Theo
kinh điển thì
Đức Phật cũng mang
hình thức “đầu tròn áo vuông”. Bài viết này xin được nêu ra một số
bản kinh để
chứng minh cho điều này.
Kinh
Ambattha (A-ma-trú) thuật lại rằng: Một thời
Thế Tôn đang
du hành tại nước Kosala (Câu-tát-la), và đến tại một làng Bà-la-môn ở Kosala tên là Icchānankala. Bà-la-môn Pokkharasàdi trong làng
nghe đồn Sa-môn Gotama là bậc
Thế Tôn, A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác nên muốn đến
yết kiến. Ông bèn sai
đệ tử là thanh niên Ambattha đi đến gặp
Đức Thế Tôn để
tìm hiểu xem Ngài có được
tốt đẹp như lời đồn không. Khi gặp
Thế Tôn, thanh niên Ambattha đi qua đi lại, thốt ra những lời
hỏi thăm nhát gừng trong khi
Thế Tôn đang ngồi. Thấy vậy,
Thế Tôn nói với thanh niên Ambattha:
- Có phải, đối với các bậc Bà-la-môn
Trưởng lão,
đứng tuổi, các bậc giáo sư và
Tổ sư, ngươi cũng nói chuyện như vậy, như ngươi đã đi qua lại thốt ra những lời
hỏi thăm nhát gừng trong khi Ta đang ngồi, hay đứng lại thốt ra những lời
hỏi thăm nhát gừng trong khi Ta đang ngồi?
- Không phải vậy, này Gotama. Phải đi mà nói chuyện với một vị Bà-la-môn, này Gotama, nếu vị ấy đang đi. Phải đứng mà nói chuyện với một vị Bà-la-môn, này Gotama, nếu vị ấy đang đứng. Chỉ với những vị Sa-môn hèn hạ, trọc đầu, đê tiện, đen đủi, sanh từ nơi chân của
bà con ta, thì ta mới nói chuyện như vậy, như với ngươi, Gotama
(1).
Kinh
Sangārava thuật lại rằng: Một thời
Thế Tôn du hành trong nước Kosala. Lúc bấy giờ, một nữ Bà-la-môn tên Dhananjāni (Đa-na-xa-ni) có lòng tín
thành Phật, Pháp và Tăng. Rồi nữ Bà-la-môn khi bị trượt chân, thốt lên ba lần
cảm hứng ngữ: “Đảnh lễ
Đức Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!”. Thanh niên Bà-la-môn tên Sangàrava là người
tinh thông ba tập Veda, nghe nữ Bà-la-môn Dhananjāni nói như vậy liền tức giận nói: “Nữ Bà-la-môn Dhananjāni này thật là
hạ liệt, vì rằng trong khi các Bà-la-môn đang còn
sống lại nói lời
tán thán Sa-môn trọc đầu ấy”
(2).
Kinh
Dhananjāni kể rằng: Một thời
Thế Tôn ở Rājagaha (
Vương Xá). Lúc bấy giờ, nữ Bà-la-môn Dhananjāni, có lòng tín thành đối với Phật, Pháp và Tăng. Khi bưng cơm cho chồng đã hứng khởi thốt lên ba lần lời
cảm hứng: “Đảnh lễ
Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!”. Nghe nói vậy, Bà-la-môn nói với nữ Bà-la-môn Dhananjāni: “Như vậy, trong mọi thời, mọi dịp, kẻ hạ tiện này nói lời
tán thán vị Sa-môn trọc đầu ấy”
(3).
Kinh
Sundarika kể rằng: Một thời
Thế Tôn ở giữa dân tộc Kosala. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja làm lễ
cúng dường lửa. Rồi Bà-la-môn sau khi tế lửa, làm lễ
cúng dường lửa xong, từ chỗ ngồi
đứng dậy, nhìn
xung quanh tất cả bốn phương và nghĩ: “Ai có thể hưởng thọ món ăn cúng tế còn lại này?”. Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja thấy
Thế Tôn đang ngồi
dưới gốc cây, đầu được bao trùm liền tay trái cầm món ăn cúng tế còn lại, tay phải cầm bình nước đi đến
Thế Tôn.
Thế Tôn nghe
tiếng chân của Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja liền tháo đồ trùm ở đầu. Và Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja nghĩ: “Đầu vị này trọc, vị này là người trọc đầu”, nghĩ vậy, muốn trở lui”.
(4)
Kinh
Khomadusa kể rằng: Một thời
Thế Tôn ở giữa dân chúng Sakka, tại thị trấn tên là Khomadussa. Rồi
Thế Tôn vào buổi sáng,
đắp y, cầm
y bát,
đi vào thị trấn Khomadussa để
khất thực. Lúc bấy giờ các Bà-la-môn
gia chủ ở Khomadussa đang
tụ họp tại hội trường để
giải quyết một vài
vấn đề và trời đang mưa nhỏ hột. Rồi
Thế Tôn đi đến hội trường ấy. Các Bà-la-môn
gia chủ ở Khomadussa thấy
Thế Tôn từ xa đi đến, bèn nói: “Những Sa-môn đầu trọc ấy là ai?”.
(5)
Qua những
bài kinh trên,
chúng ta thấy rằng
hình ảnh Đức Phật với đầu được cạo trọc là một
hình ảnh bình thường trong mắt
mọi người lúc bấy giờ.
Kinh Giới phân biệt kể rằng:
Tôn giả Pukkusati
một lần tình cờ gặp
Đức Thế Tôn tại nhà thợ gốm Bhaggava nhưng vẫn không biết đó là
Thế Tôn: “Này Tỷ-kheo, trước đây ông đã thấy bậc
Thế Tôn ấy chưa? Và nếu thấy, ông có
nhận ra được không? - Thưa
Hiền giả, trước đây tôi chưa từng thấy bậc
Thế Tôn ấy. Và nếu thấy, tôi không
nhận ra được”.
(6) Điều đó cho thấy rằng về mặt
hình tướng,
Đức Phật cũng giống như những
tu sĩ Phật giáo khác. Mặc dù
Đức Phật có tướng tốt
nhục kế trên đỉnh đầu nhưng đó có thể là bởi đỉnh đầu của Ngài chỉ hơi nhô cao lên một chút thôi, chứ không phải một búi tóc cao, to thường thấy ở các
hình tượng hay tranh ảnh về Ngài. Nếu
Đức Phật để tóc một cách
đặc biệt như những
hình tượng mà
chúng ta thờ ngày nay,
chắc chắn Tôn giả Pukkusati vừa nhìn thấy đã biết ngay đó là
Đức Phật.
Không chỉ có
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cạo tóc,
hình thức “đầu tròn áo vuông” còn là
truyền thống của
ba đời chư Phật. Kinh Ghaṭīkāra ghi rằng: Thuở xưa vào thời
Đức Phật Kassapa (Ca-diếp) có người thợ gốm tên là Ghaṭīkāra. Thanh niên Jotipāla là người bạn
chí thân của thợ gốm Ghaṭīkāra. Vì muốn cho bạn mình được
lợi ích nên thợ gốm Ghaṭīkāra rủ thanh niên Jotipāla đi đến
yết kiến Thế Tôn Kassapa, nhưng thanh niên Jotipāla không có
lòng tin và nói với thợ gốm Ghaṭīkāra rằng: “Thôi vừa rồi, bạn Ghaṭīkāra,
yết kiến Sa-môn trọc đầu như vậy để làm gì?”.
(7)
Nếu
Đức Phật cũng
cạo tóc, cũng “đầu tròn áo vuông” như những
Tăng Ni khác thì tại sao các nghệ nhân, họa sĩ khi tạo
hình tượng của Ngài lại có búi tóc nhô cao như vậy? Đó là vì khi tạo hình
Đức Phật, người ta muốn khắc họa
nổi bật,
thể hiện rõ nét tướng
nhục kế và tướng tóc xoăn thành vòng theo chiều bên phải của
Đức Phật để ai nhìn vào đều có thể biết được Ngài có những tướng đó. Đây là một sự “cách điệu hóa” được phép
sử dụng trong lĩnh vực nghệ thuật nhằm
nhấn mạnh hay chuyển tải một
ý nghĩa nào đó của đối tượng nghệ thuật. Cùng
ý nghĩa này, ta thấy các nghệ nhân
thường hay vẽ một
vòng hào quang bao quanh đầu
Đức Phật hay các vị Bồ-tát, trong khi hầu hết người thường đều không thể nhìn thấy
hào quang.
Theo
lịch sử Đức Phật Thích Ca, sau khi vượt thành Ca-tì-la-vệ, Ngài đã cắt tóc
xuất gia,
vậy thì không lý nào sau khi
thành đạo Ngài lại để tóc. Khi
đắc đạo,
hóa độ đệ tử,
thành lập Tăng đoàn,
Thế Tôn và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni mỗi nửa tháng đều
cạo tóc. Nhân đây người viết cũng mạn phép xin có một
ý kiến nhỏ như sau. Mỗi nửa tháng
Tăng Ni đều
cạo tóc một lần vào ngày 14 và 30
âm lịch, trước khi làm
lễ sám hối và bố-tát, đây là
quy định của
Tăng đoàn từ xưa
đến nay. Nhưng
gần đây chúng tôi thấy rằng một số
Tăng Ni rất tùy tiện trong việc
cạo tóc. Họ muốn cạo khi nào thì cạo chứ không cần đúng ngày
quy định. Có người mỗi tuần cạo
một lần. Có người trước khi dự đám xá hay lễ lộc gì thì cạo tóc… cho đẹp (do
vậy mà nhìn vào một
buổi lễ người ta thấy
chư Tăng Ni có người tóc dài có người tóc ngắn rất không thuận mắt).
Chúng ta nên biết rằng việc
cạo tóc đối với người tu không hề giống như người ngoài đời hớt tóc. Hớt tóc thì khi nào thích thì hớt và hớt kiểu gì cũng được. Nhưng
cạo tóc là một pháp tu,
cạo tóc không phải để cho sạch, cho đẹp mà là để “hủy hình” nhằm trừ bỏ
tham ái.
Chúng ta phải
cạo tóc đúng nửa tháng là để giữ cái “đạo thường”, không nôn nóng,
không giải đãi, không rơi vào hai
cực đoan bất cập và
thái quá. Nếu
chúng ta không hiểu được những điều này thì
hình thức “đầu tròn áo vuông” có lẽ không còn
ý nghĩa gì nhiều nữa.
_______
(1) Kinh Trường bộ, kinh A-ma-trú số 3.
(2) Kinh Trung bộ, kinh Sangàrava số 100.
(3) Kinh Tương ưng bộ 1, chương 7: Tương ưng Bà-la-môn, phẩm A-la-hán thứ nhất.
(4) Kinh Tương ưng bộ 1, chương 7: Tương ưng Bà-la-môn, phẩm A-la-hán thứ nhất.
(5) Kinh Tương ưng bộ 1, chương 7: Tương ưng Bà-la-môn, phẩm Cư sĩ thứ hai.
(6) Kinh Trung bộ, kinh Giới phân biệt số 140.
(7) Kinh Trung bộ, kinh Ghaṭīkāra số 81.