt đa dạng của
xã hội, thì
hình thức nào cũng được, không nhứt định phải là
khất thực, vì
khất thực chỉ là
phương tiện để
cảm hóa quần chúng.
Đức Phật là bậc Thầy
tối cao của trời người, Ngài thừa
phước đức, không
cần phải đi
xin ăn,
rõ ràng Ngài đã
vứt bỏ cuộc sống nhung lụa của vua chúa.
Sở dĩ Đức Phật chọn việc
khất thực vì Ngài muốn phá bỏ
truyền thống phân chia giai cấp cổ hữu
sai lầm từ ngàn đời của
Ấn Độ, nên Ngài đưa ra thuyết
bình đẳng và
thể hiện chân lý bình đẳng bằng
cách sống chung với
giai cấp Sa-môn thấp nhất. Phật đã
chứng minh được rằng dù Ngài mặc áo
phấn tảo và đi
khất thực, nhưng không ai dám
xem thường Phật, vì Phật hơn tất cả
mọi người ở
trí tuệ vô thượng và
đạo đức thánh thiện siêu tuyệt. Với hai khả năng tối ưu này, Phật mới
cảm hóa mọi người một cách dễ dàng.
Theo dấu chân Phật,
Đại thừa Phật giáo lấy
trí tuệ và
đạo đức là
chính yếu, còn tu theo
hình thức nào cũng được. Và
đạo đức hơn người theo
Đại thừa nghĩa là
tu sĩ có cuộc sống mang lại
lợi ích cho
cuộc đời. Chính
Đức Phật đã
thể hiện yếu lý này, Ngài nói rằng Ngài ra đời
vì lợi ích cho
chư thiên và
loài người,
lợi ích cho số đông. Nếu
quan sát thực tế xã hội,
chúng ta thấy rõ người nghèo ở bất cứ
quốc gia nào cũng chiếm số nhiều nhất.
Vì vậy,
Phật giáo Đại thừa tu theo yếu
lý Phật dạy, chủ trương làm
lợi ích cho nhiều người chính là mẫu người
đạo đức thực sự.
Kinh Pháp hoa dạy rằng
Đức Phật ở
thế giới vĩnh hằng
bất tử và Ngài
hiện thân vào
thế giới loài người ở
vị trí cao sang nhất, nhưng Ngài
từ bỏ vinh hoa phú quý mà chọn
đời sống Sa-môn đi
khất thực để gần gũi và
dìu dắt những người
nghèo khổ yếu thế giúp họ thoát khổ và có được cuộc sống
thánh thiện.
Thực hiện tinh thần đồng sự nhiếp theo Phật, ngài
Ma Ha Ca Diếp là
đại đệ tử của Phật và
xuất thân từ gia đình
giàu có, đâu phải thiếu ăn thiếu mặc, nhưng ngài đã mặc áo vải bó thây ma và vào xóm nghèo
khất thực để có cơ hội tiếp cận và lần lần
cảm hóa những người
ăn mày ngu dốt.
Còn ngài
Tu Bồ Đề thì
trái lại,
ăn mặc sang trọng và cầm
bình bát bằng vàng do vua
cúng dường, chỉ
khất thực ở khu
giàu có và vào nhà vua chúa để
giáo hóa. Cầm bát vàng mà lang thang vô xóm nghèo
chắc chắn mất bát, thậm chí
mất mạng.
Vì vậy, muốn
giáo hóa tầng lớp nào phải
ăn mặc và làm giống họ, không cần
hình thức cố định. Chỉ cần có
hiểu biết hơn người mà
tùy theo yêu cầu và khả năng của người để hướng dẫn họ có cuộc sống phát triển. Vì
thực hiện yếu nghĩa này,
chúng ta thấy
đệ tử Phật mỗi người có một hạnh khác nhau.
Khi Phật
tại thế,
đệ tử Phật còn đa hạnh, thì ngày nay mỗi
tu sĩ có
việc làm khác nhau là tất yếu, không được chê nhau. Tuy
đệ tử Phật, mỗi người làm khác nhau, nhưng đều có
mục tiêu giống nhau là làm
lợi ích cho số đông. Nếu chưa làm được
lợi ích thì cũng không làm hại
cuộc đời. Đó là
tính cách mở rộng của
Phật giáo Đại thừa.
Sau khi Phật Niết-bàn,
kinh điển được
kiết tập có khác nhau.
Tuy nhiên, dù cho rằng
tạng kinh Pali đã ghi nguyên
lời Phật dạy, nhưng cũng phải từ khoảng 300 năm đến 500 năm sau mới được ghi chép
thành kinh. Còn trước đó, các thầy
cố gắng học thuộc lòng lời Phật dạy để truyền miệng lại cho
đệ tử, vì lúc đó chưa có
chữ viết.
Nhưng
thiết nghĩ một khi đã học, hiểu và
áp dụng vào
đời sống tu hành có được sở đắc do
tu chứng thì
chắc chắn gặt hái được sự
hiểu biết cao hơn và
đức hạnh cũng thăng tiến hơn. Không phải tu giậm chân tại chỗ.
Vì vậy, theo
Phật giáo Đại thừa, phát triển
đạo đức là làm
lợi ích cho nhiều người và được người
quý mến, đó là thiện. Làm những gì người
không chấp nhận là ác.
Ngoài ra, sự
hiểu biết của
chúng ta cũng phát triển theo từng cấp bậc
tu chứng.
Ban đầu, thầy nói sao thì ta hiểu vậy là hiểu
văn tự ngữ ngôn. Nhưng
tu hành,
chúng ta có
suy nghĩ để từng bước phát huy
trí tuệ cho đến có được
trí tuệ vô thượng là
thành tựu Phật quả.
Thí dụ Hòa thượng Huê Nghiêm dạy tôi
tụng kinh Pháp hoa theo Tổ
Thiên Thai là chỉ tụng quyển 7 thôi, không tụng trọn bộ. Tôi làm theo lời ngài dạy, nhưng
suy nghĩ tại sao Tổ dạy như vậy.
Và tụng quyển 7 kinh
Pháp hoa trải qua nhiều năm, tôi thấy hay quá, vì từng việc của Bồ-tát
Diệu Âm,
Quan Âm,
Phổ Hiền ghi trong quyển này hiện rõ trong tâm tôi và tôi
thực tập thấy quả đúng như Phật dạy.
Thật vậy,
tụng kinh Pháp hoa tôi
nhận ra Diệu Âm hành Bồ-tát đạo, ngài đã tu nhân hạnh gì để
thành tựu tôn danh là Bồ-tát
Diệu Âm, đó là điều quan trọng, không phải chỉ
tụng kinh suông.
Diệu Âm tu hành bằng cách
cúng dường âm nhạc dâng lên Phật.
Thí dụ cho
dễ hiểu Diệu Âm tụng kinh vang lên
âm thanh vi diệu khiến người nghe mát lòng và
phát tâm tu.
Triển khai ý này,
Phật giáo Đại thừa có những
bài kệ, bài sám được
tán tụng theo điệu nhạc để khơi dậy cho người nghe cảm nhận
an lạc, muốn tu. Còn
tụng kinh mà làm người
bực bội là sai.
Hành Bồ-tát đạo phải nói sao cho người mát lòng êm tai, nói ngược lại thì ai nghe. Điển hình như Phật thấy người Bà-la-môn lạy sáu phương mỗi ngày để cầu làm ăn phát đạt, nhưng không hiểu tại sao phải lạy như vậy, vì họ chỉ biết
lễ lạy theo phong tục tập quán
Ấn Độ. Phật không
bác bỏ cách
lễ lạy này, nhưng Ngài nương theo đó để dạy thêm rằng khi lạy phương Đông phải nghĩ đến
công ơn sanh thành
dưỡng dục của
cha mẹ,
tổ tiên để được họ phò hộ thì làm ăn mới khá. Nghe xong, ông này khen Phật dạy hay quá và hứa sẽ làm theo Phật.
Theo Phật, làm gì cũng phải
suy nghĩ, có
hiểu biết và phải
hiểu ý nghĩa
sâu xa.
Đức Phật đã
thực hiện lý này và
Phật giáo Đại thừa theo đó mà phát triển chiều sâu mới có Bồ-tát
Diệu Âm.
Kinh
Pháp hoa nói
Diệu Âm nhờ có
âm thanh kỳ diệu, nên khi ngài
xuất hiện đã làm cho
chúng hội cảm thấy mát lòng. Đó là ý mà
chúng ta phải học.
Diệu Âm tới
Kỳ Xà Quật thì 84.000
hoa sen báu liền
hiện ra để
đối trị 84.000
phiền não trần lao. Vì ở Ta-bà, mỗi người đều có
phiền não trần lao, cho nên Bồ-tát đến Ta-bà với thân
đạo đức ví như hoa sen tỏa hương thơm làm dịu mát
tâm hồn đại chúng.
Phật giáo Đại thừa triển khai tinh ba này qua
kiến giải của
Trí Giả đại sư rằng
núi Kỳ Xà Quật là
Linh Thứu sơn. Linh là chân linh, Thứu là
vọng thức và sơn là
thân tứ đại. Mang
thân tứ đại thì
vọng thức tràn đầy, còn chân linh thì sâu kín bên trong.
Hành giả tới Ta-bà
đối diện với 84.000
phiền não trần lao của
mọi người, tốt nhất là đừng làm
mất lòng người. Mỗi người có
hoàn cảnh riêng, phải
tùy theo đó mà nói những gì
thích hợp với họ để họ dễ
chấp nhận, không có một pháp cố định nào. Nói tóm gọn, không gì khác hơn là tới bằng 84.000
hoa sen làm người
phát tâm và cũng làm cho
hành giả tăng tấn
đạo hạnh.
Làm đạo theo
Diệu Âm khiến người
phát tâm xong, ngài
trở về bổn độ. Ở
Cực lạc cũng vậy, buổi sáng
hành giả lượm hoa để vô đãy, rồi đem hoa đi
cúng dường mười phương làm cho người
phát tâm xong,
trở về Cực lạc.
Đừng hiểu lượm hoa rơi ở
Cực lạc là lượm hoa thật, hoa này là tinh ba của Phật dạy để vô
thân tứ đại của mình, không phải cái đãy bên ngoài. Vì đem
Phật pháp để
vô tâm sẽ hiện
hảo tướng và có hành động của Bồ-tát làm cho người
phát tâm, đó là
Phật sự.
Thí dụ chúng ta đến vùng dân nghèo tặng quà rồi về khiến họ nhớ
lòng tốt của mình, quý mình. Đó là học
kinh Đại thừa, hiểu
kinh Đại thừa và
thực hành theo
kinh Đại thừa. Điều này khác với việc cố giữ
hình thức mà lại
trở thành phản
tác dụng. Thật vậy, Pôn Pốt giết tất cả các
nhà sư, mà người tu cứ mặc áo sư thì làm cách nào sống được. Lúc đó, người bạn tôi là
Hòa thượng Pháp sư Um Sum
nổi tiếng ở Campuchia đã cởi áo sư, lấy bùn bôi
lên mặt, giả làm
nông dân nên ngài mới
sống sót để sau này
phục hồi Phật giáo Campuchia.
Tóm lại,
Phật giáo Đại thừa chủ trương
thực hành cốt lõi của Phật pháp là phát huy
trí tuệ và làm việc
lợi ích cho số đông, để
Phật pháp được
mở rộng, tạo thành
thế giới an vui,
hiểu biết, hòa bình, phát triển cho muôn loài mọi giới.
HT. Thích Trí Quảng | Báo
Giác Ngộ