Nguyệt Xứng (c. 570 - 650)
Nguyệt Xứng. Nhập Trung Đạo Tụng 1 Thanh Văn và Độc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật) là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát) Tụng 2 Mùa gặt quả Phật, Đại bi là hạt giống trong giai đoạn đầu, Tụng 3 Hữu tình nghĩ “Tôi” trước nhất và chấp ngã Tụng 4 Hữu tình vô thường và chẳng có hiện hữu tự tính, ----------------------------- Bản sơ đồ Giải thích Nhập Trung Đạo Khai Từ I. Ý nghĩa của danh đề ---------------------------------------------------------------------------- KHAI TỪ Nhập Trung Đạo (Madhyamakavatara) của Nguyệt Xứng (Chandrakirti) là vua của tất cả các bộ luận, minh giải tri kiến tối hậu của Phật Thích Ca đệ nhị, ngài Long Thọ. Trong bản trình bày của chúng ta, chúng ta sẽ thảo luận bốn chủ đề: ý nghĩa danh đề của luận, kính lễ của người dịch (bản Tạng ngữ), toàn văn luận, và kết luận. I. Ý nghĩa danh đề của luận Tên Sanskrit của bản tụng gốc là Madhyamakavatara nama, chuyển sang Tạng ngữ là dbu ma la ‘jug pa zhes bya ba (Introduction to the Middle Way), chuyển sang tiếng Việt là Nhập Trung Đạo. “Trung Đạo”: có hai nghĩa. Thứ nhất, trên phương diện tối hậu, nó quy chiếu tới pháp giới (dharmadhatu), trung đạo tuyệt đối, thực tại tính/pháp tính vượt ngoài tất cả các ý niệm. Thứ nhì, nó quy chiếu tới trung đạo kinh văn, đó là những bản văn giới thiệu thực tại tính / pháp tính tối hậu này. Ở đây chúng ta quan tâm tới trung đạo kinh văn, nó được chia thành hai tạng: giáo pháp của Phật (Tạng Kinh) và các giảng luận về giáo pháp của Phật (Tạng Luận). Ở đây chúng ta đang quan tâm đến bản văn “Nhập Trung Đạo” của Nguyệt Xứng minh giải ý nghĩa “Các tụng căn bản của Trung Đạo” của ngài Long Thọ. Nó là một bản dẫn nhập tổng hình thành hai tiếp cận diệu nghĩa thâm sâu và thực hành vạn hạnh. Về phương diện diệu nghĩa thâm sâu, nó trình bày giáo pháp của các bản kinh theo ý nghĩa tối hậu, cùng với những chỉ giáo của ngài Long Thọ. “Các tụng căn bản về Trung Đạo” là nền tảng chung của các nhà Trung Quán Tự Trị và Trung Quán Hệ Quả (Svatantrikas và Prasangikas), khi xét để phân biệt các quan điểm của họ. Nguyệt Xứng khi luận giải về bản văn “Các tụng căn bản của Trung Đạo” đã nhấn mạnh vào chính chân lí tối hậu, nó vượt ngoài tầm với của tất cả các luận đề. Thế nên ngài theo tri kiến cao siêu của các nhà Prasangikas (Trung quán Hệ quả; Trung quán cụ duyên). Về phương diện tiếp cận thực hành vạn hạnh, ngài giảng ba phương diện của người bình thường, mười địa hoặc giai đoạn thực chứng thánh giả trên con đường tu tập của hữu học, và mức độ tối thượng của vô học. II. Kính lễ của người dịch (bản Tạng ngữ). Bản văn gốc mở đầu với lời cung kính thỉnh cầu “Kính lễ Ngài Mạn thù thất lợi vương tử, thuần nhã, diệu đức và thanh xuân vô tận” (“Homage to Manjushri Kumara – tender, glorious, ever-youthful”). Ngài Mạn thù thất lợi được gọi “thuần nhã”, vì ngài không có những thô cứng của tính tiêu cực, và ngài là “diệu đức” (“glorious”) trong những thành quả phong phú của hai mục đích (cho mình và cho người). Ngài là “thanh xuân vô tận” (“ever-youthful”), bởi vì, mặc dù là vua của chư Phật, ngài xuất hiện trong hình tướng một Bồ tát, con của Phật. Thế nên, vào lúc khởi sự công trình dịch thuật, với những lời chào mừng này, người dịch kính lễ giáo pháp tối hậu của A tì đạt ma (Đối pháp tạng), kính lễ ngài Mạn thù thất lợi, theo như khuôn mẫu để giới thiệu là bản văn thuộc về Tạng Luận. III. Luận văn. Nhập Trung Đạo cũng bắt đầu theo ba phần: kính lễ của tác giả (ngài Nguyệt Xứng), thân luận văn, và kết luận. A. Kính lễ của Ngài Nguyệt Xứng, tác giả Diễn từ kính lễ của ngài Nguyệt Xứng gồm có hai mục chính. Thứ nhất, ngài nhận diện các đặc hữu của ba nguyên nhân bồ đề tâm và kế tiếp ngài ca ngợi đại bi, thứ nhất ca ngợi tổng quát và kế đến ca ngợi ba phương diện của đại bi theo bảng phân loại. 1. Ba nguyên nhân của các Bồ tát Tụng 1 Thanh Văn và Độc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật) Trước hết ngài Nguyệt Xứng nói đến các Thanh văn, những vị lắng nghe những chỉ giáo của Đức Phật, thiện tri thức toàn hảo của họ, và rồi giảng dạy những chỉ giáo này cho những người khác. Kế đó ngài nói đến những vị Độc giác Phật, những vị có phúc đức và trí tuệ rộng lớn hơn các vị Thanh Văn và thực chứng mau chóng hơn, nhưng họ thấp hơn Chư Phật và thế nên được định một vị trí trung gian. Các vị Thanh Văn và Độc giác sinh khởi từ ngôn ngữ của Phật, Tối Thắng Thánh Giả. Chư Phật kế tiếp được nói là sinh từ chư Bồ tát, quy chiếu về thời điểm đặc biệt khi vị Bồ tát, trên con đường tu tập hữu học, nhập thanh tịnh toàn hảo. Giờ đây ba yếu tố là nguyên nhân của chư Bồ tát, những người con của Đấng Tối Thắng: thứ nhất, tâm đại bi, nguyện vọng bảo vệ các hữu tình thoát khỏi đau khổ; thứ nhì, tâm bất nhị, trí tuệ siêu việt thấy vượt ngoài các cực đoan hiện hữu và phi hiện hữu; và thứ ba, tâm bồ đề, tâm giác ngộ. Như Ngài Long Thọ nói trong “Bảo hành vương chính luận” (Ratnavali/ Vòng hoa quý) Nếu chúng ta và toàn thế giới 2. Ca tụng đại bi a. Ca tụng đại bi trong nghĩa tổng quát Tụng 2 Mùa gặt quả Phật, Đại bi là hạt giống trong giai đoạn đầu, Ngài Nguyệt Xứng bắt đầu ca tụng đại bi một cách tổng quát. Kế đến ngài kính lễ các loại đại bi chuyên biệt. Đại bi được tuyên bố là quan trọng ở mở đầu, ở giữa và ở cuối con đường tu tập. Ở lúc khởi hành, đại bi là hạt giống cho mùa gặt phong phú của phật quả. Đại bi cũng quan trọng trong thời kì giữa, là một phương pháp hữu hiệu để tăng trưởng, cũng như nước là chính yếu để nuôi dưỡng mùa màng. Chính là nhờ vào đại bi của mình, các Bồ tát đã không bị thoái lui trong các quyết tâm của mình mặc dù đối diện với vô lượng hữu tình cư xử ác độc, và chẳng hề biết ơn. Sau cùng nói đến đại bi cũng quan trọng ở giai đoạn cuối, vì nó thành tựu toàn hảo xác định [toàn hảo xác định : giải thoát khỏi luân hồi sinh tử ; đại giải thoát của Phật] . Kết quả là ngài Nguyệt Xứng cao quý tuyên bố rằng vào lúc khởi đầu ngài sẽ ca tụng đại bi. b. Kính lễ các loại khác nhau của đại bi Kế tiếp Ngài tiến hành kính lễ, thứ nhất đại bi có các hữu tình là đối tượng; thứ nhì, đại bi có biến dịch là đối tượng; và thứ ba, đại bi chẳng có quy chiếu. i. Kính lễ đại bi có các hữu tình là đối tượng (chúng sinh duyên đại bi) Tụng 3 Hữu tình nghĩ “Tôi” trước nhất và chấp ngã Trước nhất, có một chấp thủ “Tôi” là một ngã bị đinh ninh là hiện hữu, kế đó sinh khởi ý niệm “của tôi”. Tất cả điều đó được xem là thuộc về ngã này -- tỉ dụ các mắt của bạn -- kế đến được đinh ninh là hiện hữu thực hữu, và sinh ra tham ái với nó. Chính vì điều này mà hữu tình lang thang bất lực trong sinh tử luân hồi, từ Hiện hữu Trời Hữu Đỉnh cho xuống tới Địa ngục Vô gián [= tra tấn không ngừng], như quay theo bánh xe quay dẫn nước tưới ruộng. Ngài Nguyệt Xứng kính lễ đại bi với các hữu tình lang thang như thế. Hình ảnh bánh xe quay dẫn nước tưới ruộng để diễn tả tình trạng chúng sinh có sáu ý nghĩa thích hợp. (1) Giống như các thùng nước được buộc dây thừng vào bánh xe quay, các hữu tình bị buộc chặt chẽ bởi các sợi dây của nghiệp và những phiền não. (2) Sức mạnh dẫn đẩy của thức thì giống như một người đang quay bánh xe nước. (3) Sinh tử luân hồi thì giống như một giếng sâu, từ cõi trời hữu đỉnh cho tới địa ngục Vô Gián -- một vực thẳm không đáy, mà hữu tình bị ném quăng xuống liên tục. (4) Giống như những cái thùng nước bị buộc vào sợi dây xích, các hữu tình rơi xuống các cõi thấp hơn một cách tự nhiên, trong khi đó họ được kéo lên các cõi cao hơn với một sự gắng sức lớn lao. (5) Các thùng nước trên sợi dây xích giống như mười hai chi duyên khởi: ba chi Vô minh, Ái và Thủ liên quan đến phiền não, hai chi Hành nghiệp và Hữu, liên quan đến nghiệp, và bảy chi khác liên quan đến sinh trong luân hồi. Về ba nhóm này, không thể nói nhóm nào thứ nhất, thứ nhì, hoặc thứ ba, vì chúng tiếp theo nhau không gián đoạn giống như một que lửa quay vòng trong không khí. (6) Cuối cùng, ba loại đau khổ (khổ của khổ, khổ của biến dịch, khổ toàn diện do duyên hội) đều giống như các con sóng mà ngày theo ngày làm xao động nước trong giếng, cứ tràn lên nhau không ngừng nghỉ. ii. Kính lễ đại bi có biến dịch vô thường là đối tượng (pháp duyên đại bi) và kính lễ đại bi chẳng có quy chiếu (vô duyên đại bi) Tụng 4 Hữu tình vô thường và chẳng có hiện hữu tự tính, Những hữu tình lang thang đều giống như sự phản chiếu của mặt trăng trong nước xao động bởi gió. Chúng không giống nhau dù chỉ trong một sát na. Ngài Nguyệt Xứng kính lễ đại bi cho họ, đại bi thấy rằng họ đang biến mất mau chóng, nghĩa là, vô thường và do bản chất chẳng có hiện hữu có tự tính. Khi nói rằng những hữu tình đều giống như mặt trăng được phản chiếu trong nước trong suốt xao động bởi một cơn gió nhẹ, sự phản chiếu và mặt nước giúp phản chiếu đều giống nhau, ở mỗi thời điểm, vô thường và rỗng thông trong bản chất của chúng. Với sự lí hội thông hiểu này, các Bồ tát đều thấm nhuần một lòng đại bi thấy rằng hữu tình bị chìm đắm trong đại hải tri kiến của các tạo tác vô thường, một đại hải kết hợp bởi những dòng sông mênh mông đen thẳm của vô minh. Họ tri nhận rằng trong đại hải này, bị quấy động bởi những ngọn gió của dòng tâm niệm, nguyên nhân của rất nhiều tổn hại, các hữu tình phải đương đầu những hiệu quả của các hành nghiệp thiện và ác của họ, phản chiếu trong đại hải giống như mặt trăng trong đại hải, (tan tác theo sóng nước). Đại bi xem các hữu tình như sát na tan biến theo sát na được gọi là đại bi có biến dịch vô thường là đối tượng. Đại bi đặt tiêu điểm trên các hữu tình chẳng có hiện hữu có tự tính thì được gọi là đại bi phi quy chiếu. Tóm lại, ba loại đại bi là: (1) đại bi có đối tượng là các hữu tình nói chung, theo nghĩa không chỉ định riêng biệt; Đây là điều nên lí hội thông hiểu rằng ba loại đại bi này đều có một phương diện giống nhau, thái độ mong muốn các hữu tình đều thoát khỏi đau khổ; chúng khác nhau chỉ về các phương diện chuyên biệt của đối tượng. B. Thân của Luận văn Thân của luận văn thảo luận ba chủ đề chính: mười địa hoặc mười giai đoạn thực chứng, phẩm tính của mười địa, và địa tối hậu của phật quả. ------------------------------------------------------------------------------------- Tụng 5 Xuyên qua hồi hướng với đại nguyện Phổ Hiền ----------------------------- Chú thích về bản dịch Tôi theo nguyên tắc dịch thuật: tín, đạt, nhã. Từ 1.1. 2016 tôi theo nguyên tắc dịch thuật: tín, đạt, nhã, và tái tạo tính sáng tỏ của nguyên bản . Tái tạo tính sáng tỏ của nguyên bản bằng cách xem xét các hệ quả từ bản dịch - tín, đạt, nhã cấp 1 và tái tạo thành bản dịch - tín, đạt, nhã cấp 2. Tỉ dụ về tái tạo: Tụng 2 (Bản tín đạt nhã cấp 1) Mùa gặt quả Phật, Đại bi như là hạt giống, * Stanza 2 (Padmakara Translation Group) * Tụng 2 (Bản dịch tín, đạt, nhã cấp 2) Mùa gặt quả Phật, Đại bi là hạt giống trong giai đoạn đầu, Tỉ dụ để giải thích tái tạo tính sáng tỏ của nguyên bản “hạnh phúc lâu dài” (lasting happiness) : dịch như vậy, tín đạt nhã tạm xong (cấp 1). Kinh sách Phật giáo không tán thành chủ trương -- thường hằng / thường tại / lâu dài. Vậy bản dịch Anh, “lasting happiness” là dịch từ bản Tạng ngữ, mà bản Tạng ngữ dịch từ bản Sanskrit. Vậy bản Sanskrit ngài Nguyệt Xứng sử dụng thuật ngữ nào? Tôi không biết Sanskrit. Trong bản dịch -- Dalai Lama. Trung Đạo. Chính tín căn cứ Suy lí (bài 1, đăng TVHS 01.01.2012), ghi Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng danh từ “definite goodness” quy chỉ giải thoát luân hồi sinh tử và đại giải thoát của Phật. Nhân khi tôi lấy một số đoạn trong bài 1 nói trên đăng thành bài: Bốn chân lý cao qúy, Nhị đế, Toàn hảo xác định, và Tích tập Phúc Tuệ (15.1.2016), thì tôi biết Skt. Naishreyasa được dịch thành “definite goodness” trong Vòng hoa quý (Ratnavali) . Nagarjuna’s Precious Garland (1997). Analyzed, translated and edited by Jeffrey Hopkins. Sách này tôi đọc đã lâu, nhưng từ khi dịch Phật học, mới chú ý nhiều hơn về các thuật ngữ, nên mới đây đọc lại thấy nơi trang 46, J. Hopkins giải thích chi tiết lí do dịch Skt. naishreyasa thành “definite goodness”. Ông ghi có sách dịch Skt. naishreyasa = final beatitude mà beatitude : bliss; happiness; và ông không đồng ý. Ông cũng ghi nhận ngài Long Thọ trình bày tiến trình của toàn hảo xác định trong 99 tụng liên tiếp (25-123) trong Vòng hoa quý. Thế nên có thể đoán là ngài Nguyệt Xứng nói Skt. naishreyasa, được dịch sang Tạng ngữ, rồi dịch qua Anh ngữ thành “lasting happiness”. Thế nên bản dịch Việt tái tạo tính sáng tỏ của nguyên bản bằng cách dịch thành “toàn hảo xác định”, nghĩa là đại bi thành tựu giải thoát luân hồi sinh tử và đại giải thoát của Phật trong giai đoạn cuối. ---------- Tụng 2 trong bản dịch: Introduction to the Middle Way: Chandrakirti's Madhyamakavatara with commentary by Dzongsar Jamyang Khyentse Rinpoche, edited by Alex Trisoglio, Khyentse Foundation, 2003 Stanza 1: 2 Compassion alone is first seed for the abundant harvest of buddhahood; ----------- Bản dịch Nhập Trung Quán Luận (Tỳ kheo Hạnh Tấn và Sư cô Nhật Hạnh) Tụng 2 Cũng giống như hạt giống nảy sanh nhờ vào nước, ------------ Chú thích 1. Bồ tát Phổ Hiền giảng về Đại bi (Kinh Hoa Nghiêm): “Bồ tát quán sát chúng sinh không nơi nương tựa mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh tính chẳng điều thuận mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh nghèo khổ không căn lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh ngủ say trong đêm dài vô minh mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh làm những điều ác mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh đã bị ràng buộc, lại thích lao mình vào chỗ ràng buộc mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh bị chìm đắm trong biển sinh tử mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh vương mang tật khổ lâu dài mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh không ưa thích pháp lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh xa mất Phật pháp mà khởi đại bi…” 2. Bồ tát Mở đầu pháp thoại Con đường của Phật, OSHO giảng: “Các bồ tát thân mến của tôi. Vâng, đó là cách tôi nhìn vào các bạn. Đó là cách các bạn phải bắt đầu nhìn vào các bạn. Bồ tát là một vị phật trong thể tính, một vị phật trong hạt giống, một vị phật đang ngủ, nhưng có tất cả tiềm năng để thức dậy. Theo nghĩa đó, mỗi người đều là bồ tát, nhưng không phải mỗi người đều được gọi là bồ tát — chỉ những ai đã bắt đầu lần mò tìm ánh sáng, những ai đã bắt đầu ao ước một bình minh, trong những trái tim của những ai hạt giống không còn là hạt giống, nhưng đã trở thành một chồi cây, đã bắt đầu vươn lên. (Con đường của Phật. Quyển 1. Trích dẫn này do Đặng Hữu Phúc dịch) “Con người sống trong đam mê (passion). Khi tâm trí phân biệt (mind) biến mất, đam mê được chuyển hoá thành đại bi (compassion) * Ngài Tăng Triệu giảng Bổn Vô (= Chân Như), Duyên Hội, Tánh Không, Pháp Tánh, Thật Tướng là cùng một nghĩa. (Đại Thừa Tư Tưởng Luận. Kimura Taiken. Thích Quảng Độ dịch. p.166) - Bồ đề: Giác 3. Kalu Rinpoche giảng về Đại Bi Ba cấp độ của đại bi. Có ba loại đại bi: đại bi quy chiếu vào hữu tình, đại bi quy chiếu vào thật tại; và đại bi không quy chiếu. Chúng xuất hiện thứ tự tiếp theo nhau. Đại bi quy chiếu vào hữu tình (= Chúng sinh duyên đại bi) (compassion with reference to beings) khởi sinh khi chúng ta nhận thức sự đau khổ của những kẻ khác. Đó là loại thứ nhất của đại bi khởi sinh và làm cho chúng ta nỗ lực sâu xa làm mọi thứ chúng ta có thể giúp đỡ những kẻ đang chịu khổ đau. Nó bừng dậy hiển lộ ra khi chúng ta nhận thức được cái đau đớn và đau thương của những kẻ khác. (It emerges when we perceive the pain and suffering of the others). Hình thái đại bi này có đặc tướng (marked) -- chẳng bao giờ có thể vẫn cứ vô-cảm bất-động (unmoved) trước các đau thương của các hữu tình, và -- cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để giúp giảm bớt đi những đau thương cho hữu tình. Đại bi quy chiếu vào thật tại (= Pháp duyên đại bi) (compassion with reference to reality) khởi sinh khi chúng ta có một kinh nghiệm thật sự về năng-lực của vô minh, khi chúng ta thật sự nhận thức được như thế nào các hữu tình tạo lập sự đau thương của chính họ. Đại bi này duyên hội xảy đến khi chúng ta thật sự thấy những kẻ khác gắng sức như thế nào để có có hạnh phúc và tránh đau thương, nhưng do không nhận thức sáng tỏ những nguyên nhân của hạnh phúc và những phương tiện để tránh thoát đau thương, họ tạo ra càng nhiều nguyên nhân của đau thương và họ không có được cái ý niệm về làm thế nào để vun trồng những nguyên nhân của hạnh phúc. Họ bị mù tối do vô minh của họ; những tác ý và tác hành của họ mâu thuẫn lẫn nhau. Xuyên qua sự hiểu biết sáng tỏ tính như huyễn của thật tại, nhận thức thật sự về tình huống này phát sinh ra loại thứ nhì của đại bi, mạnh mẽ, mênh mông và cơ bản thâm sâu nhiều hơn khi so sánh với loại thứ nhất. (Through understanding the illusory nature of reality, genuine perception of this situation brings forth this second type of compassion, which is more intense and profound than the first kind.) Đại bi không quy-chiếu (= Vô duyên đại bi) (compassion without reference) không chấp thủ ý niệm về chủ thể, khách thể, hoặc ý định; đó là sắc tướng tối thượng của đại bi của một vị phật hoặc của đại bồ tát và tùy thuộc vào sự thật chứng tính không. Chẳng bao giờ có bất cứ một quy chiếu tới một “ta” hoặc “kẻ khác”. (Compassion without reference retains no notions of subject, object, or intention; it is the ultimate form of a buddha‘s or great boddhisattva‘s compassion and depends upon the realization of emptiness. There is no longer any reference to a “me” or “other”) Đại bi này khai mở tự nhiên và tức thời. Thật là điều quan trọng cho chúng ta: để trở nên quen thuộc với ba loại đại bi này, để nhận biết sáng tỏ thứ bậc của chúng, và để bắt đầu sinh hoạt ở mức độ thứ nhất, mức độ chúng ta có khả năng đi vào nhiều nhất. (Trích từ: Kalu Rinpoche. Tính Không, Tâm của Đại Bi. Thư Viện Hoa Sen.org) Phụ Bản : Chủ nghĩa Hư vô “Đam mê là khao khát mê say. Đã từ nhiều năm nay, những người theo chủ nghĩa hư vô, chủ trương thiện hạnh không đem lại lợi ích, ác hạnh không gây tổn hại, và hành động không tạo nghiệp quả, đã đem lại rất nhiều đau thương cho con người và môi trường sinh sống. Cơ trời vận nước, biết đâu lường! http://www.talawas.org/?p=26179) Nhân dịp năm mới, thân chúc các bạn một năm mới vui vẻ, mạnh khoẻ, đứng vững trên tính thiện của mình, trên đất nước khốn khổ, “càng yêu càng khổ, càng khổ càng yêu” “Bể đổi, dâu thay, ngày biến chuyển, Mặc nhân dân khóc sớm kêu trưa? Nghĩ, càng nghĩ, càng căm, càng tủi! Nhập Trung Đạo: con đường Bồ Tát tích hợp đại bi và trí tuệ (bài 1) Nhập Trung Đạo: Con đường Bồ tát tích hợp đại bi và trí tuệ (Bài 2) Nhập Trung Đạo: Con đường Bồ tát tích hợp đại bi và trí tuệ (Bài 3) Updated: 3/21/2016 04:05 by Tịnh Thủy |