BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO GIÁC NGỘ
Luận Giải
Nguyên tác: Commentary on The Thirty Seven Practices of a Bodhisattva – 1995
Luận giảng: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh ngữ: Nyima Tsering
Hiệu đính: Vyvyan Cayley và Mike Gilmore
Chuyển kệ: Linh Thùy
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 22/10/2000
NGÀY THỨ BA
MỞ ĐẦUHãy nhìn lại những kiếp sống của
chúng ta,
chúng ta có thể thấy rằng bất cứ những gì
chúng ta đã làm với
ý nghĩa trọn vẹn đều hữu ích (
hiện tại và về sau). Nhưng nếu
chúng ta đã tiêu pha
đời sống chúng ta trong một cung cách mà bây giờ
chúng ta hối hận, bất cứ
thời gian nào đã
trôi qua thì nó đã vượt xa tầm
chúng ta có thể
ảnh hưởng đến.
Chúng ta không thể
yêu cầu thời gian hãy chậm lại, bởi vì
thời gian đã
hoàn thành, nó đã
hoàn tất.
Thời gian sẽ không
đợi chờ.
Khi
chúng ta đã làm một
lỗi lầm trong
việc làm của
chúng ta chúng ta có thể nói rằng
chúng ta muốn có một cơ hội để
cố gắng một lần khác;
trái lại nếu
chúng ta quan niệm rằng
chúng ta đã tiêu phí
đời sống của mình trong một cung cách
rỗng tuếch và
vô nghĩa,
không có lý nào nói rằng, “Hãy
vui lòng cho tôi bắt đầu lại?” bởi vì không có cách nào để làm cho điều ấy xãy ra.
Chúng ta đã tiêu pha những năm tháng nào đấy của thời
thơ ấu trong một cung cách
vô nghĩa bởi vì
chúng ta không thể
suy nghĩ một cách
chín chắn, nhưng sự
hiểu biết của
chúng ta tăng trưởng khi
chúng ta lớn lên.
Chúng ta đã biết những sự việc và
chúng ta có thể
suy nghĩ và lắng nghe những
giáo huấn. Dường như
chúng ta đã dùng sai
thời gian của
chúng ta một cách
cố ý nếu sau đó
chúng ta tiếp tục tiêu pha
thời gian của mình một cách
vô nghĩa.
Nếu đúng đây là
trường hợp, điều
duy nhất chúng ta có thể làm là
sám hối những
hành vi sai lầm trong
quá khứ của
chúng ta, tập trung trên những tích
tập nghiệp bất thiện, và
cố gắng để tịnh hóa chúng
bằng kinh hành
nhiễu Phật,
cúng dường, trì tụng
chân ngôn,
xây dựng những
quan niệm của
thân khẩu ý,
phát nguyện, và
thiền tập trên
tính không và
tâm giác ngộ (bodhicitta).
Thiền quán trên
tính không và
tâm giác ngộ (bodhicitta) là siêu tuyệt trong những điều này.
Chúng ta cũng có thể làm
lợi ích bằng việc
lễ lạy phủ phục một trăm nghìn lần
liên hệ đến tịnh hóa những
hành vi bất thiện,
cúng dường một trăm nghìn
mạn đà la, và
trì niệm chân ngôn một trăm âm
liên hệ đến
thiền tập Kim Cương Tát Đỏa một trăm nghìn lần. Đây là những
thực hành mà
chúng ta có thể xử dụng khi
sám hối, chủ tâm tập trung trên những
hành vi bất thiện trước đây của
chúng ta.
Chúng ta không nên chỉ nói rằng
chúng ta đã từng phạm phải những
hành vi bất thiện như vậy và như vậy, mà nên làm một sự lượng định tất cả những
việc làm sai lầm của
chúng ta,
hồi tưởng những
chi tiết của chúng và sau đó
quán chiếu chúng với
tư tưởng, “Thật là tệ rằng con đã làm những việc như vậy đó và chúng phản lại những
giáo huấn của
Đức Phật cùng
mong ước của
đạo sư của con. Chúng sẽ hướng con đến sự
tiêu tan trong đời sống này cũng như sự
phá sản cơ bản. Chúng đi ngược lại với
Giáo Pháp Thánh thiện và cũng không thể
chấp nhận được về
phương diện xã hội.”
Rồi thì
chúng ta nên nghĩ rằng, “Con đã được
tình trạng thuận tiện và
lợi lạc của kiếp
con người và con đã gặp được
Giáo Pháp cùng một người bạn
tâm linh (=/=
Nhân thân nan đắc,
Phật Pháp nan văn,
thiện hữu nan phùng). Nhưng mặc dù được thế, con đã không làm được những điều đáng nên làm,
trái lại, con đã làm những việc không nên làm, mà chúng sẽ là
nguyên nhân của khổ đau cho con và những người khác. Con hành động như một người có thể thấy chưa rơi xuống mõm đá, hay như ai đấy
thận trọng trong việc ăn thuốc độc. Từ ngày hôm nay trở đi, con sẽ chẳng bao giờ phạm phải những hành động
bất thiện ấy nữa, ngay cả bằng cái giá của
đời sống của con.”
Đức Phật từ bi và
thiện xảo nói rằng những
hành vi bất thiện của
chúng ta có thể được tịnh hóa , nếu
chúng ta sám hối những
lỗi lầm trong
quá khứ với một
ý thức hối quá mạnh mẽ. Do thế,
chúng ta nên
sám hối và làm một
lời hứa trong sự
liên hệ đến bốn
năng lực.
Thứ nhất là
phát tâm và
tiếp nhận quy y,
năng lực căn bản. Thứ hai là
năng lực hối quá, trong sự
ân hận mà
chúng ta cảm nhận về những
hành vi tiêu cực mà
chúng ta đã tích tập trong
quá khứ mạnh như là
chúng ta nuốt phải thuốc độc.
Chúng ta nên
trì niệm chân ngôn như phần
năng lực thứ ba – phấn đấu trong
thực tập đối trị - nhầm để
sám hối những
hành vi bất thiện của
chúng ta.
Cuối cùng, có
năng lực chí nguyện, hay hứa hẹn, rằng trong tương lai
chúng ta sẽ không bao giờ phạm phải những hành động xấu ác như vậy nữa thậm chí bằng cái giá của mạng sống của
chúng ta.
Trước khi bắt đầu sự
thực tập này,
trước tiên chúng ta nên
chân thành quy y và
thực tập phát tâm. Rồi thì
chúng ta đếm từng
hành vi bất thiện chúng ta đã tích tập trong
quá khứ trên những
hạt chuỗi của
chúng ta và nghĩ về chúng trong
hình thức của những
hành vi bất thiện tích lũy căn cứ trên thân, miệng và ý của
chúng ta.
Chúng ta cũng nên nghĩ về những
hành vi bất thiện sinh khởi từ hành động
sai lầm tự nhiên và những
hành vi sai trái do sự giải đải với những nguyên tắc (
giới luật).
Những ai đã từng phát
thệ nguyện nên
ân hận,
suy nghĩ, “con đã
phát nguyện của một
sa di, hay một
tỳ kheo cụ túc giới, và
phát tâm giác ngộ (bodhicitta) cùng
thệ nguyện mật thừa tantra, và
tuy thế cung cách con đã sông
đời sống của con như một người thường của
vị trí thấp kém, những người chưa từng
phát nguyện gì cả và không
thực hành Giáo Pháp. Vì thế, con thật là một người thảm hại có khuyết điểm.” Thật quan trọng để
sám hối những
hành vi sai trái của
chúng ta với những
tư tưởng như thế này và làm một sự hứa nguyện mạnh mẽ.
Nếu ai đấy hỏi rằng có thể tịnh hóa những
hành vi bất thiện bằng sự
phát lồ sám hối như thế hay không, câu
trả lời là, như Milarepa nói, rằng những
hành vi bất thiện sẽ được tịnh hóa nếu sự
hối quá ân hận là
chân thành. Sự
ân hận hối quá chân thật cho những
hành vi sai trái trong
quá khứ sẽ có thể làm cho
chúng ta phát sinh
sức mạnh của
tâm thức không
tái phạm những việc
sai trái như vậy trong tương lai.
Tuy thế, nếu
chúng ta thiếu sự
hối quá chân thật và chỉ
giả vờ phát sinh một sự hứa hẹn không lập lại những
hành vi bất thiện như thế ngay cả với cái giá của mạng sống
chúng ta, điều này chỉ như lớp son phấn bên ngoài và
năng lực của
tâm thức không thể phát triển. Do thế, điều quan trọng ấy là phát triển một sự
chân thành , và nhầm để làm thế,
chúng ta nên
quán chiếu về những
bất lợi của những
hành vi bất thiện như thế.
Chúng ta cần nghĩ về
luật nhân quả, hay
nghiệp báo, để
đánh giá những
tổn hại, bởi vì
chúng ta có
thể không khám phá thấy kết quả của những
việc làm xấu ác nếu
chúng ta không
tin chắc luật nhân quả.
Chúng ta nên làm theo tiến trình này, và rổi thì tiến hành một
ý chí vững chắc,
suy nghĩ, “con nên làm cho mỗi ngày đầy đủ
ý nghĩa từ hôm nay trở đi, và không
lãng phí thời gian của con trong một cách
rỗng tuếch. Cung cách
chính đáng duy nhất là xử dụng cuộc sống của con để làm những việc tốt,
thể hiện hạnh kiểm tốt và tử tế
lịch sự cùng không
vi phạm Giáo Pháp cũng như những
mong ước của những bậc
giác ngộ. Còn bao nhiêu kiếp sống nữa mà con phải sống, con
nhất quyết sống trong một cung cách đầy đủ
ý nghĩa.”
Chúng ta nên lắng nghe
Giáo Pháp với khuynh hướng này cũng như với
thái độ hoàn tất mục tiêu của
cá nhân và những người khác một cách
hoàn toàn.
Bây giờ
chúng tôi sẽ
tóm tắt thánh giáo của
Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ (Ba Mươi Bảy Điều
Thực Hành Của Một Vị
Bồ Tát) mà
chúng ta đã từng
thảo luận.
1-Trước tiên đấy là sự
phối hợp của ba sự
thực hành lắng nghe, suy tư, và
thiền tập (văn, tư, tu) trên những kho tàng
thậm thâm và rộng lớn của
Đại Thừa, nguyên tắc
đạo đức,
luận thuyết, và
kiến thức (giới, định, tuệ) của những vị
Bồ Tát.
2- Sau đấy
chúng ta cần
thực tập ý nghĩa của
Giáo Pháp mà
chúng ta đã nghe, và vì thế
chúng ta nên ở trong một nơi
xa cách với
quyến luyến và
giận dữ. Do vậy,
từ bỏ hương thổ là sự
thực hành thứ hai của một vị
Bồ Tát.
3- Nhưng chỉ lìa xa quê cũ thì chẳng có gì lạ thường;
chúng ta nên tìm một nơi tĩnh mịch, người như thế này là sự
thực hành thứ ba của một vị
Bồ Tát.
4- Điều
thực hành thứ tư của một vị
Bồ Tát là
từ bỏ đời sống thế tục, vì
chúng ta sẽ không có
lợi lạc nếu trong
tâm thức chúng ta vẫn
duy trì dưới sự
ảnh hưởng của
tám pháp thế gian (
bát phong) ngay cả khi ở trong một nơi
tịch tĩnh.
5-
Chúng ta cần những
thiện hữu và một
đạo sư tâm linh có đủ
năng lực nhầm để làm tăng đến tột độ khả năng cho
thực hành, vì thế điều
thực hành thứ năm của một vị
Bồ Tát là
từ bỏ những người bạn xấu ác.
6- Sự
thực hành thứ sáu của một vị
Bồ Tát là
tùy thuộc vào vị thầy của
chúng ta trong một phương thức
đúng đắn, cả hai với
thái độ thích hợp cũng như với những
tài sản vật chất của
chúng ta.
7- Từ đây trở đi, ngõ vào đầu tiên là
tiếp nhận quy y nhầm để
thể hiện trong sự
thực tập thật sự. Để làm điều này,
chúng ta phải
nhận ra ba điểu này –
Phật Bảo,
Pháp Bảo và
Tăng Bảo – như những đấng
thủ hộ cho tất cả những
Phật tử.
Chúng ta phải
tin tưởng và đặt
niềm tin trong
Tam Bảo như một sự khác biệt
hoàn toàn riêng rẽ với chính
chúng ta (đối tượng bên ngoài
chúng ta) và
chúng ta nên
phản chiếu rằng bất cứ điều gì xãy ra đến
chúng ta, cho dù chúng tốt hay xấu, chỉ
Tam Bảo là có thể
cứu độ chúng ta.
Chúng ta nên
quy y trong cách này và với
ý tưởng đạt đến trình độ Tam Bảo trong chính mình (
tự tính Tam Bảo).
Chỉ
đơn giản tiếp nhận quy y là không đủ;
chúng ta nên
thực hành theo sự hướng dẩn
liên hệ trong
quy y, điều này
bao gồm việc tránh những
hành vi không
thích đáng như việc
quy mạng lễ lạy cúng dường những
chúng sinh phi nhân xử dụng những
phương pháp không được chỉ dạy trong
giáo lý Đạo Phật,
xem thường hay làm giảm
giá trị thân, tâm,
ngôn từ của Phật, hay
cầu khẩn những
hình tượng thánh như những vật
sở hữu và
bám víu vào họ vì sự
bảo đảm tiền tài.
Ngày nay một số người buôn bán đổi chác
hình tượng và kinh sách
tâm linh. Những người này sẽ
chín muồi trong những hình phạt nặng nề trong những
hình thức của những
hành vi bất thiện hay
chướng ngại nếu những
hình tượng và kinh sách mà họ buôn bán thuộc
sở hữu của những người
tin tưởng và
thực hành Giáo Pháp. Mua và bán những
hình tượng và những
pháp khí nghi lễ cổ vật với một giá cả thật cao có thể làm tăng thu nhập
tài sản vật chất của họ, nhưng thật sự những hành động của họ là giống như ăn thuốc độc.
Khác với
trường hợp nếu ai đấy, với khuynh hướng
kiên quyết để
bảo tồn sự
tiếp tục của những
giáo huấn qua những ấn bản quý hiếm, dành hay mượn tiền để in ấn và bán những kinh sách để đủ tiền cho chi phí và để in ấn thêm kinh sách. Đây là tiền được mượn và dùng trong
mục tiêu của
việc làm lành mạnh. Nhưng những ai bán kinh sách và bảo rằng để
phục vụ Giáo Pháp,
trái lại trong
thực tế là đang
phục vụ những cái bao tử của họ, là bị
liên đới trong
hành vi nguy hiểm –
thế cho nên hãy chắc là không làm những
hành vi như thế.
Chúng tôi không lạc đề để đề cập những
thí dụ như thế khi chúng xãy ra trong luận bản, bởi vì chúng có một
mục tiêu. Nhưng có những
cá nhân nào có thể
thực hành theo lời khuyến nghị này hay không
tùy thuộc vào những người ấy.
Thật quan trọng để đừng
xem thường hay làm giảm
giá trị của
Tam Bảo.
Chúng ta có thể nương tựa trên những vị
chư thiên và
thánh thần đầy
năng lực như những người bạn của
chúng ta,
vì lợi ích tạm thời, trong tiến trình
tiếp nhận quy y Phật Bảo. Nhưng đấy là
sai lạc để xem những vị
thần linh ấy như những
vị đạo sư hay bổn tôn của
chúng ta, do thế
chúng ta nên tránh
thái độ này.
Giống như thế,
tiếp nhận quy y Pháp Bảo có nghĩa là
chúng ta không làm điều
tổn hại lên
chúng sinh.
Chúng ta cũng phải bảo quản và không đối xử thiếu
tôn trọng với kinh sách.
Thí dụ, không
thích đáng để bỏ mặc sách vở mà trong ấy chứa đựng những lời trong
Tam Tạng kinh điển (kinh, luật, luận) hay
Tam Vô Lậu Học (giới, định, tuệ) một cách thiếu
cẩn trọng trên sàn nhà, nơi mà
chúng ta hay những người khác có thể giẩm lên. Có
lời nói rằng: “Nếu bạn đến quá gần một con chó, bạn rất có thể bị nó cắn.” Trong cùng cách như thế, luôn có kinh sách
ở chung quanh
chúng ta có thể đưa đến cảm nghĩ quá quen nhờn trong cách mà
chúng ta hờ hửng để
biểu lộ sự
tôn trọng với kinh sách. Thêm nữa
chúng ta sẽ thấy rằng
tâm tưởng chúng ta trở nên mờ tối hơn và
si ám hơn nếu
chúng ta lãng quên
biểu lộ một sự
tôn trọng thích đáng đến kinh sách. Như những
đạo sư Kadampa đã nói: “’Tôi đã có sự
si mê thế này là quá đủ. Nếu tôi trở nên
si mê hơn thế này, điều gì sẽ xãy ra (cho tôi)?” Do thế
chúng ta nên
cẩn thận.
Chúng ta nên
cẩn thận đúng mức cung cách
chúng ta đối với
kinh điển sách báo có chứa đựng những gì đấy với
giáo lý Phật Pháp. Như một
quy luật phổ thông,
tốt hơn là nên tránh bước qua hay giẩm lên bất cứ vật gì có
chữ viết.
Tuy thế, ngày nay ngay cả những thứ như giày vớ cũng có những
văn tự trên chúng, và cũng có những mẫu tự trên đường xá, Nếu
chúng ta cố gắng tránh giẫm lên
chữ nghĩa chúng ta có thể phải quay xe lại, vì thế
cần phải phân biệt một chút khi nghe theo lời
cố vấn này. Hãy
cẩn thận không bước qua bất cứ những thông tin
chữ nghĩa nào
liên hệ đến những
giáo huấn của
Đức Phật. Phật biệt trong cách này là một sự
thực hành tốt để
tuân theo.
Tiếp nhận sự
quy y Tăng Bảo hay
cộng đồng tâm linh có nghĩa là
chúng ta không nên hình thành những quan hệ bằng
hữu thân mật với những người không phải
Phật tử và
dị giáo. Thật là kém
thông tuệ để có một sự
liên hệ mạnh bạo từ trái tim
chúng ta với những người như vậy vì
mục tiêu không tốt, mà
đơn giản chỉ
vì lợi ích của
thực phẩm và áo quần.
Trong
quá khứ,
đại hành giả Dom Tonpa và những vị Bổ Tát đã nhặt lên bất cứ mãnh áo quần màu đỏ và vàng nào mà các ngài đi ngang qua và cụng đầu vào đấy, với
ý nghĩ rằng bất cứ ai đã mặc những áo quần như thế phải có
kiến thức. Các ngài sẽ
thiền quán trên sự phát sinh
niềm tin đối với những người mặc áo quần ấy và đặt những thứ ấy trong một nơi mà không ai có thể bước qua. Do vậy,
chúng ta nên tập theo những
thí dụ này và luôn luôn
xử sự tôn kính với
tu sĩ. Bình phẩm
tu sĩ chuốc lấy những
bất thiện nghiệp nặng nề. Không sao nếu chỉ ra một
trường hợp cá nhân nếu một
tu sĩ đã làm sai, nhưng
buộc tội tất cả
tu sĩ một cách chung chung là
thái độ xấu sẽ kết quả trong một
bất thiện nghiệp nặng nề cho
chúng ta.
Cư sĩ nên
tôn trọng những
tu sĩ thọ giới như những đối tượng thu thập
phước đức và nên phát triển niểm tin.
Về phía những
tu sĩ, tất cả những
chúng sinh lang thang (trong cõi
luân hồi) kể cả những
thần linh xem
chúng ta như một đối tượng nương tựa và do thế
chúng ta có một
nhiệm vụ cố gắng hoàn thành để
trở thành thành phần những đối tượng
hoàn hảo của
quy y. Thay đổi
tên tuổi và
hình thức áo quần không có gì
đặc biệt;
chúng ta cần đem đến một sự thay đổi trong
tâm thức.
Chúng ta không nên giống như một người chỉ
đơn thuần mặc y áo như vỏ bọc bên ngoài, mà
tốt hơn, mặc y áo
chúng ta phía ngoài
chúng ta nên
trở thành một
tu sĩ đàng hoàng từ bên trong.
Trái lại, đấy là hành động
đạo đức giả để
thụ hưởng tài vật và đồ ăn
thức uống mà người khác
cúng dường cho
chúng ta.
Chúng ta nên hành động trong một cung cách
tốt đẹp để làm
lợi ích cho chính
chúng ta và những người khác, và những
hành vi của
chúng ta sẽ trở nên
như bảo vật.
Do thế ,
cư sĩ nên
cúng dường với sự
tôn trọng và có một
thái độ trong sạch đối với
Tăng già, trong khi
Tăng già nên
biểu lộ những
hành vi bổ ích
tráng kiện trong sự
phù hợp với danh xưng và
mục tiêu của mình. Điều này sẽ
trở thành một sự
trang nghiêm đến những
giáo huấn. Nếu những thành viên của
Phật Giáo làm
rạng danh Đức Phật, điều này làm
lợi ích giáo lý Phật Pháp trong
phổ thông và cũng sẽ phản ánh
tốt đẹp đối với
chúng ta. Đây là sự
thực hành thứ bảy của một vị
Bồ Tát.
8- Đã
tiếp nhận quy y,
chúng ta phải
tuân theo những lời hướng dẫn trong sự
quy y, hãy
từ bỏ chướng ngại và
chấp nhận nguyên tắc
nhân quả. Điều này có nghĩa là đón nhận mười
thiện nghiệp bằng sự
từ bỏ mười
bất thiện nghiệp.
Quy luật của mười
thiện nghiệp là
quy luật của
đạo đức thánh thiện, và nó là những
hành vi mà
chúng ta nên
thực hành. Đây là sự
thực hành thứ tám của một vị
Bồ Tát.
Cho đến bây giờ
chúng ta đang đang
xem xét đến
con đường tăng dần thông thường
liên hệ đến
con người của
mục tiêu hay
phạm vi nhỏ. Bây giờ
chúng ta tiếp đến phần của luận bản nói về những khoái lạc của cõi
luân hồi giống như những giọt sương trên đầu ngọn cỏ, và v.v…Điều này
liên hệ đến
con người của
mục tiêu hay
phạm vi vừa.
Trên
con đường tăng dần
chúng ta suy tư về sự
bất lợi của
vòng sinh tử như
sự thật về khổ đau, những tầng bậc của
luân hồi và cội nguồn của khổ đau, và
chúng ta học hỏi làm thế nào để dấn thân vào hay quay lưng với
sinh tử. Rồi thì
chúng ta rèn luyện tâm thức để
đạt đến sự giải thoát qua sự
thực tập Ba Sự
Rèn Luyện (giới, định, tuệ).
Chúng ta cũng có thể phát triển một
căn bản tốt đẹp để
thể nhập giải thoát qua tám phẩm chất
nghiệp quả chín mùi đầy đủ.
Vì không có sự
vĩnh cữu hay
hạnh phúc tồn tại lâu dài trong
sinh tử luân hồi:
Hãy xem những phẩm chất
tuyệt hảo của vòng
luân hồi như không đáng tin cậy, sự khoái lạc không làm
thỏa mãn là cội nguồn của tất cả khổ đau. Do vậy, nguyện cho con được
gia hộ trong sự phát sinh một sự
quan tâm mạnh mẽ đến việc tìm cầu những
an lạc của
giải thoát.
Hình thức tệ hại nhất của khổ đau là hưởng thụ khoái lạc của
sinh tử luân hồi và vẫn
duy trì sự chưa
thỏa mãn.
Tuy thế, những khoái lạc
tuyệt hảo này là không
đáng tin cậy bởi vì chúng là không
vững chắc.
Danh tiếng và
địa vị đều không thể trông mong được. Nếu có bất cứ một sự
chắc chắn nào trong quan hệ với những
thân quyến và bằng hữu mến thương, hay ngay cả với những
kẻ thù của
chúng ta, đấy sẽ là minh chứng của điều gì
đáng tin cậy trong cõi
luân hồi. Nhưng không có sự
chắc chắn như thế trong những mối quan hệ này, cũng không có trong
thân thể chúng ta là điều cũng
biểu lộ sự không
tin cậy được của nó.
Chúng ta đã từng lang thang từ đời này sang kiếp khác từ
vô thủy cho đến bây giờ, mang những
hình thức khác nhau của
tử sinh. Nếu đã từng có thậm chí một người bạn luôn luôn
đồng hành với
chúng ta trãi qua sự lang thang ấy,
chúng ta có thể
tin cậy người ấy. Nhưng không có một người bạn như thế.
Tóm lại,
chúng ta nên
quán chiếu về sáu sự trở ngại của vòng
luân hồi (
lục đạo), gói gọn trong
ba cõi [
tam giới] (12), và rồi thì
thiền quán như sự hướng dẫn trong “Con Đường Tiệm Tiến”.
Chúng tôi suy nghĩ cùng sự hướng dẫn giống thế đã được nêu lên trong luận bản được biết như “Căn Bản Của Tất Cả Những Phẩm Chất Tích Cực” và sự
chỉ bảo này bao hàm một sự chia sẻ
tuyệt vời.
Những
từ ngữ này thật dễ dàng cho
chúng tôi trì tụng và cũng dễ dàng để mà
phản chiếu trên ấy.
Nguyên nhân của tất cả những khổ đau của
chúng ta là sự lập lại của sinh và tử . Phải thai nghén trong
tư duy của
chúng ta lần này và lần nữa …liên lũy
chúng ta trong những
bất thiện nghiệp nặng nề.
Nguyên nhân của những
hành uẩn nhiễm ô của sự
tái sinh bất hạnh là
nghiệp báo và
phiền não.
Cho đến khi
chúng ta có thể
chấm dứt sự thụ thai hết lần này đến lần khác,
chúng ta tiếp tục mang lấy những
hành uẩn ô nhiễm tạo nên bởi
nghiệp báo và
phiền não vọng tưởng.
Kết quả của sự sinh ra trong
thân thể nhiễm ô hiện tại nó
cung cấp những
điều kiện để phát sinh những
nghiệp báo và
phiền não mới và những
chức năng như cơ sở của khổ đau.
Thân thể này
ràng buộc để rồi
chúng ta quẩn quanh với những
điều kiện mà nó sẽ làm
gia tăng những
phiền não của
chúng ta, ngay cả khi
chúng ta không
cố ý làm phát sinh chúng, và nó ngăn trở
chúng ta đến sự
áp dụng những sự
đối trị như một
phương pháp và
con đường hướng
chúng ta đến
giác ngộ. Những
tình thế bất lợi cấu kết với những
hành uẩn từ khi
chúng ta sinh ra, và đây là khổ đau lớn nhất trong tất cả.
Do vậy
chúng ta thấy rằng năm trong tám khổ là cực kỳ
năng động, tên chúng là: khổ đau của tiến trình sinh, khổ đau phải bị sinh trong những
hoàn cảnh bất lợi, khổ đau vì sự
sinh biến đổi thành
phiền não, khổ đau vì bị sinh như nguồn gốc của khổ đau, khổ đau vì phải chia lìa người khác ngoài
ý muốn mà nó là
bản tính tự nhiên của
thân thể.
Thân thể ô nhiễm này là không rời xa
chúng ta, và nó ngăn trở
hạnh phúc an lạc.
Chúng ta nên
phản chiếu trên những điều này và
cố gắng tối đa để được
tự do giải thoát khỏi
vòng sinh tử luân hồi.
Vì điều này
chúng ta cần
thực hành theo Ba
Rèn Luyện (giới, định, tuệ) mà không làm
lẫn lộn trật tự, do thế, tu tuệ và
tu thiền định
dựa trên nền tảng của tu trong
đạo đức.
Chúng ta có
thể đạt đến
niết bàn dần dần trên
căn bản này bằng sự
áp dụng những sự
đối trị giải độc những
tư tưởng phiền não và những
hạt giống của chúng. Điều này
liên hệ đến
con đường tiệm tiến thông thường cho một người của
năng lực vừa (trung bình). Sau đó,
con đường của cổ xe lớn
thích ứng cho những
con người với
năng lực rộng lớn được
biểu lộ như sau:
Việc xử dụng những
an lạc hạnh phúc của chính
chúng ta là gì khi tất cả những bà mẹ là những người đã từng
Tử tế
ân cần với
chúng ta từ
vô thủy kiếp đang chịu khổ não?
Những dòng này, bên cạnh
bản chất cực kỳ
năng động, là căn nguyên của
giáo huấn Đại Thừa, và sự
thiết lập như thế là trọng điềm chính cho sự
thảo luận trong
toàn bộ luận bản này.
Như
chúng tôi đã nói hôm qua, những tạo vật
chúng sinh là
vô lượng vô số và
như không gian không thể đo lường chia sẻ với
chúng ta sự khao khát
hạnh phúc cũng như lẫn tránh khổ đau.
Chúng ta nên
hổ thẹn với chính mình nếu
chúng ta chỉ nhìn đến
lợi ích của chính mình và không ngó đến sự
khổ não của họ, trái tim của
chúng ta không
xao động với sự day dứt của họ và tâm tư
chúng ta không
quan tâm vì họ.
Cho đến bây giờ chúng đang nghĩ đến sự quan trọng của chính mình, luôn luôn nói rằng, ‘tôi điều này…’, ‘tôi điều kia…’, ‘tôi điều đó…’và ‘tôi cái khác…’, và điều này cũng tốt thôi nếu có những
lợi ích tốt đẹp từ nó. Nhưng
chúng ta có thể thấy rằng
thái độ tự yêu mến (
ngã ái) giống như chứng bệnh
kinh niên. Một
tình trạng y khoa
cấp bách đến một cách bất ngờ có thể rất kịch liệt nhưng có thể được cứu chữa một cách nhanh chóng. Một chứng bệnh
kinh niên, trên một
phương diện khác, là ít rõ rệt và
nghiêm trọng hơn; nhưng
con người bị
phiền não kinh niên thấy rằng tự họ không thể ăn hay uống một cách
bình thường, để
di chuyển một cách dễ dàng hay để làm việc. Một căn bệnh như thế làm
suy nhược và rất khó khăn để cứu chửa, và có một
ảnh hưởng bất lợi trên
đời sống của họ.
Một
thái độ tự yêu mến giống như chứng bệnh
kinh niên này.
Chúng ta chỉ giống như phân nữa
con người qua việc bị
khổ não với
thái độ này, mặc dù
chúng ta có một
tâm thức và khả năng để
phân biệt giữa đúng và sai. Vì thế
chúng ta phải đặt nổ lực vào trong sự loại
trừ căn bệnh
kinh niên này.
Thái độ này được
diễn tả trong ‘Luyện Tâm’ như một loại siêu
ác quỷ trong tất cả những loại
ác thần khác.
Con người nghĩ rằng
ác thần và
ác quỷ là
thế giới ngoại tại làm cho
chúng ta tiêu điều, trong
thế giới con người nơi
chúng ta sinh ra,
do bởi nghiệp báo và sự nguyện cầu của
chúng ta, chúng có thể
xuất hiện để là nguồn gốc cho sự
bất hạnh của
chúng ta. Nhưng điều này cũng
không thật sự. Chúng không là cội nguồn của sự
điêu tàn vĩnh viên của
chúng ta; chúng có thể làm
tổn hại chúng ta trong một
trường hợp nào đấy nhưng sẽ
không tồn tại như một
tác nhân tai hại mãi mãi, qua tính
tự nhiên của thay đổi (
vô thường).
Nguyên nhân thực sự của sự
suy đồi là
thái độ tự yêu mến (
ngã ái) bởi vì, giống như căn bệnh
kinh niên, nó luôn luôn
hiện diện. Một người chống đối
xã hội trong
cộng đồng, người nói những lời
cầu nguyện không
lành mạnh, được
cung ứng với mười điều trở ngại
đáng lẽ phải
từ bỏ, là được
xem như một đối tượng của
từ bi bởi những
hành giả. Mặc dù người ấy hành động như một
kẻ thù và tạo nên
rắc rối, họ biết rằng chỉ là nguồn gốc tạm thời của
chướng ngại và
phiền não đến chính họ.
Trái lại kẻ thù xấu xa tồn tại với
chúng ta một cách
liên tục bao gồm hai
thái độ sai lầm của tự yêu mến (ái) và
chấp trước (thủ) ở cái tôi như sự
hiện hữu thật sự. Hai thứ này hổ trợ nhau như những người bạn rất tốt, giống như chúng chỉ có một trái tim, và sự
ảnh hưởng của chúng là
tai hại vô cùng. Chúng phải bị đánh gục bởi
tuệ trí là điều
thực chứng tính không và
tâm giác ngộ (bodhicitta) là điều yêu mến người khác hơn
bản thân chính mình.
Nếu không thì những
thái độ xấu này
tổn hại chúng ta vô cùng, không chỉ một cách
bừa bãi mà một cách
liên tục. Mỗi thứ
hoạt động như một vị vua với
tùy tùng của nó là dính mắc, tự kiêu, thù hận, ghen tị,
ganh đua,
tinh thần mờ tối,
quẩn trí, và lười biếng. Tất cả những thứ này
hoạt động như những kẻ gian thần tặc tử và
nguyên nhân tổn hại vô cùng cho
chúng ta, do thế không dễ dàng cho những
hành giả thực hành Giáo Pháp đánh bại chúng.
Thực tế,
hành giả giống như những chiến sĩ trong một quân đội.
Chúng ta chiến đấu
chống lại ai?
Chúng ta thách thức và đánh bại
kẻ thù phiền não nội tại với điều mà sự
tiệm tiến của
chúng ta cho phép, cầm vũ khí lên
chống lại thái độ tự yêu mến (ái) và
chấp trước (thủ) như một sự
tồn tại chân thật. Đôi khi
chúng ta cảm thấy bất lực hay
căng thẳng, bởi vì
chúng ta đang
thử thách kẻ thù to lớn của
ba cõi thế gian (
tam giới). Trong ‘Hướng Dẫn
Con Đường của Cuộc Sống Bồ Tát’ nói rằng: “Có nhiều hiểm nguy
liên hệ trong chiến đấu của một cuộc chiến tranh.” Đây là tính
tự nhiên của chiến tranh. Do thế, khi
chúng ta đang chiến đấu cho một cuộc chiến
chống lại kẻ thù phiền não, đôi khi
chúng ta thất bại hay
cảm thấy uể oải hay chán nản. Nhưng khi
chúng ta tiếp tục thách thức
kẻ thù ấy và không
cho phép chính mình trở nên
hoàn toàn chán nản,
chúng ta liên hệ trong một hành động thật sự
kỳ diệu.
Chúng ta sẽ
kinh nghiệm một sự thu đạt to lớn trong việc nhổ gốc rể
kẻ thù phiền não của
chúng ta nếu
chúng ta thử thách những
thái độ tiêu cực của
chúng ta.
Chúng ta có
thể không bao giờ đánh bại tất cả những
kẻ thù ngoại tại của
chúng ta, như được nói trong “Bốn Trăm Bài Kệ”: “Chẳng bao giờ có một người nào chết với một
tâm hồn thanh thản, vì biết rằng mình đã giết tất cả những kẻ mình không thích. Ai đấy sẽ đi qua kiếp sống tới sau khi đã
trừ khử tất cả những
kẻ thù của mình?” Không bao giờ hết con số những
kẻ thù có
năng lực ở bên ngoài, ngoại trừ
chúng ta diệt tận những
kẻ thù bên trong
chúng ta.
Chúng ta có thể đặt khoảng cách giữa những
kẻ thù bên ngoài và chính
chúng ta,
tuy thế khi
chúng tăng cường
sức mạnh chúng sẽ có thể làm
tổn hại chúng ta một lần nữa. Nhưng nếu
chúng ta tống khứ những
kẻ thù nội tại
một lần vĩnh viễn, chúng sẽ không lập lại.
Những
đạo sư Kadampa đã từng nói rằng
nhiệm vụ của những
hành giả là thách thức những quan điểm-thái độ
tiêu cực thù địch; để làm như thế,
chúng ta thách thức
kẻ thù phiền não. Một
vị đạo sư như thế, Ban Gungyal, nói: “Không có cách nào khác để
bảo vệ cánh cửa của
tâm thức hơn là ‘cây đinh ba’ của
đối trị. Khi
kẻ thù mạnh, tôi phải
cảnh giác; khi nó lặn xuống, tôi ngơi nghĩ.”
Nếu
chúng ta giữ chặc hai
thái độ tiêu cực là tự yêu mến (ái) và
chấp trước (thủ) như sự
tồn tại cố hữu và
chúng ta nguyện cầu trong một cách không
chính đáng, một người
si mê nào đấy có thể
đi theo để hổ trợ làm
tăng trưởng phiền não của
chúng ta; bởi vì
cho đến khi nào
tâm thức bất thiện còn
tồn tại,
phiền não của
chúng ta có thể được làm cho mạnh mẽ sâu dày thêm qua việc
tiếp xúc với một người
si mê (mặc dù không ai có khả năng làm cho một sự
gia tăng thường trực trong sự
ưu phiền khổ não của
chúng ta). Một người như vậy là kẻ
đối lập với người giúp đở
chúng ta trong việc
nhận ra điều phải được
trừ khử và điều phải được
chấp nhận qua sự
thông hiểu một cách
rõ ràng tất cả những
hiện tượng và luồng lạch
lý trí đúng đắn, và là người giúp
chúng ta phát tâm giác ngộ (bodhicitta) và tâm
vô ngã.
Đấng Đại
Mâu Ni, người đã từng
thực hành qua suốt nhiều kỷ nguyên (
tăng kỳ kiếp)
Thấy chỉ
tâm giác ngộ (bodhicitta) này là
lợi ích.
Thật
cần thiết để
khám phá trong cách này qua nhiều kỷ nguyên, nhưng nếu
chúng ta thực hành,
chúng ta sẽ thấy rằng chỉ có
duy nhất một điều
lợi ích cho
chúng sinh là
tâm giác ngộ (bodhicitta), hay
thái độ yêu mến người khác như quan trọng hơn chính mình.
Đi theo những dòng
tư tưởng này,
chúng ta có thể hiệp nhất một trái tim
ân cần tử tế hay
tâm giác ngộ (bodhicitta) với khái
niệm thực chứng
tính không, thậm chí nếu
chúng ta ở trong
tình trạng rất nghèo túng, và nếu
chúng ta làm thế
chúng ta sẽ
hoàn toàn chiến thắng trong đường dài về sau và sẽ có một nền tảng
vững chắc,
đáng tin cậy. Vì trong khi không có sự hổ trợ
giá trị cho những
thái độ tự yêu mến (
ngã ái) và
chấp trước (thủ)
tồn tại cố hữu, có một sự hổ trợ
vững chắc cho lòng yêu mến người khác như quan trọng hơn tự ngã và
tâm thức thực chứng tính không. Hơn thế nữa, những
tâm thức như thế có một
năng lực và
năng lượng mạnh mẽ cũng như được sự hổ trợ của
vô lượng chư Phật trong
mười phương. Do thế, những ai có hai loại
tâm thức này (
tâm giác ngộ, tâm
thực chứng tính không) trong tiến trình
liên tục của mình sẽ nhận được sự
gia hộ và
bảo vệ.
Tâm thức có thể được làm cho
tỉnh thức một cách
vi tế qua sự
thực hành liên tực, mặc dù
sức mạnh của tự yêu mến và
chấp thủ ở chỗ
tồn tại thâm căn cố đế của cái ‘tôi’, và và
tâm thức vi tế bậc nhất này đã quen với những
tư tưởng tích cực có thể được
chuyển hóa thành tâm thức tập trung. Những
phiền não không thể cùng
tồn tại với tâm
thiền quán, cho dù chúng mạnh mẽ thế nào đi nữa, và đây là điều mà
chúng ta có thể tự hào một cách
chính đáng. Do thế
chúng ta không
cần phải trở nên
chán nãn, bởi vì
chúng ta có thể đánh bại
thái độ tự yêu mến (
ngã ái) bằng việc thấy những
bất lợi của nó.
Tâm thức yêu mến tất cả bà mẹ
chúng sinh và tìm cầu sự
bảo hộ họ trong
an lạcLà cánh cổng đến
vô lượng đức lành;
Thậm chí nếu tất cả
chúng sinh biến ra như
kẻ thù của tôi,
Nguyện cho tôi yêu mến họ một cách thân thương hơn chính cuộc sống của tôi.
Tâm thức yêu mến kể khác hơn chính mình là cội nguồn để
đạt đến mỗi một
lợi ích có thể tưởng tượng được. Nó có thể
so sánh với thuốc thánh để chửa trị bệnh truyền nhiễm, hay vật thể quý giá như nước
cam lồ. Đấy là
đạo sư tâm linh nội tại của
chúng ta, là nhân
tối thượng của
Phật quả và dụng cụ
siêu việt để tháo mở khổ đau cho tất cả
chúng sinh.
Biết điều này,
chúng ta nên đặt mọi nổ lực vào trong sự phát sinh
tâm giác ngộ (bodhicitta) này. Trong
trường hợp nơi nào mà
tâm giác ngộ (bodhicitta) như thế bị sụt giảm, nó nên được
tái lập. Chỗ nào nó không bị sút giảm, nó nên được làm cho
tăng trưởng hơn lên. Người nào có thể
tăng cường nổ lực như thế qua ba cửa trong mọi
phương diện ngày và đêm có những phẩm chất của một
hành giả thực hành Giáo Pháp chân chính và biểu hiện
bản chất thù thắng,
hoàn cảnh thuận lợi tự tại được sinh ra làm người. Những
hành vi của người ấy
phụng sự như một sự
cúng dường tuyệt vời là điều làm
vui lòng các
đấng giác ngộ cũng như tịnh hóa những
bất thiện nghiệp và tích tập
công đức.
Chúng ta xử dụng thế nào với sự
an lạc của chính mình khi tất cả những bà mẹ
Những người đã từng
Tử tế
ân cần với
chúng ta từ thời
vô thủy đang khổ đau?
Do thế, sự
thực hành của những vị
Bồ Tát là phát sinh
Tâm giác ngộ (bodhicitta) nhầm để
giải thoát tất cả
chúng sinh.
Điều này là sự
thực hành thứ mười của một vị
Bồ Tát.
Điều
thực hành thứ mười một của một vị
Bồ Tát bao gồm sự quán chiếu những phẩm chất và những sự trở ngại của sự tự yêu mến (
ngã ái) như sự
chống lại thái độ yêu mến người khác hơn chính mình, và
rèn luyện trong sự
thực hành hoán đổi tự ngã với người khác.
* * * * * *
Cho đến bây giờ,
chúng ta đang ôn lại những gì đã được
thuyết giảng trước đây. Bây giờ
chúng ta tiếp tục:
ĐIỀU THỨ MƯỜI HAI
Nếu ai đấy, dưới
năng lực mạnh mẽ của
tham dục,
cướp bóc hay
Tấn công người khác để
trộm cắp tất cả những
vật dụng của một người
Đấy là sự
thực hành của một vị
Bồ Tát để dâng
hiến thân thể,
Tài sản và và
đức hạnh của ba
thời gian (quá, hiện,
vị lai) đến họ.
Dịch kệ:
12.
Hồi hướng thân, tài, đức
Nếu bị
thôi thúc bởi
tham dụcKhao khát tài vật chẳng sở thuộc,
Kẻ không may nào trộm của ta,
Hoặc thấy cướp giật, cứ tảng lờ;
Do
tâm từ bi không
nhiễm trước,
Nguyện trọn
hồi hướng cho người đó:
Xin trao của, đức, lẫn
hình hài -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này
Đoạn kệ này
thảo luận làm thế nào trong sự
rèn luyện việc
thực hành sự hoán đổi tự ngã với người khác trong phổ quát và định rõ một số
thực hành để dấn thân trong
thực tế khi những người
bình thường đối diện với một
tình cảnh mà có thể làm cho thù hận dâng lên.
Chúng ta có thể
cảm thấy giận dữ đối với ai đấy trộm, cướp
chúng ta hay kích động người khác
cướp bóc chúng ta,
biểu lộ một sự
tham muốn mạnh mẽ đối với
tài sản của
chúng ta.
Chúng ta có thể bị làm cho đau rầu buồn bã bởi vì mất mát
tài sản, bên cạnh điều mà người ấy không có quyền để tước đoạt những thứ của
chúng ta; do thế
chúng ta có thể
quyết định đưa người ấy tới tòa án
cố gắng lấy lại những thứ
chúng ta đã mất. Nhưng điều nói ở đây rằng một người
thực hành cung
cách sống của
Bồ Tát không nên làm một việc như thế. Đúng hơn, nó khuyến nghị rằng
chúng ta không nên chỉ cho đi tài vật của mình một cách tự nguyện đến người đã
cướp bóc chúng ta, mà
chúng ta cũng một lòng một dạ dâng hiến đến người ấy
thân thể, và tất cả những
hành vi tốt đẹp của
chúng ta.
Gyalsas Thogmed Zangpo đã bị tước đoạt tất cả những tài vật trong khi đi đến Sakya. Ông
yêu cầu những người
ăn cướp đang
chạy thoát dừng lại một chút. Thấy ông trong rất bình lặng và thoãi mái, không giống hầu hết những người mới bị cướp, chúng dừng lại trên đường và ông
đến gần bên chúng nói rằng: “Xin hãy chờ một chút. Ngay bây giờ, khi các vị đã
lấy đi tài vật của tôi, tôi không có dịp để hiến tặng đến quý vị. Bây giờ tôi muốn làm sự hiến tặng.” Nói điều này xong, ông tặng hành trang của mình cho những người
ăn cướp và rồi thì nói với họ rằng: “Nếu quý vị
đi theo lối này, quý vị sẽ đi ngang qua người thân chủ của tôi sống ở thung lủng và ông ta sẽ
nhận ra những thứ này của tôi. Thế nên quý vị
tốt hơn là đừng đi ngã này. Thay vì thế, hãy
đi theo lối hẹp ấy,
con đường uốn quanh,” và ông chỉ họ
con đường an toàn. Ông đươc biết đã thật sự
hoàn thành điều này và vì thế đã đặt những lời trong luận bản của ông
thành sự thực tập.
ĐIỀU THỨ MƯỜI BA
Thậm chí nếu ai đấy muốn chặt đầu một người,
Mà người ấy không có bất cứ
lỗi lầm nào, đấy là
Sự
thực hành của một vị
Bồ Tát để lãnh lấy tất cả
Những
hành vi bất thiện của người đó với
năng lực của
từ bi.
Dịch kệ:
13. Nhận
ác nghiệp tha nhânMặc dù ta chẳng tội tình chi
Và không hại ai suốt
trọn đời,
Nếu có kẻ dọa đoạt mạng sống
Chỉ bởi điên rồ tâm
loạn động,
Dung thứ cầu người qua khổ tai,
Thoát khỏi đọa
bất hạnh sau này.
Vô ngã nhận quả hành khốn khó -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó.
Ngôn từ trong đoạn kệ này là rất khó để đặt vào trong sự
thực hành. Ngay cả nếu
chúng ta thật
sự giải thoát khỏi
lỗi lầm, những người khác, hành động với những
tư tưởng bất thiện như
si mê, ganh tị, và
đố kỵ, có thể tiếp cận
chúng ta với khuynh hướng làm cho
chúng ta bị
tổn hại nghiêm trọng, thậm chí đi xa đến mức như chặt đầu
chúng ta. Ở đây nói rằng
chúng ta nên cảm nhận
từ bi hơn là
giận dữ đối với họ.
Chúng ta nên
thực hành lãnh lấy tất cả những
bất thiện nghiệp của họ tích tập qua sự thù hận và
giận dữ của họ, với
tinh thần từ bi yêu thương. Điều này
biểu lộ những phần
thực hành cho và nhận, điều
liên hệ đến nhận.
ĐIỀU THỨ MƯỜI BỐN
Thậm chí nếu ai đấy la hét những thứ lăng mạ khác nhau
Với chính ta suốt khắp ba nghìn
thế giớiĐấy là sự
thực hành của một vị
Bồ Tát vẫn nói
Về những phẩm chất
tốt đẹp của người ấy với một
tâm thức yêu thương.
Dịch kệ:
14.
Ngợi khen thay
phỉ bángNếu ai đồn xấu hoặc
phỉ báng,
Về ta, lời ác khó
chịu đựng,
Cả khi những điều bị
rêu raoLắm người tưởng thật cứ
tin theo;
Bởi ta vẫn mong kẻ bêu rếu
Vượt khó khăn và tâm
thư thái,
Nên
ngợi khen xử tốt với người -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này
Điều này
liên hệ đến một
trường hợp mà trong ấy,
thể hiện cảm giác đối lập đối với
chúng ta, người nào đấy không chỉ
rêu rao những
tin đồn ác ý về
chúng ta, sau lưng
chúng ta đến một ít người, mà cũng tuyên truyền những
ngôn ngữ không
dễ chịu khắp cả ba nghìn
thế giới. Thông thường
chúng ta cảm thấy giận dữ rằng người ấy làm giảm
giá trị chúng ta, lôi những lỗi lầmvà
xem thường chúng ta. Nhưng những
hành giả Đại Thừa không nên
nghĩ tưởng trong cách này.
Tốt hơn, mặc dù người ấy
tuyên bố những
sai lầm của
chúng ta đến toàn
thế giới, chúng tan nên nghĩ đến người ấy với một lòng
yêu thương, hãy nói với
kiến thức mà người ấy
sở hữu và
ca ngợi người ấy.
ĐIỀU THỨ MƯỜI LĂM
Thậm chí nếu ai đấy định phơi bày những
lỗi lầm thầm kín nhất
và nói những lời
ác ý của một người
ngay giữa
trung tâm một đám đông nhiều người, đấy là sự
thực hành của
những vị Bồ Tá,
lễ lạy một cách khiêm tốn đến người ấy,
với
tư tưởng rằng người ấy là một
vị đạo sư
tâm linh.
Dịch kệ:
15. Xem
kẻ thù như đạo sư
Nếu ngay giữa đám đông tụ lại
Có người cứ nhằm ta ngược đãi,
Lớn tiếng phơi bày các
lỗi lầm,
Cười chê các nhược điểm vẫn còn.
Chớ nên giận hay cố
chống đỡ,
Lặng nghe và
ghi nhận lời họ,
Kính lễ người như một vị thầy -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này.
Có thể có một ngưởi trong đám đông ở đây mà người ấy
nuôi dưỡng những khuynh hướng
bệnh hoạn đối với
chúng ta và làm
mất giá trị chúng ta nơi
công cộng, phơi bày những yếu điểm và nói những thứ
tiêu cực về
chúng ta. Điều này làm
chúng ta đỏ mặt vì thẹn thùng và
cảm thấy buồn phiền vì
tội lỗi, và
chúng ta có thể trở nên
giận dữ. Nhưng thật sự người náy rất quan trọng đối với
chúng ta.
Chúng ta không
cảnh giác về sự
yếu kém của
chúng ta, do thế, người này giống như một
vị đạo sư
tâm linh chỉ chúng ra cho
chúng ta. Mặc dù người ấy đang hành động với
ý chí bệnh hoạn,
chúng ta nên nghĩ về người ấy như một kẻ rất tử tế, và không
cảm thấy giận dữ đối với người ấy.
Như được nói rằng
chúng ta nên thấy những lời hướng dẫn của
đạo sư như làm rõ nét những khía cạnh
tiêu cực của
chúng ta.
Chúng ta nên nhìn tất cả những
hành vi tiêu cực được tích tập qua ba cánh cửa trong tấm gương của
Giáo Pháp và nên bắt đầu loại trừ những
hành vi tiêu cực của
ba nghiệp (thân, khẩu,ý) trong
thái độ đúng đắn. Giống như
chúng ta cố gắng chú ý những lời hướng dẫn của
đạo sư lưu tâm đến những yếu điểm của
chúng ta, do vậy,
chúng ta nên xem người
bình thường nói về những
yếu kém của
chúng ta như đồng đẳng với một
đạo sư tâm linh và nên chăm chú vào sự tử tế của người ấy.
Được khen là xấu, bị chê là tốt.
Sự
yếu kém của
chúng ta được nêu ra một cách trực tiếp khi
chúng ta bị chê bai.
Thế cho nên, như được nói ở đây,
tốt hơn là
thích thú được
ca tụng,
chúng ta nên
vui mừng vì bị
xem thường. Tại sao điều này là như thế? Bởi vì những
bất lợi của việc
tiếp nhận ca ngợi là sự kiêu hảnh
chúng ta gia tăng. Nhưng nếu ai đấy chê bai
chúng ta,
chúng ta cố gắng hết mình để
vượt qua những
lỗi lầm của
chúng ta,
chúng ta cảm thấy hổ thẹn về chúng và
nuôi dưỡng một
thái độ cố gắng tránh chúng trong tương lai.
Tương tự, nói rằng:
Vui vẻ là xấu, khổ đau là tốt; khi
chúng ta đau khổChúng ta nhớ lại
Thánh Pháp. Khi
chúng ta vui tươi,
Chúng ta làm rỗng những
công đức tích tập trước đây
Những
lời nói này thật sự nối kết
chúng ta với
cốt lõi của sự
thực hành.
ĐIỀU THỨ MƯỜI SÁU
Thậm chí nếu ai đấy được một nguwoif chăm sóc với
yêu thươngNhư con của người ấy lại xem người ấy như một
kẻ thù,
Đấy là sự
thực hành của những vị B T để
biểu lộ một lòng tử tế
vô cùng,
Như bà mẹ đối với con của bà ta bị tấn công bởi bệnh tật
Dịch kệ:
16.
Từ ái vô
điều kiệnNếu người ta thương và chăm lo
Như mẹ hiền cưng quý con thơ,
Đáp lòng tận tụy bằng oán ghét
Xử ta như
kẻ thù sâu nhất,
Hãy xem việc đó bệnh nguy nan
Hành con mình và dấy động tâm,
Càng yêu quý hơn và tử tế -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó.
Ý nghĩa trong đoạn kệ này cũng được
tìm thấy trong “Tám
Đề Mục Luyện Tâm” của Geshe Langri Thangpa: Khi những ai đấy mà tôi đã từng làm
lợi ích đến và trong những ai đấy tôi đã từng có những niềm
hy vọng lớn lao lại
mang đến cho tôi những
tai họa khủng khiếp, tôi sẽ nhìn người ấy như bậc
đạo sư thánh thiện của tôi.”
Chúng ta có thể
nuôi dưỡng hay hổ trợ ai đấy như con ruột của chính mình, với một lòng
quan tâm yêu mến như thế
chúng ta đáng lẽ phải được đền đáp,
tuy thế lại thấy rằng kẻ ấy lại chọn cách ngược đãi
chúng ta hay đối xử với
chúng ta như
kẻ thù thay vì đền đáp sự
ân cần của
chúng ta.
Tương tự thế, trong “Bốn Trăm Bài Kệ” nói rằng:
Ai đấy
cư xử một cách
tệ bạc bởi vì kẻ ấy bị
sở hữu bởi quỷ dữ
Sẽ không gợi lên
giận dữ trong sự chăm sóc của y sư với người ấy
Cũng giống như, Đấng
Mâu Ni nhìn những
phiền não như kẽ thù thay vì là
Người hành động với
phiền nãoVà trong “Lời
Ca Ngợi Ngạc Nhiên” của Changkya Rolpai Dorje nói rằng:
Đứa con bị quỷ dữ làm
khổ não có thể gắt gong với bà mẹ
yêu thương của nó
Nhưng bà
tiếp tục biểu lộ lòng mến yêu và
quan tâm về nó.
Tương tự thế, khi những
chúng sinh lang thang (trong cõi
luân hồi) của
thời mạt pháp ngược đãi con,
Con, một người
từ bi lưu tâm đến họ với lòng
yêu thương ân cần.
Thí dụ, khi Thượng thư Gewang
biểu lộ một sự
thất lễ và
vô liêm sĩ nghiêm trọng đối với Đức
Đạt Lai Lạt Ma thứ Bảy Kelsang Gyatso, Ngài không
biểu lộ ra một dấu vết nào dù nhẹ nhất về giận hờn đối với vị thượng thư của Ngài mà minh chứng một
tâm từ bi và
thương mến. Đây là tại sao Changkya Rolpai Dorje đã viết những lời
cầu nguyện này, để
ca ngợi Đức
Đạt Lai Lạt Ma thứ Bảy.
Bà mẹ của đứa con bị quỷ dữ
sai khiến và
đe dọa bà với một con dao không trở nên
giận dữ. Thay vì thế bà làm tối đa khả năng của bà để để
xua đuổi sự
ảnh hưởng của con quỷ dữ khỏi con của bà.
Tương tự thế, nếu ai đấy tôi đã từng giúp đở và
nuôi dưỡng với lòng
ân cần tử tế quay lại
thóa mạ tôi, thay vì phát sinh lòng
giận dữ đối với người ấy và tôi
cố gắng một cách
chân thành để
tiêu trừ phiền não của người ấy. Những điều này là cực kỳ khó khăn để đặt vào trong sự
thực hành, đấy là tại sao chúng được
thảo luận trong những dòng kệ riêng biệt của luận bản, nhầm để
nhấn mạnh chúng.
ĐIỀU THỨ MƯỜI BẢY
Thậm chí nếu một người cùng
vị trí hay thấp hơn chính mình
Toan
thóa mạ mình
quá sức ngạo mạn
Đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ Tát hoàn toàn tôn trọng để xem
Người ấy như một
vị đạo sư, trên đỉnh đầu của họ
Dịch kệ:
17. Khiêm tốn nhận phê phán
Bạn
ngang hàng hay kẻ kém thua
Về trí,
tâm linh, hoặc
sang giàu,
Mắng ta xem không ra gì hết
Do lòng
ngã mạn và
ghen ghét,
Xem họ như thầy dạy ta luôn
Khiêm tốn và trừ tánh
kiêu căng,
Tôn trọng và đặt họ cao cả -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó
Điều này có nghĩa là
chúng ta nên đối xử với người làm
tổn hại hay lăng mạ
chúng ta hết sức tự hào
như đạo sư của
chúng ta và lạy họ với sự
tôn trọng. Ngay cả nếu
kiến thức và
lối sống của họ là cùng tầm cở hay thấp hơn
chúng ta, hay nếu dưới những tình huống người ấy không thể
hy vọng để
tranh đua với
chúng ta trong bất cứ cách nào, đây là một sự
thực hành rất hữu ích.
Khi một người như vậy khuấy động sự
giận dữ của
chúng ta và rằng sự
giận dữ ấy
tồn tại với
chúng ta đến một hay hai ngày, nó là một
ý tưởng tốt để tưởng tượng rằng người ấy ở ngay
trước mặt chúng ta và lập đi lập lại những lời ấy, từ trong ‘Tám
Đề Mục Luyện Tâm’ Geshe Langri Thangpa nói rằng:
Khi tôi
đồng hành với những người khác,
Nguyện cho tôi, từ trong chiều sâu của trái tim tôi,
Nghĩ về chính mình như là người
thấp kém nhất,
Và tất cả những người kia là siêu tuyệt.
Trong lập lại những
ngôn từ này và tưởng tượng người ấy ở
trước mặt chúng ta,
chúng ta nên đặt đầu
chúng ta lên bàn chân họ với
tư tưởng, “Tôi là kẻ thấp hơn người.
So sánh với tôi, người là
siêu nhân trong những
kiến thức như thế - như thế và vì
lý do này và
lý do kia người là cao hơn tôi.”
Nghĩ trong cách này sẽ
lợi ích tâm tư
chúng ta bằng
việc làm nó yên tĩnh hơn. Sau
một lần nào đấy
chúng ta sẽ thấy rằng sự
giận dữ hung hăng trong
tâm thức chúng ta đối với người ấy
giảm thiểu cường độ và trở nên
vô hiệu lực. Nếu
chúng ta thấy mất đi lòng tự trọng trong tiến trình này,
chúng ta giữ điều này với chính mình, và khi gặp người ấy, hãy
đơn giản hành động một cách
tự nhiên.
Chúng ta nên đối xử người ấy
như đạo sư của
chúng ta trong sự
thực tập quán tưởng của
chúng ta,
tôn trọng người ấy và
lễ lạy người ấy, với một
mục tiêu đạt đến sự yên tĩnh trong
tâm thức của
chúng ta.
Như được nói rằng
chướng ngại lớn nhất trong sự
thực tập Giáo Pháp sinh khởi cả khi
chúng ta cực kỳ
yếu đuối hay
vô cùng mạnh mẽ. Điểm này được
nhấn mạnh trong “Hướng Dẫn Cung Cách Của
Đời Sống Bổ Tát”. Có một nguy cơ về sự suy thoái trong sự
thực hành Giáo Pháp của
chúng ta khi
chúng ta trở nên rất
yếu đuối hay,
trái lại, rất
thành công, do thế
chúng ta không thể
gìn giữ nó một cách
chính xác.
Chúng ta phải
cẩn thận trong những lúc như thế này.
Thí dụ,
hiện tại những người
Tây Tạng chúng tôi phải
lìa bỏ quê hương của mình.
Chúng tôi phải rãi rác khắp
thế giới và
đối diện một sự
thiếu hụt về
thực phẩm và
thức uống. Người ta làm bẻ mặt
chúng tôi bằng việc gọi
chúng tôi là những người tị nạn. Trên hết của điều ấy, một số người
chúng tôi mắc phải bệnh lao và được đưa đến bệnh viện.
Chúng tôi có thể cũng trãi qua một số
phiền não từ những bổn tôn (haythần linh xá trạch) bản sở rồi trở nên
chán nãn, nghĩ rằng, “Tôi đã mất quê hương của tôi,
tu viện của tôi. Tôi bị bệnh và người ta
chế nhạo tôi. Nếu tôi
trì niệm bây giờ, nó không có
tác dụng gì. Bất cứ điều gì tôi làm bây giờ sẽ không hổ trợ cho tôi. Tôi
yếu đuối và tôi thiếu những
căn bản cần thiết của
đời sống. Nếu phải chi tôi có một vài người bạn chăm sóc cho tôi, tôi sẽ chẳng thiết gì đến tất cả những thứ khác; nhưng tôi không có một người bạn nào cả.
“Trên tất cả đấy, tôi đang bị những người khác bắt nạt. Nếu tôi
mạnh khỏe, tôi sẽ không ngại, nhưng tôi không khỏe mạnh, tôi đang bị
hành hạ bởi những chứng bệnh. Mặc dù điều này là thế, nhưng nếu tâm tư tôi
vững vàng hơn và không bị quỷ ma làm chủ, thì cũng sẽ tốt thôi. Nhưng quỷ ma đã
sở hữu tâm thức tôi và tôi
hoàn toàn ở trong một
tình trạng tuyệt vọng với tất cả những thứ làm tôi
ưu phiền khổ sở.”
Rất dễ dàng quên đi sự
thực hành của một vị
Bồ tát khi
chúng ta ở trong một
tình trạng như vậy, vì thế
chúng ta nên thật là
cẩn thận trong những lúc như thế.
Chúng ta thực hiện điều này như thế nào?
ĐIỀU THỨ MƯỜI TÁM
Ngay cả một người sống trong một
hoàn cảnh nghèo nàn, luôn luôn bị người ta
xúc phạmVà bị khổ sở bởi một chứng bệnh trầm kha hay bởi những quỷ ma,
Đấy vẫn là sự
thực hành của những vị
Bồ tát tiếp nhận một cách ngoan cường
Những
hành vi tiêu cực và những khổ đau của tất cả
chúng sinh.
18. Nhận khổ
tha nhânDù chỉ là người khốn khó thay
Luôn bị
bạc đãi lắm đắng cay,
Nếu cứ
bệnh hoạn dày vò mãi
Lại bị hại, đớn đau, ngăn ngại,
Hãy nhận
đau khổ của
tha nhânPhải
chịu đựng do lỗi đã làm,
Đừng mất
dũng tâm khi nhận khổ -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó
Bất cứ những khổ đau nào mà
chúng ta phải
chịu đựng,
chúng ta nên nguyện ước cho những khổ đau của tất cả
chúng sinh chín muồi trên nó,
tư duy: “Nguyện cho khổ đau này của con
tiêu biểu và tịnh hóa tất cả những khổ đau của
chúng sinh.”
Chúng ta nên phát sinh
sức mạnh nội tại vĩ đại mà không đánh mất
can đảm, do thế
chúng ta mới có thể lãnh lấy khổ đau thật sự của kẻ khác và những
hành vi tiêu cực là cội gốc
nguyên nhân. Sự
thực tập này của những vị
Bồ tát là cực kỳ quan trọng.
Cũng có một cơ hội
quên lãng giáo pháp nếu
chúng ta trở nên
thành công và có nhiều
tài sản. Vì thế, có nói rằng:
ĐIỀU THỨ MƯỜI CHÍN
Nếu một người
nổi tiếng, được nhiều người
tôn trọng với sự giảu sang của
Tỳ Sa Môn thiên vương (chúa tể
hộ vệ về
của cải),
Đấy là sự
thực hành của
Bồ tát, hãy thấy sự không
bản chất của
vinh quang và
giàu sangCủa trần gian, để
duy trì tính chất không tự phụ.
Dịch kệ:
19. Tránh
kiêu mạnĐược khen,
nổi tiếng, ngưỡng mộ nhiều
Người
kính trọng gặp luôn cúi đầu,
Dù có sản nghiệp thật vĩ đại
Ngang với kho tàng của
Thần Tài,
Thế nhưng thấy rõ quả
luân hồi,
Dù
may mắn, chẳng phải tinh khôi,
Diệt mạn từ
vinh hoa khởi dấy -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đấy.
Chúng ta có thể phát triển
tiếng tăm vì sự
hiểu biết những kinh sách luận điển cũng như vì
kiến thức quãng bác của
chúng ta, vì thể người ta
ca ngợi chúng ta.
Chúng ta có thể trở nên rất
phổ biến [được
mọi người ưa thích] và ngay cả được đề cao trên trang bìa của những tờ báo. Điều
phổ thông này
chúng ta đã
đạt được không phải được đem đến
do bởi sự
nổi danh của
chúng ta, chẳng hạn như giết người hay làm
tổn hại kẻ khác, nhưng từ sự
đạt được một
danh thơm. Và vì thế người ta cúi đầu trong sự
tôn trọng đến
chúng ta và từ sự
ảnh hưởng của
chúng ta.
Thêm nữa,
chúng ta không muốn điều gì cả.
Chúng ta có quá nhiều
tài sản thế gian mà
chúng ta có thể
so sánh ngay cả với những người
giàu có nhất.
Chúng ta có những người
phụ giúp trung thành và những người bạn tốt, và nhiều người
đi theo để
phục vụ chúng ta. Tại thời điểm này, sự
thực hành của những vị
Bồ tát có thể bị
suy giảm, và
chúng ta có thể bắt đầu
suy nghĩ theo những dòng này: “Tôi có nhiều
tài sản và
tiếng tăm tốt. Tôi là một người học vấn cao, và người ta
ca ngợi tôi với sự
tôn trọng của họ và
tin tưởng trong tôi.”
Chúng ta có thể biết một vài điều mà Kinh Phật đã nói, nhưng có một sự nguy hiểm mà
chúng ta sẽ phát triển một
thái độ không
lành mạnh sẽ dẫn
chúng ta đến
suy nghĩ, “Tôi biết nhiều
kinh luận và tôi có một
tiếng tăm uyên bác như thế và như thế. Tôi biết
kinh luận quá
rõ ràng mà nếu
Long Thọ đến đây bây giờ. Tôi có thể đánh bại ông cụ. Ngay cả
Văn Thù sắp đến, thì cũng tốt thôi.”
Chúng ta bắt đầu nghĩ như thế ngay cả nếu
chúng ta đối diện với sáu thứ
trang nghiêm và hai vị thầy
siêu việt [13],
chúng ta sẽ
chỉ đạo chính mình
khả quan, và
chúng ta không
nhận ra rằng
loại suy nghĩ này
báo trước sự
đi vào thế giới địa ngục. Nhiều
loại suy nghĩ phi
Phật Pháp cũng có thể
sinh khởi qua những
con người đặt
niềm tin và
tôn trọng chúng ta.
Tương tự thế, nếu
chúng ta rất can cường và
tinh thần mạnh mẽ,
chúng ta có thể bắt đầu để nghĩ trong cách này: “Tôi đã làm việc
cật lực vì lợi ích của
Giáo Pháp và chính trị, vì thế nếu tôi có tích tập một số
hành vi tiêu cực cũng chẳng hề gì.” Có một sự nguy hiểm trong những
tư tưởng như vậy, bởi vì
chắc chắn là
chúng ta sẽ không thể
thực hành Giáo Pháp một cách
thích đáng trong khi được thổi phồng lên và phô trương trong
hình thức,
dựa trên những
lý do không
đúng đắn.
Chúng ta nên phải rất
cẩn thận một cách thực sự trong những
thời gian như vậy.
Như được viết trong “Ước hẹn với Niềm tin” [Engagement of Faith],
tiểu sử của
Đại sư Tông Khách Ba: “Khi người ta trải những tấm thảm
đặc biệt vì tôi và
cúng dường nhiều thứ vì lòng
tôn kính, sự
tôn trọng của họ là
chân thành; mặc dù thế, ngay trong khoảnh khắc ấy tôi
đồng thời nhận ra rằng tất cả những thứ này là
vô thường và không
đáng tin cậy, cũng
dối trá như
vọng tưởng. Với
suy nghĩ ấy, tôi
cảm thấy buồn mênh mang, thấy tất cả
mọi vật xuất hiện như không thật và
nhất thời. Sự
chịu đựng buồn khổ này
mang đến một sự
chuyển hóa trong chiều sâu trái tim của tôi, là điều bẩm sinh ngay từ lúc mới
ban đầu.
“Một người nên theo sự khuyên bảo trong Hướng dẫn
Đời sống Bồ Tát đạo (the Bodhicharyavatara), nói rằng: “Tại sao có ai đấy
thích ca ngợi bạn, khi có một số người khác
xem thường bạn?
Tương tự thế, không có điểm nào trong sự không thích ai đấy
xem thường bạn, bời vì có những người khác
ca ngợi bạn. Đây thực sự là những
ngôn ngữ từ ái và
chúng ta nên
lưu ý chúng. Không điều nghiên nội dung,
chúng tôi cảm thấy rằng
ca ngợi có
bản chất của khổ đau. Sự
chuyển hóa mang đến trong chiều sâu
tâm thức của
chúng tôi dừng lại với tôi một
thời gian dài và
thực tế là bẩm sinh từ lâu xa trước đây.
Thông điệp này chứa đựng một
tuệ trí thậm thâm. Với điểm gì đang
bám víu đến
tiếng tăm trống rỗng của một
thanh danh to lớn? Có gì
tuyệt vời về ca ngợi? Nó chỉ
đơn thuần là những
chữ nghĩa khô khan. Ai đây có thể
ca ngợi chúng ta hôm nay, nhưng nếu sau đó
chúng ta làm việc gì đấy không có
tư cách những lời
ca ngợi ấy trở nên
vô dụng. Điều này được
bàn luận trong “Tràng hoa Quý báu” và giống như trong “Những sự Hướng dẫn đến một vị Vua” của
Long Thọ, trong ấy nói rầng
danh thơm của một người, dù to lớn thế nào, thì cũng chẳng có gì diệu kỳ trong chính nó.
Chúng ta cũng không
ao ước hay bị
vướng mắc với những tài vật của
chúng ta, ngay cả nếu
chúng ta có nhiều đi nữa. Tích tập và
bảo vệ tài sản và
danh tiếng được nói là
nguyên nhân của nhiều
đau khổ.
Chúng ta nên kêu gọi để
quan tâm những điều
tốt đẹp của cõi
luân hồi sinh tử từng thứ một và
lưu ý những sự
bất lợi của chúng, trong cách này
thuần hóa tâm thức chúng ta để tránh bị thổi phồng với tự hào. Như Brom’s Tonpa nói: “Bạn nên
duy trì sự khiêm cung trong khi được
ca ngợi và đón nhận một sự tiếp cận thoãi mái đến những gì
hài lòng bạn.”
Đây là một
lời nói vô cùng ý nghĩa, và
chúng tôi thực hành điều này tối đa như có thể. Người ta dâng phẩm vật
cúng dường, bày tỏ sự
tôn kính và
ca ngợi chúng tôi, nói rằng, “Đây là Đấng
Thánh thiện Đạt Lai Lạt Ma [His Holiness the Dalai Lama]”, nhưng
chúng tôi duy trì sự khiêm hạ của mình.
Nhiệm vụ của
chúng tôi như một
tu sĩ đơn độc chứng tỏ sự toàn tâm toàn ý của
chúng tôi trong
Giáo Pháp và
thực hiện như thế cũng để làm
chúng tôi an lạc.
Những người khác cũng nên làm giống như thế.
Thí dụ, bạn không nên tranh lấy một
vị trí tốt trong một chỗ ngồi được
sắp đặt cũng không
hy vọng cho điều ấy, mà
tốt hơn là hãy quên đi cách
suy nghĩ như thế. Bạn nên dấn thân trong những
hành vi Phật Pháp đấy là sự
thực hành giáo Pháp thật sự. “Một người có thể tiến hành [những
hành vi] không phải
Giáo Pháp trong khi vẫn ăn vận
lễ phục bên ngoài của
Phật Pháp.” Quý vị nên
tỉnh thức liên tục và
thực hành sự tự lượng định
thường xuyên liên tục như mình có thể.
Kiểm điểm chính mình đến tận cùng như mình có thể; nếu bạn thật sự không thể làm điều này thế thì không phải lỗi của bạn.
Hãy khiêm tốn và
tiếp nhận một
vị trí thấp đưa đến kết quả trong sự
an lạc hạnh phúc, và là điều
vô cùng quan trọng. Nếu
chúng ta cố gắng để
duy trì trong một
vị trí cao,
chúng ta sẽ
kinh nghiệm khổ tâm sau này nếu
mọi việc không xãy ra như
chúng ta đã kỳ vọng;
trái lại chúng ta sẽ không phải
trải qua bất cứ
cảm giác mất mát từ việc
lựa chọn tiếp nhận một
vị trí thấp. Khiêm hạ là quan trọng một cách
đặc biệt trong
cộng đồng Tây Tạng, nơi
chúng tôi có những
thí dụ tốt để
thực hành theo.
Tuy thế,
mọi người trong những
cộng đồng thường không
xem như một sự khâm phục để tìm một
vị trí thấp sẽ thật sự khổ sở vì mất mát bởi
tiếp nhận một thế đứng khiêm hạ. Những tập quán
xã hội như thế không thể được
tin cậy, khi những người giữ một
vị trí thấp được
xem như không
thích hợp để
gánh vác những
trách nhiệm trong
xã hội. Những người này chi giành được những lời
xúc phạm và lăng mạ từ việc giữ lấy
thái độ khiêm
tốn của họ. Điều này khác với
xã hội Tây Tạng, nơi những điều như thế này chưa xãy ra. Vì thế, đối với những người
Tây Tạng tốt hơn là khiêm tốn, và điều này
đặc biệt đầy
ý nghĩa đối với những ai có những
danh hiệu và
tên tuổi như học giả,
tiến sĩ geshe,
lạt ma, và v.v… Một
thái độ khiêm cung là một
trang nghiêm thánh thiện cho những
giáo huấn,
trái lại tự phụ và
kiêu ngạo có thể đến từ có một nhãn hiệu không
phản chiếu tốt đẹp đối với
Giáo Pháp.
Bất cứ điều gì người ta
lựa chọn để làm,
tùy thuộc vào họ. Không phải là
vấn đề của tôi. Nhưng bởi vì
chúng ta có
tự do ngôn luận,
chúng tôi đã chọn lựa để nói những điều này. Những người
kiêu ngạo không làm nên một
ấn tượng tốt và sự tự hào như thế là không có
thực chất.
Chúng tôi có một vài người bạn hay
xem thường và lăng mạ người khác căn cứ trên chút ít thông tin mà họ biết, mặc dù họ không
nhận ra sự
phán đoán sai lầm của họ. Do thế, đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát để
từ bỏ tự hào, như được nói ở đây. Bây giờ
chúng ta chuyển sang đoạn kệ tiếp.
ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI
Nếu
kẻ thù ngoại tại bị
tiêu diệt trong khi không
kiềm chếKẻ thù là lòng thù hận của chính một người,
kẻ thù ngoại tại sẽ
gia tăng.
Vì thế, đấy là sự
thực tập của những vị
Bồ tát để
chinh phụcTâm thức của chính họ với đội quân của
từ ái và bi mẫn
Dịch kệ:
20. Diệt nội thù
Sân ẩn trong tâm bị lãng quên
Lại chuyển ngược ra ngoại thù nhân,
Cố
tiêu diệt họ, giết hàng vạn,
Vạn
kẻ thù khác lại
hành hạ.
Thấy rõ
bạo hành chẳng
giải trừHãy
dụng lực nhân ái khoan từ;
Nội hướng
điều phục tâm động loạn -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó.
Tất cả những
kẻ thù ngoại tại
chúng ta đánh bại sẽ được thay thế một cách không
chấm dứt bởi những người khác nếu
chúng ta không
thuần hóa lòng thù hận trong
chúng ta. Trong Hướng dẫn
Đời sống Bồ tát đạo nói rằng:
Nơi nào tôi có thể tìm đủ da
Với nó để phủ trên bề mặt của trái đất?
Nhưng (mang) da duy chỉ trên đôi giày của tôi
Là đủ để phủ trên mặt đất với nó.
Nghĩa là:
Những
chúng sinh ngang ngược (
không giới hạn) như
hư không:
Không thể vượt thắng tất cả họ.
Nhưng nếu tôi chỉ vượt thắng những
tư tưởng sân hận mà thôi,
Điều này sẽ đồng như chiến thắng tất cả
kẻ thù.
Làm thế nào
chúng ta chinh phục tất cả những
kẻ thù của
chúng ta trong
cõi trần gian này của ba nghìn thế giới? Điều đó là không thể.
Tuy thế,
thuần hóa kẻ thù nội tại của
sân hận là đồng với việc
thuần hóa tất cả những
kẻ thù ngoại tại.
Thí dụ, trong Trung Hoa
hiện đại, tức là thời Trung cộng, có hàng khối
rắc rối từ năm 1959 về sau, bởi vì những người lĩnh đạo đấu tranh
với nhau để dành quyền
kiểm soát; vì thế có điều gì đấy không đúng. Nếu
chúng ta lưu tâm đến
tình cảnh này từ
quan điểm của
Phật Pháp,
chúng ta có thể thấy rằng trong khi
sân hận nội tại vẫn chưa được
thuần hóa chúng ta thiếu
chịu đựng hay kém
kiên nhẫn.
Mọi việc có thể
trôi chảy trong vài ngày hay vài tháng; rồi thì rối rắm xãy ra mà
chúng ta phải
đối phó, và rồi thì một
vấn đề khác nổi lên thế vào
vị trí ấy. Điều này là
hiển nhiên một cách
sẳn sàng. Vì thế ở Trung cộng, từ 1959 đến 1969 và
một lần nữa từ 1973 đến 1974, [rồi từ 1976 đến 1979], là không có hòa bình.
Có nhiều
rắc rối trong môi trường chính trị một
cách thông thường, cội nguồn của nó là sự
sân hận nội tại không được
thuần hóa. Như một kết quả người ta không thể vượt thắng
kẻ thù ngoại tại
ở chung quanh họ, hãy để riêng những kẽ thù của một nước khác. Những khó khăn
sinh khởi bởi vì người ta
tranh đua để khống chế lẫn nhau. Câu
trả lời cho điều này là phải
kiểm soát trên những
kẻ thù nội tại của
sân hận. Nhưng làm thế nào
chúng ta đạt được điều này?
Không vận dụng một mũi tên, vũ khí và tấm chắn (cái mộc)
Một người
chinh phục một tỉ
Ma vương hoàn toàn do chính mình,
Ai biết kỷ năng của trận chiến này hơn là quý vị?
Chúng ta phải
thuần hóa kẻ thù nội tại bằng sự
tiếp nhận áo giáp của
từ ái và
năng lực bao la của bi mẫn. Vì thế, trong
cộng đồng Tây Tạng,
chúng ta nên bộc trực, ngay thẳng, và
lịch sự với nhau, nói chuyện mặt đối mặt và làm một sự
phân biệt rõ ràng giữa đúng và sai. Bằng việc hành động trong một cung cách như thế
chúng ta có thể
dần dần khắc phục sự
bùng nổ cơn giận của những người khác và làm dịu chúng dần. Nếu
chúng ta trả đủa bằng
sân hận khi những người khác
biểu lộ giận dữ đối với
chúng ta, điều ấy chỉ làm
vấn đề tệ hại hơn, giống như quậy nước bùn sẽ làm nó đục ngầu lên,
vấn đề sẽ
tối tăm,
âm u hơn chẳng
lợi ích cho ai. Nhưng sự
cư xử một
cách lịch sự sẽ gở ngòi nổ của
sân hận sau một khoảng
thời gian nào đấy. Một cơn
thịnh nộ chẳng
phục vụ cho một
mục tiêu nào ngoại trừ làm
gia tăng sân hận, tự hào,
ghen tỵ, và tính
tranh đua của
con người.
Làm những sự
phân chia mạnh mẽ giữa chính
chúng ta và phe phái
chúng ta như để
chống lại những người khác và phe phái của họ làm tăng thêm khả năng
đồng thời bùng nổ sân hận. Trên bình diện của
sân hận,
chúng ta nên cho một sự
giải thích hợp lý nếu người kia
tiếp nhận. Nhưng nếu người kia không muốn nghe, thế thì
chúng ta để nó cho
thời gian.
Sân hận là một
cảm xúc hay thay đổi. Nó phát
sinh không báo trước và biến dần sau một lúc. Mặc dù người ấy là một người mà người ấy luôn luôn là như thế nào ấy, lúc người ấy
sân hận sẽ không hề bị lay chuyển khi
thân nhân cố gắng để
an ủi. Người ấy sẽ vẫn đấm vào đầu
kẻ thù của mình. Sau này, khi
cơn giận dữ của người ấy đã phai nhạt, họ thậm chí có thể là bạn của nhau.
Chúng ta có thể thấy từ
thí dụ này rằng
kẻ thù nội tại là cực kỷ nguy hại. Những
giải thích khác nhau được đưa ra trong
thảo luận này về thuần háo
kẻ thù phiền não của
chúng ta trên
vấn đề làm thế nào để đem sự hóa giải đến
giận dữ và thù hận. Điều được
nhấn mạnh là nguy hại
vô cùng nếu
để tâm thức
nhiễm ô với thù hận. Trong đoạn kệ tới,
chúng ta được chỉ cho thấy làm thế nào để đem thuốc giải đến
vướng mắc.
ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI MỐT
Cảm giác khoái lạc, như nước mặn, làm tăng thêm khát dục
Không cần biết bao nhiêu họ được
thọ hưởng.
Vì
thế sự thực tập của những vị
Bồ tát là hãy
từ bỏ chúng
ngay lập tứcTất cả những đối tượng phát sinh
tham dục đối với họ.
Dịch kệ:
21. Lìa
buông lung căn trầnBuông thả các căn theo các trần
Và uống nước muối cũng như nhau.
Càng dùng nhiều vào cho
thỏa thích,
Càng tăng
tham muốn và khao khát.
Nên khi chớm bị cuốn hút vào
Bất cứ vật gì các căn ưa,
Cắt nhanh không chút chi
do dự -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó.
Điều này
liên hệ đến những đối tượng của
tham dục chẳng hạn như
hình sắc, âm thinh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm.
Tuy nhiên, càng
thụ hưởng khoái lạc của những đối tượng
tham dục này, giống như là
chúng ta đang uống nước muối, nó chỉ làm
chúng ta khao khát thêm nước. Giống như thế, say sưa trong sự
thích thú tham dục chỉ làm
chúng ta tăng thêm
đam mê. Nó giống như chứng ngứa trên da,
chúng ta muốn gãi cho đã ngứa và hết ngứa. Điều này cũng có
tác dụng trong một lúc, nhưng rồi thì
chúng ta phải
tiếp tục cho đến khi toạt da chảy máu. Như được nói trong “Tràng hoa Quý báu”:
Gãi làn da ngứa ngái làm khoái chí
Nhưng
tốt hơn đừng có ngứa mà chi
Tương tự thế nhân ham khoái lạc
Nhưng
an lạc hơn
tự tại chẳng tham cầu
Chẳng bao giờ có sự
thỏa mãn trường cửu trong sự
hài lòng với
tham dục.
Tuy thế, càng
thụ hưởng chúng nhiều hơn, càng
gia tăng thêm sự
vướng mắc của
chúng ta. Đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát để
phản chiếu trên những sự
bất lợi về những phẩm chất của
tham dục và đối tượng của chúng là những điều sẽ làm
tăng tiến tham dục trong
chúng ta và vì thế nhắc lại là hãy
từ bỏ những đối tượng này.
Trước điều này luận bản đã
đối diện với những sự
thực tập liên hệ đến
tâm giác ngộ (bodhicitta)
quy ước thông thường. Ở đây dường như nó đang
thảo luận cánh cửa
đi vào sự
thực tập tâm giác ngộ
căn bản, mà nó
bao gồm hai khía cạnh: sự
thực hành cân bằng
không gian trong
thiền quán và sự
thực hành trụ thiền
tỉnh giác về
bản chất tự nhiên huyển hóa của những
hiện tượng.
ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI HAI
Bất cứ điều gì
xuất hiện là (sự biểu hiện của)
tâm thức chính người ấy;
Tính bản nhiên của
tâm thức nguyên sơ
tự do với
biến chuyển huyển hóa (hành)
Biết điều này, đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tátKhông
vọng tưởng những biểu hiện của chủ thể và đối tượng.
Dịch kệ:
22. Phá
niềm tin hữu cố nhiên
Vật trông như
hiện hữu chân thậtChỉ do tâm
ảo cấu tạo tác;
Tâm của ta từ thuở uyên nguyên
Nào có
tinh túy thật cố nhiên.
Thức giác
Chân đế vượt suy niệm
Từ vật được biết với người biết,
Giải phá
niềm tin cố nhiên hữu -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó.
Bất cứ điều gì
xuất hiện đến
chúng ta chỉ là
tâm thức – cả những
hiện tượng của cõi
luân hồi lẫn những
thế giới ngoài
vòng sinh tử. Điều này cũng là một cách nói rằng những
hiện tượng ngoại tại là một phần của
tâm thức, là điều được
liên hệ với trường phái
Duy tâm hay
duy thức (Mind only – Chittamtrin) hay
quan điểm của
Du già Trung quán Tự quản tông (Yogacharya Svatantrika Madhyamika).
Nếu
chúng tôi giải thích theo
quan điểm được cho là của
Nguyệt Xứng (Chandrakirti), nó có nghĩa là những
hiện tượng của
thế gian lẫn
xuất thế gian xuất hiện trong những
phương diện đa dạng
thanh tịnh và
nhiễm ô của chúng tất cả là trống rỗng sự
tồn tại cố hữu (không có
tự tính).
Quan điểm này hàm ý rằng chúng được tạo nên một cách
chủ quan bởi
tâm thức quy ước (
thế đế) và
tồn tại một cách
đơn thuần bởi
vọng tưởng được mệnh danh. Nếu những
hiện tượng tồn tại một cách thật sự và
cụ thể từ chính nó như chúng
xuất hiện đến
chúng ta, thế thì sự
tồn tại thật sự của chúng trở nên
rõ ràng hơn chứ không như
chúng ta khám phá rằng
bản tính tự nhiên của nó không thể
tìm thấy.
Có phải
chúng ta thất bại trong việc
tìm ra bản chất tự nhiên của chúng bởi vì những
hiện tượng thật sự
tồn tại hay bởi vì chúng không tồn tại? Không phải bởi vì sự
không tồn tại của nó mà
chúng ta không thể
tìm ra. Nó có một
chức năng và vì thế nó phải
tồn tại.
Ảnh hưởng không
lành mạnh hay không
lành mạnh mà nó có trên môi trường của
chúng ta và trên
con người cũng
chứng tỏ sự
tồn tại của nó.
Chúng ta có thể thấy nó bởi vì nó
tồn tại trong tầm nhìn của
chúng ta. Thế nên
chúng ta có thể suy ra rằng không phải
do bởi sự
không tồn tại của nó mà
chúng ta không thể định rõ tính
tự nhiên của nó.
Chúng ta có thể
hoàn toàn chắc chắn rằng nó thật
tồn tại.
Nhưng nếu
chúng ta tiếp tục khám phá,
tìm kiếm sự
tồn tại khách quan của nó,
chúng ta không tìm được.
Chúng ta có thể
tìm thấy nó nếu nó có một sự
tồn tại độc lập; vì thế
chúng ta có thể suy ra rằng nó không thể
tồn tại một cách khách quan, nhưng đúng hơn là nó hình
thành sự tồn tại một cách
tự nhiên qua
tâm thức quy ước (
thế đế).
Sự
tinh khiết hay
nhiễm ô của những
hiện tượng xuất hiện đến
tâm thức hiện tại của
chúng ta, có phải chúng
xuất hiện từ chính chúng hay làm thế nào chúng
xuất hiện tới chúng ta? Với cách
suy nghĩ của
chúng ta, sự
xuất hiện của đối tượng dường như phát sinh từ phía của chúng, và trong cách này,
tâm thức chúng ta tiếp nhận một khái niệm
sai lầm. Như Đức
Đạt Lai Lạt Ma thứ bảy nói:
Đến một
tâm thức bị chế ngự bởi mê ngủ
Một đối tượng
mộng ảo xuất hiện.
Tuy thế, không có một đối tượng thật sự ở đấy
Chỉ
đơn thuần là một hình thể được biểu hiện bởi
tâm thứcĐưa ra
thí dụ về
giấc mộng và sự
xuất hiện huyển thuật, bất cứ điều gì
xuất hiện vào
lúc ấy cũng không có sự
tồn tại cố hữu.
Thí dụ,
chúng ta có thể mơ thấy một đàn voi, nhưng
không thật sự có một đàn voi ở đấy. Hay
chúng ta có thể mộng về
Tây Tạng, nhưng giấc mơ ấy, đất nước
Tây Tạng,
không thật sự
hiện hữu; nó chỉ
đơn thuần là sự biểu hiện. Như được nói là:
Không có điều gì thật sự
tồn tại trong
căn bản của
Sự đổ thừa. Chỉ có danh xưng được đặt để
Bởi
ý thức lừa dối trên những sự
tồn tại như
Tự ngã và nhứng thứ khác, vòng
luân hồi,
niết bàn, và v.v…
Dường như rằng vòng
luân hồi,
niết bàn, và v.v…
tồn tại trong
căn bản lừa dối, chúng không có sự
tồn tại khách quan mà
chúng ta có thể
chỉ tay và nói, “Cái này là cái này,” hay, “Cái này là cái kia.”
Rồi thì nó được nói rằng:
Sự mệt mõi
trì độn của
si mê trong
Ý thức của một
phàm phu quy cho
Một sự
tồn tại vững chắc và thật sự đển những đối tượng.
Hãy nhìn
hành vi của
tâm thức ghê tởm này của
chúng taMột
tâm thức bị
phiền não bởi
si mê, giống như sự
hôn mê xâm chiếm
ý thức của một
phàm phu, bám lấy [việc
tin tưởng] những
hiện tượng như
tồn tại một cách khách quan từ chính phía của chúng.
Chúng ta được mời gọi để thể nghiệm điều này trong ánh sáng của
kinh nghiệm chính
chúng ta, để
khám phá tâm thức bệnh hoạn ấy của
chúng ta, mà nó
quen thuộc với
si mê từ thời
vô thủy, nó bám lấy tất cả những đối tượng như sự
tồn tại độc lập.
Chúng ta không thể thấy chúng như sự
tồn tại qua
năng lực của danh xưng và sự định nghĩa của
thế gian.
Những đối tượng mà
chúng ta chỉ đến, nói rằng, “Cái này là cái này,” hay “Cái này là cái kia,”
xuất hiện để
tồn tại từ phía của chúng trong một kiễu mẫu rắn chắc,
cụ thể, và
độc lập. Chúng
xuất hiện thế, mà không có một sự
tồn tại như vậy. Như được nói:
Sự
tồn tại của “cái tôi”, đã
xuất hiệnĐến
tâm thức lừa dối từ ngay thời
vô thủy,
Là đối tượng
vi tế cần được phủ nhận. [Sự phủ nhận này] là đầy sức sống
Hoàn toàn bác bẻ lại khái niệm
sai lầm trong
tâm thức một người.
Những khía cạnh
tinh khiết và
nhiễm ô của [hình thể]
xuất hiện chỉ toàn là
tâm thức, hay
tồn tại qua
tâm thức, và cũng
hiện hữu qua danh xưng và
tâm thức, mà không phải
tồn tại từ phía của chính những đối tượng.
Giống như thế,
tự tâm thức cũng được bao hàm trong tất cả những
hiện tượng khác. Nếu
chúng ta điều nghiên
tâm thức,
phân chia nó thành những khoảnh khắc trước và sau và
tìm kiếm nó theo danh xưng của nó,
chúng ta không thể
tìm ra nó. Lấy cái thấy của mắt [
nhãn thức] làm
thí dụ, đấy là điều
xuất hiện cụ thể đến
tâm thức chúng ta,
chúng ta có thể
phân chia nó thành những phần của nó và thấy rằng nó không
hoàn toàn tách biệt khỏi những phần này. Mỗi phần cũng
không thể nói là giống như
toàn bộ thực thể, bởi vì
toàn bộ thực thể và những
phần tử là khác nhau. Trong một cách
tương tự, nếu
chúng ta phân chia chân tay của
thân thể thành những phần tách biệt của chúng,
chúng ta không thể thấy người
sở hữu của những chân tay này. Mặc dù nó
tồn tại, nó không như chỉ trong sự
liên hệ trên chính những chân tay mà thôi.
Khám phá một cách kỷ càng trong cách này,
chúng ta tiến đến một cấp độ mà không có một vật gì mà
chúng ta chỉ ra một cách cách
chắc chắn, và
chúng ta kết luận rằng tự
chính tâm thức là
tinh khiết từ ngay thời
vô thủy và
tự do với những
cực đoan.
Nó
không tồn tại cũng không phải
không tồn tại,
Nó cũng không phải không cả hai
Cũng không tách biệt khỏi chúng.
Mọi vật trong
thiên nhiên chỉ
đơn thuần không
tự tính (
tồn tại cố hữu) và
tự do khỏi những
cực đoan như được
diễn tả ở đây:
Tất cả mọi
hiện tượng của
thế gian và
xuất thế gianChỉ
đơn thuần được
quy định bởi
tâm thức nội tại,
Khám phá tâm thức ấy
cũng thế, nó
tự do khỏi sự
sinh khởi và
Ngừng dứt. Vì thế,
tự nhiên của
thực tại là
kỳ diệu.
Tất cả những
hiện tượng thế gian và
xuất thế gian chỉ
đơn thuần là danh xưng bởi
tâm thức và
tự tâm thức, khi nó được
khám phá, nó
tự do (
giải thoát) khỏi sự
sinh khởi [sinh] và ngừng dứt [diệt]. Giống như thế, tính
tự nhiên của
con người được phú cho một
tâm thức không sinh khởi cố hữu (tâm
bất sinh). “Tôi, tính trống rỗng
không thật sự
tồn tại của một
hành giả, thấy rằng trong
thực tế không điều gì
tồn tại một cách
thực chất. Tất cả những sự
xuất hiện về cái thấy hay cái
nghe được khám phá như những
hình ảnh của
vọng tưởng, và từ liên hợp
thú vị của hỉnh thể và
tính không, tôi bị
thuyết phục một cách không thể chối cải về tính tương
duyên sinh khởi (
duyên sinh).” Thật tuyệt, đúng là một
hành giả du già không
tự tính, khi thấy rõ
tướng mạo của tất cả cái thấy, cái nghe và
nhận thức, thấy rằng chúng
không tồn tại.
Nếu tất cả những hình thể này
sở hữu một sự
tồn tại cố hữu (
tự tính), có
thể không có sự mâu thuẩn trong chúng [chứ?] Hãy đề
chúng ta lấy một
thí dụ về cây cối: trong mủa hè, có sự
tăng trưởng về bộ lá, và v.v… Rồi thì mùa mưa
tiếp theo là
mùa đông,
thời tiết lạnh và khô. Vào mùa hè cây cối rất
xinh đẹp, nhưng trong
mùa đông nó thật là
xấu xí. Nếu những phẩm chất của cây cối thật sự
tồn tại trong chính nó, làm thế nào có sự thay đổi này xãy ra? Làm thế nào một cây
hấp dẫn bị
biến thành một cây xấu xí?
Tương tự thế, làm thế nào một người
hiện tại là
xinh đẹp trẻ trung lại trở nên già yếu bệnh hoạn?
Cũng thế, nếu
tâm thức lừa dối của
chúng ta thật sự
tồn tại, làm thế nào nó có thể được
chuyển hóa thành tâm giác ngộ, một
tâm sở hữu kiến thức toàn hảo và
vứt bỏ mọi thứ tiêu cực? Một người bị
nhiễm ô với những
lỗi lầm và chính tự những
lỗi lầm, những phẩm chất
hấp dẫn và những thứ
đối lập của nó, về đẹp đẻ và
xấu xa – tất cả những khía cạnh đa dạng này có thể
tồn tại mà không mâu thuẩn
do bởi sự không
tự tính (
không tồn tại cố hữu).
Nếu có sự
tồn tại cố hữu (
tự tính), làm thế nào những
nguyên nhân (nhân) và những
điều kiện (duyên) có thể
ảnh hưởng nó? Làm thế nào những kết quả có thể tích lũy? Làm thế nào những
hiệu quả dựa vào những nguyên nhân?
Rõ ràng rằng có nhân và duyên [những
nguyên nhân và những
điều kiện], cùng tốt và xấu. Những điều này chỉ có thể xãy ra
do bởi không có sự
tồn tại cố hữu và vì thế nó
chứng tỏ một cách
dứt khoát rằng những
hiện tượng thiếu
chân thực hay không
tự tính (không có sự
tồn tại cố hữu). Do thế, trích dẫn phía trước: “Tôi, sự trống rỗng của một
hành giả không thực sự
tồn tại, thấy rằng trong
thực tế không có gì
tồn tại một cách
thực chất. Tất cả sự
xuất hiện của cái thấy, cái
nghe được khám phá như những
hình ảnh của
vọng tưởng, và từ liên hợp
thú vị này của hình thể và
tính không tôi bị
thuyết phục một cách không thể chối cải về tính tương
duyên khởi thủy (
duyên sinh).”
Sự
sinh khởi những
tướng mạo không
sai lầm chứng tỏ rằng sắc là không [, vì chỉ
tính không mới có tính
hoàn hảo ấy]. Đấy là bởi vì những
hiện tượng thiếu vắng sự
tồn tại cố hữu (
tự tính) rằng một sự
chuyển hóa xãy ra
tùy thuộc trên những
điều kiện (duyên) của chúng, vì thế những khía cạnh đa dạng của những
hiện tượng có thể biểu hiện tới
chúng ta. Do vậy,
rõ ràng rằng hình
thể không phủ nhận
tính không,
tính không cũng không phủ nhận hỉnh thể (sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc).
Chỉ bằng việc thấy
duyên sinh không thể bản cải,
Đồng thời và không có bất cứ một nổ lực nào
Những cung cách trước đây về nắm bắt đối tượng
hoàn toàn tan biến và
Sự
khám phá về những khái niệm
hoàn toàn hoàn tất.
Mặc dù tôi không hiểu điều này một cách
chính xác,
tuy thế tôi nghĩ rằng đây là
trường hợp của nó.
Chúng ta cần có một sự
quen thuộc tường tận với
quan điểm này trong
tâm thức chúng ta nhầm để nắm bắt
hình sắc và
tính không mà không mâu thuẩn và trong một quan hệ bổ sung
với nhau.
Chúng ta cần phát triển sự
tin chắc trong cả khía cạnh
tính không, không có
tự tính (không có sự
tồn tại cố hữu), và trong khía cạnh hình thể (sắc) của
hiện tượng.
Chúng ta phải thể nghiệm khía cạnh
tính không lần này đến lần khác để tiến sâu vào sự
tin chắc của
chúng ta. Khi
chúng ta thông hiểu một số kỷ năng trong
nhận thức duyên sinh chúng ta nên phân tích làm thế nào
tâm thức chúng ta nắm bắt đối tượng phủ định (
không tồn tại). Rồi thì khi đối tượng phủ định trở nên
rõ ràng hơn,
chúng ta phân tích sự
không tồn tại cố hữu (
vô tự tính) của
hiện tượng, dùng
lý trí của
tư tưởng nhận thức thông thường
ứng dụng vào những
hiện tượng này.
Chúng ta nên xử dụng những kỷ năng bổ sung này để suy tư và
khám phá những khía cạnh của
tính không và
hình sắc, không chỉ trong một ngày hay hai ngày mà
liên tục. Nếu
chúng ta làm như thế, thì có một cơ hội mà
chúng ta sẽ đi đến thấy hai điều này,
tính không và
hình sắc, như một sự bổ sung cho nhau.
Nhận thức thông hiểu quy nạp trong cách như thế là
lợi ích cao độ.
Nếu một đối tượng
tồn tại bởi chính nó mà không nương vào
tâm thức, nó sẽ phải
xuất hiện và
tồn tại trong một cách
đặc biệt. Nhưng
chúng ta thấy rằng nó
không tồn tại trong một kiểu mẫu
đặc biệt nào khi
chúng ta khảo sát nó. Sự thực rằng nó
không thật sự
tồn tại giống như điều này
sinh khởi [
độc lập] một cách
thuyết phục từ trong chiều sâu của
tâm thức chúng ta và tại
lúc ấy sự
tồn tại cụ thể của đối tượng có thể tan biến, giống như
chúng ta đã
thông hiểu một cách
chân thực tính
tự nhiên của
thực tại.
Thêm nữa,
chúng ta có thể an
trụ tâm thức
chúng ta trên sự sự
thông hiểu ấy với sự tĩnh lặng. Không có một sự
vững vàng tuyệt hảo của
tâm thức chúng ta sẽ
cảm thấy nó khó khăn để an
trụ tâm thức
chúng ta lâu dài mà không đánh mất
tiếp xúc với sự
thông hiểu mà
chúng ta đã
đạt được. An
trụ tâm thức
chúng ta một cách
nhất thời có thể
cho phép một thoáng
tính không sinh khởi, nhưng nó không thể cho những khía cạnh đa dạng của những
hiện tượng xuất hiện trong khoảnh khắc ấy. Thế nên, bằng sự
hiểu biết tính không:
Chúng ta không nắm giữ những biểu hiện của cả
Người biết và cái được biết trong
tâm thức chúng ta.
Ý nghĩa của
tính không được
giải thích ở đây. Nó nói rằng không thấy (trong cách lừa dối) là cái thấy
siêu việt. An
trụ tâm thức
chúng ta với sự
thanh thoát trên
thực tại như thế là một cách
thực hành quân bình không quán thiền tập.
Bây giờ
chúng ta có thể
lưu tâm đến sự
thực tập trụ thiền
tỉnh giác về sự
xuất hiện mầu nhiệm của những
hiện tượng.
Tác giả thảo luận chủ đề này trong sự
liên hệ đến hai đối tượng của
vướng mắc và
sân hận.
ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI BA
Đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát để
từ bỏSự
quyến luyến vướng mắc khi gặp những đối tượng
thích ý;
Vì mặc dù chúng
xuất hiện xinh đẹp, như một cầu vồng trong mùa hè,
Chúng không nên được
xem như thật sự
tồn tại.
Dịch kệ:
23. Nhìn vật đẹp như ráng trời
Khi nào gặp một vật đẹp xinh,
Hoặc
hấp dẫn vừa ý ưa nhìn,
Đừng bị lầm tưởng nó khác lạ
Hơn chi chiếc ráng trời
mùa hạ:
Dù cả hai dường như đáng yêu,
Chẳng có
thực chất sau mặt ngoài.
Tránh bị
lôi cuốn bởi
quyến dụ -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó.
Mục tiêu và
hiệu quả của việc
thực chứng tính không là
liên hệ đến những đối tượng trong một kiểu mẫu cân bằng, vì thế
chúng ta phải
tỉnh giác về
thực tại của những
hiện tượng nhầm để
đạt đến điều ấy. Một khi
chúng ta thông hiểu phương thức về sự
tồn tại của các
hiện tượng –
hình sắc lừa dối của chúng và sự thiếu vắng sự
tồn tại cố hữu (không
tự tính) – tách rời khỏi sự
tin tưởng trong
thực chất sinh khởi tồn tại của chúng.
Chúng ta sẽ không bao giờ bị
đánh lừa khi
chúng ta biết tính
tự nhiên lừa đảo của sự
xuất hiện [
hình sắc] của chúng và
liên hệ đến nó một cách
thích hợp.
Một khi
chúng ta trở nên bị
thuyết phục về
tính không chúng ta miễn cưỡng cho phép những khía cạnh đa dạng của
tinh khiết và
ô nhiễm của những
hiện tượng sinh khởi trong
tâm thức chúng ta. Những
hình sắc đưa đến sự
vướng mắc [tin vào]
thực chất của sự
tồn tại, và điều này bị thổi phồng bởi
nhận thức sai lầm, và
nhận thức sai lầm này làm tăng thêm sự
vướng mắc và
sân hận.
Thực tại những khía cạnh đa dạng của những
hiện tượng được hình thành ở đây nhầm để bác lại những
nhận thức sai lầm như thế.
Có một sự xác định về tính
tự nhiên của
thực tại trong
thời gian thiền tập quân bình,
chúng ta thấy rằng
chúng ta không
từ bỏ sự
tỉnh giác phân biệt về tốt và xấu trong
thời gian trụ thiền, khi
quán chiếu những khía cạnh đa dạng của những đối tượng. Nếu
chúng ta dựa quá nhiều chỉ trên điều tốt vì thế
chúng ta thấy không tương
xứng với điều tốt,
vướng mắc sinh khởi bị
điều kiện bởi những
nhận thức sai lầm – những
vướng mắc như thế bị
từ bỏ.
Si mê và
bám víu tại sự
tồn tại cố hữu (
tự tính)
cần hành động
với nhau nếu sự
vướng mắc sinh khởi.
đối lập chính xác của
tâm thức (
bám víu với sự
tồn tại cố hữu) là
tâm thức (có sự
tin chắc với
vô tự tính –
không tồn tại cố hữu). Nếu
năng lượng,
ảnh hưởng, và
kiên định của một sự
tin chắc như thế là hiên diện, thế thì ngay cả khi
chúng ta xuyên qua điều gì ấy
hấp dẫn lôi cuốn trong
thời gian trụ thiền
chúng ta thấy rằng đối tượng (là
xinh đẹp như cầu vồng trong mùa hè), như là
không thật sự
tồn tại. Điều này xãy ra bởi đức tính của
năng lực của
sức mạnh kiên định của
chúng ta trong sự
vô tự tính (
không tồn tại cố hữu) mà
chúng ta đạt được trong
thời gian thiền quán quân bình.
Chúng ta không thể tạo nên một khuynh hướng
tham dục đối tượng
do bởi thấy
bản chất chân thật của nó, tính
tự nhiên không
thực chất (
vô tự tính);
dần dần, trong cách này,
chúng ta vượt thắng khuynh hướng
bám víu vào
thực chất hiện hữu của những
hiện tượng. Nếu sự
bám víu không sinh khởi, sự
vướng mắc cũng không thể
tiến triển.
Thù hận và
vướng mắc là
đồng hành cố định với
si mê. Như được nói trong luận bản gốc ‘Bốn Trăm Bài kệ’:
Giống như những
năng lực cảm giác của
thân thể tỏa khắp
toàn bộ thân thể,
Cũng thế si mê hiện hữu trong tất cả những
phiền não.
Vì thế, mối
vọng tưởng sẽ
bị dập tắtBằng sự xua tan
vô minh si ám.
Điều này có thể được
giải thích bằng sự
liên hệ đến sự
thừa nhận nổi tiếng của
Nguyệt Xứng về những
phương pháp để
nhận ra những điều
tiêu cực. Nói một cách
phổ thông, có hai cách để tiến hành
vứt bỏ vướng mắc – thấy điều
xấu xa của một đối tượng khi
xinh đẹp, và thấy những đối tượng
hấp dẫn như không có sự
tồn tại chân thật. Có một sự khác nhau trong
năng lực giữa hai điều.
Thiền quán trên sự
xấu xí như một sự
đối trị đến
vướng mắc có ít
năng lực trong việc nhổ gốc
vướng mắc hơn là sự phát sinh một sự
kiên định trên
vô tự tính (không có sự
tồn tại cố hữu). Tiến hành cả hai
phương pháp là cực kỳ
tác dụng, và sự
thông hiểu thực tại trong cách này là một bước kỳ
kỳ diệu trên
con đường đạt đến niết bàn.
ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI BỐN
Những khổ đau khác nhau giống như cái chết của đứa con trai trong một giấc mơ.
Có sự chán ngắt [mệt nhọc] qua việc nắm giữ những
hình sắc huyển ảo
như thật sự.
Do thế, khi gặp những
điều kiện không
thuận lợi, đấy là sự
thực hành của
Những bị
Bồ tát để
quán sát chúng như
vọng tưởng.
Dịch kệ:
24. Nhìn điều không muốn
như huyễnBệnh khổ phải chịu
trong đời ta
Giống cái chết con mình trong mơ;
Chấp
như thật điều vốn huyễn giả
Làm phí sức
thân tâm vô bổ.
Bởi lý đó, gặp việc khó ưa
Cảnh thường tạo ra lắm khổ sầu.
Tiếp cận như chỉ là
mộng ảo -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó.
Điều này
giải thích làm thế nào để
quán sát cả đối tượng gợi thù hận và
đau khổ như một giấc mơ. Những khía cạnh khác nhau của khổ đau có thể được thấy như lừa dối và
vọng tưởng, như cái chết của đứa con trai trong
giấc mộng. Điều ấy nói rằng
chúng ta sẽ
lợi lạc một cách lớn lao bằng sự có thể chiến thắng sự
bám víu vào sự
tồn tại thực sự.
Ở đây
chúng ta đã từng
thảo luận những
phương pháp thực hành thuần túy về
tâm giác ngộ (bodhicitta). Từ giờ trở đi,
tác giả giải thích sự
thực hành của sáu điều
toàn thiện [
ba la mật].
ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI LĂM:
BỐ THÍ TOÀN THIỆNNếu cần thiết để
từ bỏ thân thể khi tìm cầu
giác ngộ,
Có điều gì
cần thiết [nữa phải] đề cập đến [đối với] việc
từ bỏ những đối tượng ngoại tại?
Vì thế, đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát là
Lòng
rộng lượng bố thí mà không
hy vọng cho phần thưởng hay sự
chín muồi công đức.
Dịch kệ:
25. Viên thí
Những bậc tận lực đến
Viên GiácThí cả thân hướng vào
mục đích;
Trước gương khôn sánh, nói làm chi
Đến thí phẩm tầm thường vật tài.
Chớ vọng cầu được đền
lòng tốtKhông nghĩ cả đắc thêm
công đức,
Dấn
thân hành thí pháp quảng đại -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này.
Điều đề cập
cần thiết được làm về
hy sinh những sản phẩm
vật chất, khi những ai hướng
đạt đến Phật quả tối thượng vì lợi ích của
chúng sinh phải được chuẩn bị để
hy sinh ngay chính
đời sống của họ?
Tuy thế, nếu
chúng ta thực hành rộng lượng bố thí với một
xu hướng bí mật để
đạt được giàu sang và
tiếng tăm, điều này được
liên hệ đến
tâm thức tìm
cầu lợi ích tự kỷ và nó không là sự
bố thí quảng đại được
thực hành bởi những vị
Bồ tát vì sự
rộng lượng của họ bị
nhiễm ô bởi sự
quan tâm cho chính mình.
Chúng ta nên
rộng rãi với khuynh hướng
duy nhất vì lợi ích cho người khác, và những kết quả
tích lũy bởi hành động
rộng rãi bố thí ấy nên được dâng hiến từ chiều sâu trái tim của
chúng ta đến
lợi lạc của những người khác. Một người
thực tập loại
rộng lượng bố thí này không
dự tính được hoàn trả cũng không để
đạt đến những kết quả
tốt đẹp chín muồi; như vậy là sự
thực tập bố thí rộng lượng bởi một vị
Bồ tát.
ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI SÁU:
TRÌ GIỚI TOÀN THIỆNNếu qua sự
thiếu sót nguyên tắc
đạo đức (
giới luật), một người không
thể đạt đến
mục tiêu của chính mình,
Thật buồn cười để muốn làm
lợi ích cho người khác. Do thế,
Đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát, những người không có
tham dụcVì sự khoái lạc trần gian, để
duy trì những nguyên tắc
đạo đức.
Dịch kệ:
26.
Viên giớiNếu thiếu nghiêm giới
điều phục hạnh
Ta không thể
thành tựu cứu cánh,
Làm sao toại
ước vọng tha nhân?
Nỗ lực vô giới,
phi lý thuần!
Trước phải bỏ
đam mê khoái lạc
Trói vào vòng luân sanh thật chặt.
Phải
gìn giữ nguyện
thọ giới trì -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này.
Dường như rằng điều này được căn cứ trên một
thông điệp của
Đại thừa Trang nghiêm Kinh (Sutra Alankara) và nội dung thiết yếu của nó.
Chúng ta cần hướng
dần dần cho một
tái sinh cao hơn nhầm để làm
lợi ích cho những
chúng sinh khác, vì không có điều ấy
chúng ta sẽ bị trở ngại trong
việc làm này. Vì
nguyên nhân duy nhất để
đạt đến thân thể của một sự
tái sinh cao hơn chẳng hạn như một
con người là hạnh kiểm
đạo đức tốt,
chúng ta phải
thực hành nguyên tắc
đạo đức (
giới luật). Thật đáng buồn cười để nghĩ về hành động vì người khác ngoại trừ
chúng ta có một
thân thể của một sự
tái sinh cao hơn – làm thế nào
chúng ta có thể làm
lợi ích cho người khác nếu
chúng ta không thể
kiểm soát hay làm chủ chính
chúng ta một cách thích hợp?
Tâm thức tự lợi hành động
thể hiện tham dục vì sự khoái lạc của cõi
luân hồi sinh tử, sự
duy trì đạo đức nhầm để tránh
tái sinh trong những
thế giới thấp hơn và để
đạt đến một sự
tái sinh cao hơn. Một vị
Bồ tát,
trái lại,
duy trì đạo đức không với những
xu hướng này mà đúng hơn là để
đạt đến sự
tái sinh cao hơn nhầm để
lợi lạc những người khác. Do thế, đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát để
chống lại những
phiền não nội tại với một
quyết tâm to lớn hơn ngay cả những thinh văn và
ẩn sĩ thực chứng hành động.
ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI BẢY:
NHẪN NHỤC TOÀN THIỆNĐến những vị
Bồ tát, những người khát vọng sự
giàu sang của
đạo đức, tất cả những người làm
tổn hạiGiống như kho tàng
quý báu. Do thế, trau dồi
Nhẫn nhục để
tự do với
thù hằn và
oán hậnĐối với tất cả là sự
thực tập của những vị
Bồ tát.
Dịch kệ:
27. Viên nhẫn
Bồ tát chú tâm hành
công đứcCầu
tích lũy thật nhiều việc tốt,
Đối đãi kẻ
phá hoại nhiễu nhương
Thử nguyện của họ, như mỏ vàng
Bởi lẽ đó, nên thôi oán ghét
Và hận sân cùng người
tác ác;
Thiền định sâu về nhẫn
kiên trì -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này.
Nhẫn nhục là sự
thực hành chính của một vị
Bồ tát. Đến
Bồ tát, người
ao ước vì
sự tích lũy những
hạt giống tốt đẹp thánh thiện, tất cả ba loại người –
thấp kém,
trung lưu, và cao cấp – những người bắt phải chịu
tổn hại, giống như nguồn cội của kho tàng
quý báu.
Tác động qua lại với họ làm cho sự
thực hành nhẫn nhục phát triển. Do thế, bởi vì điều này
Bồ tát thực hành nhẫn nhục tự do khỏi phẩn uất đối với tất cả, cả cao và thấp.
Trong
Đại thừa Trang nghiêm Kinh chúng ta tìm thấy lời
tuyên bố này: “Nhẫn nhục [
đứng đầu] trong số tất cả..”
Những
từ ngữ này là cực kỳ mạnh mẽ. Khi
chúng ta bị
xem thường bởi ai đấy trong một
vị trí của
quyền thế,
chúng ta có thể nói với người khác rằng
chúng ta đang
thực tập nhẫn nhục trong khuôn mặt nhục nhã như vậy. Nhưng thật sự
chúng ta không có sự
lựa chọn nào [khác hơn] để mà
thực tập nhẫn nhục trong
thí dụ này, vì
chúng ta ở trong một
vị trí thấp kém. Sự
thực tập nhẫn nhục,
tuy thế, là đối với những người
thấp kém hơn
chúng ta, bởi vì
chúng ta có thể trả đũa nhưng
chúng ta chọn lựa không làm như thế.
ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI TÁM:
TINH TẤN TOÀN THIỆNNếu như ngay cả một vị Thinh văn và
Độc giác Phật, hành động
vì lợi ích của chính họ,
Được thấy làm những nổ lực giống như đầu của họ bị lửa cháy,
Đấy là sự
thực tập của những vị
Bồ tát để làm
lợi ích cho tất cả
chúng sinh bằng
Cách dànhcho
hoan hỉ tinh tấn, cội nguồn của tất cả những phẩm chất
tốt đẹp.
Dịch kệ:
28. Viên cần
Nếu
Bích chi Phật và
Thanh vănMuốn tu
Niết bàn riêng
cá nhân,
Nỗ lực khôn cùng hầu
thành tựuDù bị thiêu vẫn không lìa đạo.
Thử xem bao
năng lực phải dùng
Bởi những người tu
độ tha nhân;
Giác ngộ cần thật nhiều
tinh tấn -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó
Ngay cả những vị Thinh văn và ẩn tu
thực chứng (
Độc giác Phật), những người
thực hành vì
tự lợi,
sử dụng nổ lực
tinh tấn kinh khiếp giống như đầu của họ bốc cháy. Do thế, những vị
Bồ tát người nhắm đến việc hướng dẫn tất cả
chúng sinh lang thang trong cõi
luân hồi đạt được địa vị siêu việt của
Phật quả, phải
thực hành nổ lực
hoan hỉ (
tinh tấn ba la mật) – vì đấy là nguồn gốc của tất cả những
kiến thức – một cách nhiệt tình sôi nổi hơn những bậc Thinh văn và
Độc giác.
ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI CHÍN:
THIỀN TẬP TOÀN THIỆNQua
nhận ra rằng
tịch tĩnh bất động (
thiền định) trong sự
phối hợp với
Tuệ giác nội quán đặc biệt (
thiền quán)
hoàn toàn tiêu trừ phiền não,
Đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát để
rèn luyện trong sự
Tập trung với điều
vượt trội hơn
tứ không định (
không vô biên, thức
vô biên,
vô sở hữu,
phi tưởng phi phi tưởng).
Dịch kệ:
29. Viên định
Siêu kiến hội nhập vào
tinh túy,
Hiển bày cách thật vật
hiện hữu,
Chỉ khởi ngoài
cảm xúc nhiễu phiền
Với
tâm thanh tịnh làm chân nền.
Vượt khỏi tứ
vô sắc giới địnhPhải tu đắc
nhất tâm bất loạnVà nhập vào
đại định viên toàn -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này.
Chúng ta được dạy để
thực hành tập trung thiển tập vì
mục tiêu nhỗ gốc rễ
sinh tử luân hồi, bằng việc
dựa trên tuệ trí thấu hiểu
tính không hổ trợ bởi
tâm thức tịch tĩnh bất động (định). Sự tập trung này khác với
con đường đặc trưng bởi
tịch tĩnh bất động (chỉ) và
tuệ giác nội quán đặc biệt (quán) là một phần của bốn
tình trạng tập trung của
thế giới hình sắc. Trong
phạm vi này nó
liên hệ đến loại tập trung
thiền tập thiết lập trên sự
kết hợp tuệ giác nội quán và
tịch tĩnh bất động của
tâm thức là điều
thực chứng tính không, là điều nhỗ gốc rễ
sinh tử luân hồi và vượt
xa hơn bốn
tình trạng của tập trung (
tứ không định). Vì thế, nó nói rằng
chúng ta phải
rèn luyện nhất niệm tâm trong một sự tập trung như thế nhầm đề
đạt được mục tiêu.
ĐIỀU THỨ BA MƯƠI:
TUỆ TRÍ TOÀN THIỆNĐấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát để
rèn luyện trong
Tuệ trí hổ trợ bởi
phương pháp không có
Khái niệm trong
ba cõi; không có
tuệ trí một người sẽ không thể
Đạt đến Phật quả hoàn toàn bởi
ý nghĩa của năm
toàn thiện (5
ba la mật đầu).
Dịch kệ:
30. Viên tuệ
Viên
bố thí,
nhẫn nhục,
trì giới,
Thiền định cùng
tinh tấn chưa đủ;
Nếu thiếu Viên Tuệ, năm thứ trên
Không thể đưa vào
Phật quả viên.
Với pháp
bồ đề tâm trưởng dưỡngTrí tuệ thấy
tác nhân, hành động,
Và đối thể thảy chẳng
thật hữu -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó
Thiếu
tuệ trí giống như thiếu đôi mắt để tập trung.
Chúng ta sẽ không
tiếp nhận nhiều
lợi ích ngay cả từ sự
thực tập chân thành của mọi thứ từ
rộng lượng bố thí đến tập trung
thiền định nếu
tâm thức chúng ta bị
tối tăm và không có
tuệ trí,
chúng ta cũng sẽ không tạo nên
nguyên nhân cho
giác ngộ. Do thế,
chúng ta nên phát triển
tuệ trí.
Chúng tôi không
liên hệ đến
tuệ trí đơn thuần ở đây, nhưng
tuệ trí được hổ trợ bởi
phương pháp và
phương pháp được
tiếp tục bởi
tuệ trí. Hai điều này không nên bị tách rời. Căn cứ trên hai điều này
chúng ta phải
thực tập hai
sự tích tập của
phước đức và
tuệ trí. Hổ trợ bởi
phương pháp,
chúng ta nên
nhận ra tính không tồn tại cố hữu (
vô tự tính) của người
thực hành, tự
chính hành động và người nhận hành động (
tam luân không tịch).
Thực hành tuệ trí là điều
thông hiểu tính không tồn tại cố hữu này được nói là sự
thực hành của một vị
Bồ tát.
ĐIỀU THỨ BA MƯƠI MỐT
Với (chỉ
đơn thuần)
hình dáng bên ngoài của một
hành giả, nếu một người không
Thẩm sát
lỗi lầm của chính mình, người ấy có thể hành động trong sự đối nghịch với
Giáo Pháp.
Do thế, sự
thực hành của những vị
Bồ tát là luôn luôn
Thẩm sát
lỗi lầm của chính mình và
từ bỏ chúng.
31. Đoạn lỗi
Không
nỗ lực phân tích
rõ ràngẢo cấu vương và
lầm lẫn mang,
Cho dù bên ngoài
tu tập Pháp,
Vẫn cứ hành nhiều việc
vô Pháp.
Bởi lẽ đó, nên cố xét qua
Lầm và ảo, lỗi của
chúng ta,
Rồi sau đó diệt chúng trọn cả -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó.
Sự
rèn luyện này trong
chính niệm được
giải thích ở đây cũng như trong những chương
tuệ trí và trong Hướng dẫn
Lối sống của
Bồ tát (Bodhicharyavatara).
Chúng ta phải thẩm sát những
lỗi lầm của
chúng ta, vì
chúng ta có nguy cơ hành động phi
Phật Pháp nếu không cẩn thận, trong khi
bề ngoài là một
hành giả thực hành Phật Pháp.
Thí dụ, những
tu sĩ chúng ta mang nhãn hiệu là những
hành giả Phật Pháp và trình bày một
hình ảnh như thế đến
thế giới. Nhưng thay vì thế,
chúng ta có thể
liên hệ trong những
hành vi tự nhiên không
Phật Pháp. Do vậy,
chúng ta nên
cố gắng tối đa để
từ bỏ những
sai lầm qua thấy chúng một cách
rõ ràng.
ĐIỀU THỨ BA MƯƠI HAI
Nếu qua
năng lực của
phiền não, một người sắp
bàn luậnNhững
lỗi lầm của những vị
Bồ tát khác, người ấy sẽ
thoái hóaDo vậy, không nói
lỗi lầm của những người khác
Những người ở trong
Đại thừa là sự
thực hành của những vị
Bồ tát.
Dịch kệ:
32. Không nêu lỗi người
Khi nói chuyện người,
ảo cấu lực
Khiến ta trụ trong lỗi kẻ khác,
Nếu chính
Bồ tát bị bẻ bôi
Tất
danh phẩm ta bị hư hao.
Nên chừa lỗi
nói xấu người khác
Đã vào
Đại thừa đạo
giải thoát.
Chỉ nên đề cập lỗi của ta -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này.
Những
lỗi lầm bao quát sinh ra từ việc
bàn luận lỗi lầm của những người khác. Như nói trong
Kinh Biệt Giải Thoát hay
Ba la đề mộc xoa:
Chúng ta phải thẩm sát đúng và sai trong chính
chúng ta,
Và cấp độ sự
tỉnh thức của chính
chúng ta,
Hơn là thẩm sát những
sai lầm,
Những hành động tốt và hành động xấu của người khác.
Chúng ta phải điều nghiên tỉnh trạng
tỉnh thức của chính
chúng ta. Đôi khi nó xãy ra vì
từ bi mà
chúng ta nói về những điều
đạo đức và không
đạo đức của người khác và cho dù họ
tỉnh thức hay không
tỉnh thức; nhưng chỉ chỏ những trở ngại của người khác và
che dấu những
lỗi lầm của chính mình là phi
Phật Pháp. Điều này là quan trọng một cách
đặc biệt cho những ai
thực hành Đại thừa Pháp với
niềm tin và sống trong một nơi mà những
giáo huấn này rộ nở; nếu
chúng ta vạch ra những
sa sút của người khác
chúng ta có thể đang nói một cách
vô ý thức về những vị
Bồ tát, vì có thể khó khăn để
nhận ra họ.
Bàn luận lỗi lầm của những vị
Bồ tát đưa đến sự
sa sút của những ai
liên hệ trong nói năng
tiêu cực như vậy. Những ai tiến hành trong sự
thực hành Đại thừa Pháp và không
bàn luận lỗi lầm của người khác là đang
đi theo sự
thực hành của những vị
Bồ tát.
Đại sư Je Gedun Drup cũng nói về sự
cần thiết cho một cái nhìn
tinh khiết:
Trong phổ quát,
quán chiếu sự
ân cần của tất cả
chúng sinh,
Và trong
chi tiết hãy
rèn luyện tâm thức chúng ta trong những
tư tưởng tinh khiết,
Về tất cả những ai
thực hành Giáo Pháp.
Có một
kẻ thù bên trong con; hãy
chinh phục vọng tưởng của con.
Đấy là
trách nhiệm của
hành giả Đại thừa một
cách thông thường để
nhận ra sự
ân cần tử tế của tất cả
chúng sinh và để
quán chiếu sự
ân cần ấy, giống như là không đúng khi chứa chấp những
tư tưởng vướng mắc hay thù hận.
Chúng ta phải
kiềm chế khỏi việc
tích lũy những
hành vi tiêu cực trong sự
liên hệ đến
Giáo Pháp, và tránh những hành động làm
chúng ta từ bỏ Giáo Pháp.
Chúng ta không nên
phân biệt bằng cách nói rằng: “Người ấy thuộc phái Nyingma”, “Người ấy thuộc phái Kagyud”, “Người ấy là một du sĩ” hay “Người ấy là như vậy – như vậy”. Trong
quá khứ, có câu rằng: “Những
học giả được tán thành trong sự
quan tâm cao độ bởi những nhà
học giả khác”.
Khi những
học giả thực hiện những sự
phê bình cùng những sự
thừa nhận đa dạng, họ dùng luận điểm
hợp lý và văn bản,
vì lợi ích của việc
duy trì,
bảo hộ. khuyến khích,
ủng hộ, và làm cho
tinh tế hơn
Giáo Pháp của chính họ, những điều này không phô bày ra sự thù hận hay
vướng mắc. Đúng hơn, chúng được
tuyên thuyết nhầm để làm quét đi những sự nhập nhằng và vì
mục tiêu cho
toàn bộ sự điều nghiên, giống như vàng được thử nghiệm bằng cắt, mài, và nung chảy. Nhưng nếu những
môn đệ của những
học giả ấy, chỉ
sở hữu những
kiến thức giới hạn,
liên hệ chính họ trong phê phán những người khác với sự thù hận hay
vướng mắc; nếu họ viết những bài tiểu luận để bình phẩm lẫn nhau; và nếu họ lấy làm
thỏa thích trong sự đâm sau lưng nhau, họ đang tạo nên những sự chia rẽ trong
cộng đồng của họ và những người khác sai đường
lạc lối. Những hành động
xấu xa này đem đến bằng
Giáo Pháp là nguy hiểm.
Do thế,
chúng ta nên phải
đối lập với điều này và
rèn luyện tâm thức chúng ta trong một cái nhìn
trong sạch đối với
mọi người thực hành Giáo Pháp.
Chúng ta có thể
cảm thấy chúng ta có một khả năng và sự
thông tuệ nào đấy, nhưng
chúng ta không nên kheo khoang trước những người khác;
chúng ta nên
sử dụng chúng để đáng lẻ là
chinh phục những
kẻ thù nội tại, những
vọng tưởng của
chúng ta. Đây là một lời khuyến tấn thực sự
tốt đẹp được
tuyên bố ở đây trong một
hình thức lợi ích và
hoan hỉ.
Một lần khi
đại sư Je Gedun Drup lúc đã già, ngài thốt ra một số lời
sầu muộn. Nhưng người bằng hữu với ngài: “Ngài không
cần phải cảm thấy quá khó chịu,. Sau khi
chấm dứt đời sống này, ngài
chắc chắn sẽ sinh lên
cõi trời Đâu Suất. Điều này đã được tiên đoán lâu lắm rồi.”
Đại sư trả lời: “Tôi chẳng có khuynh hướng mà cũng chẳng thiết tha được sinh lên
Đâu Suất. Nguyện ước
duy nhất của tôi là được
tái sinh trong
thế giới ô trược này vì thế tôi có thể làm
lợi ích những tạo vật không toàn hảo nhiều tối đa mà tôi có thể [hổ trợ họ].” Đây là những
ngôn từ của một vị
Bồ tát, và nó thật sự hổ trợ [khuyến khích]
chúng ta khi nghe chúng. (
Chúng tôi chú ý rằng lời nó của ngài đã được cô đọng lại ở đây một cách
tuyệt diệu).
ĐIỀU THỨ BA MƯƠI BA
Những sự
cúng dường và tặng phẩm
vật chất khiến tranh cải ở
mọi người, và làm
thoái hóaNhững hành động của lắng nghe,
quán chiếu và
thiền tập.
Vì thế đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát để
từ bỏVướng mắc đến nhà cửa của bè bạn và người
bảo trợ.
Dịch kệ:
33. Cắt
ái nhiễm quyến thuộcTranh cãi người nhà hoặc bạn bè,
Hầu được nể trọng hay vật gì,
Khiến ta không thể lắng
nghe Pháp,
Giảm sút
thiền định hoặc
tu tập.
Nguy cơ
thường trụ trong nhà thân,
Cũng như
gia đình hay bạn quen,
Buông bỏ ràng buộc vào
quyến thuộc -
Chư
Bồ tát trọn hành chẳng khác.
Điều này xãy ra
trong lịch sử của
Tây Tạng, khi những người
hoạt động chân thành cho
Giáo Pháp bị
ngăn cản và làm cho bế tắc với
xung đột chính trị. Lấy
thí dụ về
Lạt Ma Toàn Thiện Jamyang Shadpa, một vị
Lạt Ma tối thượng của tỉnh Amdo, được
xem như một
hóa thân Tổ sư Tông Khách Ba, và cũng
siêu việt như
Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva). Trong
thời gian ngài làm
trụ trì tu viện Gomang, quan nhiếp chính Sangye Gyatso, người dưới sự
che chở của Đức Đệ ngũ
Đạt Lai Lạt Ma, bị chém đầu bởi Thượng thư Lhasang. Chuyện được kể rằng, nếu
Lạt Ma Jamyang Shadpa đến vùng Tod-lung sớm hơn một chút, ngài có thể
ngăn cản việc xử trảm này. Nhưng một số người
thừa nhận rằng Lhasang là người đở đầu của
Lạt Ma Jamyang Shadpa, vì thế ngài
cố tình đi chậm lại trên đường đến Tod-lung và vì thế quá trể để
can thiệp trong
sự kiện định mệnh này.
Một việc
tương tự xãy ra trong
thời gian của Gyalwang Cho Je Thinlay Gyatso của Sera Med, ngài là
vị đạo sư
tâm linh của Sharchen Ngawang Tsultrim, và ngài ban
giáo huấn cho những ai
yêu cầu. Khi Gyalwang Cho Je bị
buộc tội bởi Desi, Sharchen Ngawang Tsultrim không nhấc một ngón tay để hổ trợ
vị thầy tâm linh của ông. Desi thật sự là người đở đầu của Sharchen Ngawang Tsultrim. Nếu sau cùng Sharchen Ngawang Tsultrim
can thiệp trong
trường hợp này, Gyalwang Cho Je sẽ không lâm vào
tình trạng khốn đốn như vậy, nhưng ông không làm gì cả.
Những vị
lạt ma lớn của những
thời gian ấy
chắc chắn có những
chương trình chính trị
của riêng họ. Họ có thể thấy có một
lý do tốt
lúc ấy để bày tỏ
thái độ như vậy, và
sai lầm có thể được thấy ở những
bảo trợ. Những
xung đột xãy ra trong họ
thường có thể quy cho
sự kiện rằng những
lạt ma đã có những
quan tâm đến những
bảo trợ bên trên những người khác. Thậm chí bây giờ, nhiều người lan truyền những
tin đồn sai lầm về hai vị
lạt ma tinh khiết, Rating Rinpoche và Tadag Rinpoche, cả hai người là
lạt ma của tôi, vì những
mục tiêu bất hảo. Những sự phao
tin đồn như thế làm
nguyên nhân khiến những người
truyền bá tin đó
tái sinh vào
cảnh giới thấp.
Người ta bị lôi kéo vào những
xung đột trong khi
cố gắng để làm
vui lòng những người
bảo trợ của họ và tìm cầu để
hoàn thành một khuynh hướng hay
đạt đến những
ưu đãi và cấp bậc nào đấy. Những hành hoạt về
Giáo Pháp như lắng nghe,
quán chiếu, và
thiền tập thoái hóa trong tiến trình,
cho phép sinh khởi băn khoăn, và
bất mãn trong chính những
hành giả và
cộng đồng ở chung quanh họ. Điều này là kết quả trực tiếp của những
bất lợi cho những
hành giả trong việc
thể hiện sự
liên hệ với một vài
gia đình và một hay hơn những người
bảo trợ và sự phát triển một mối quan hệ gần gũi với những người này. Đó là tại sao
chúng tôi được khuyến tấn trong Hướng Dẫn
Lối Sống của
Bồ Tát (Bodhicharyavatara) để “Duy trì giống như những người
bình thường.”
“Những người bạn từng quá
quen biết trong những lúc nào đấy phải
cảnh giác khi bạn gặp gở họ. Sau đó,
duy trì sự
trung lập đối với họ.”
Điều này dường như khiếm nhã, nhưng có một cơ hội tốt rằng
chúng ta cuối cùng sẽ
gặp rắc rối nếu
chúng ta theo đuổi những người
bảo trợ chúng ta như một con chó
săn đuổi ‘cục bột nhồi Glud’ [14].
Cũng có những
xung đột bè phái trong môi trường chính trị hiện nay, căn cứ trên sự thích hay không thích của
cá nhân con người. Khi
trách nhiệm quy cho những trường phái
Giáo Pháp khác nhau và họ bị
phàn nàn vì điều này và điều kia, không có gì khác nhau từ những
sự kiện trong
quá khứ và thật sự đáng
quở trách. Những
xung đột như vậy bị
xé nát bởi những ai với
xu hướng chính trị và tự nó không phải là những
xung đột của
Giáo Pháp; nhưng
tình trạng bị tệ hại khi người ta cho rằng những
hành giả Giáo Pháp bị
liên hệ trong những hành động của những nhóm chính trị.
ĐIỀU THỨ BA MƯƠI BỐN
Sử dụng những
ngôn từ thô lổ làm
phiền não tâm thức người khác và [điều đó] làm
nguyên nhân cho đặc trưng của
Những vị
Bồ tát thoái hóa. Vì thế
Đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát để
từ bỏ phi báng
Trực tiếp những người khác với những điều không thoãi mái để nghe.
Dịch kệ:
34. Không trả
thô ác ngữThô ác ngữ thốt ra khi giận
Khiến người đau và tâm động loạn;
Và ta, gắng theo
Bồ tát hànhNhận ra tu tập giảm rõ rành.
Thấy lỗi khởi từ lời thô nặng,
Người nghe quả khó ưa kỳ chướng,
Hãy bỏ lối ngược đãi cùng người -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này.
Chúng ta phải rất
cẩn thận không
thích thú, ấp ủ, say mê trong những
lời nói cay nghiệt,
thô lỗ, khó chịu bởi vì làm như thế là bất hảo.
ĐIỀU THỨ BA MƯƠI LĂM
Những tập quán
phiền não là khó để
đảo ngược với thuốc giải.
Vì thế đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát để
tiêu trừ phiền não,
Chẳng hạn như
vướng mắc và những thứ khác, ngay khi chúng
xuất hiện,
Bằng sự mang gươm
giải độc của
chính niệm và
nội quán.
Dịch kệ:
35. Trừ tập quán xấu
Loại hành xấu chóng thành tập quán
Một khi quen cùng hạ tầng tâm;
Nỗ lực tinh chuyên rất cần đến
Tạo đối lực chống các trược nhiễm.
Võ trang bằng
tỉnh thức, hồi niệm
Tấn công ngay trược nhiễm như tham;
Trừ cái chướng ngăn ngại
tiến bộ -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó
Đoạn kệ này dùng như một
ẩn dụ để
giải thích làm thế nào những
hành vi tiêu cực có thể
gia tăng qua sự
quen thuộc của
chúng ta với chúng và làm thế nào sau đó chúng trở nên nguy hiểm và khó khăn để chiến thắng qua sự
sử dụng thuốc giải độc.
Chúng ta phải thổi tắt ngọn lửa khi nó nhỏ nhoi; hay, như
lời nói xưa,
chúng ta phải đắp đập chặn dòng nước khi chúng chỉ
đơn thuần là một dòng suối nhỏ.
Câu chuyện ngụ ngôn
so sánh con người với
chính niệm và thuốc giải với vũ khí rằng
con người thường có thể
tiêu trừ những việc
tiêu cực, chẳng hạn như
vướng mắc và v.v…, ngay khi
chúng sinh khởi.
Tiến trình tấn công những
hành vi tiêu cực này như
vướng mắc trong những mức độ
trứng nước của chúng cũng được
bàn luận trong Lược giải về Tám
Đề Mục Chuyển Hóa Tâm của Geshe Langri Thangpa:
“Trong mọi hành động, nguyện cho tôi
tìm kiếm trong
tâm thức của tôi, ngay khi những
phiền não hay
vọng tưởng sinh khởi, những thứ làm nguy hiểm chính tôi và những người khác, nguyện cho tôi
đối diện với chúng
ngay lập tức và phá tan chúng.”
Từ đây về sau luận bản
phát biểu theo cách này:
ĐIỀU THỨ BA MƯƠI SÁU
Tóm lại, bất cứ nơi nào một người ở và bất cứ
thái độ của một người ra sao,
Người ấy nên luôn luôn
sở hữu chính niệm và
nội quánĐể trắc nghiệm những
điều kiện tâm thức của người ấy. Trong cách ấy,
Đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát để
hoàn thành lợi ích cho những người khác.
Dịch kệ:
36.
Tỉnh thức luôn
Nói tóm, điều gì ta hành xử
Trong duyên hay cảnh nào gặp gỡ
Đều phải bằng lực
tỉnh giác luôn
Hiểu
trọn vẹn trạng thái của tâm.
Phải có
tỉnh thức và hồi niệm,
Giúp tập trung, sẵn sàng
phục vụ,
Ta hành cho
phúc lạc chúng sanh -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này.
Tâm thức của
chúng ta dễ
ảnh hưởng đến
chúng ta và vì thế
chúng ta nên
trạng thái của nó ở khắp
mọi nơi và khắp mọi lúc.
Chúng ta nên khảo sát để thấy hoặc là một
tư tưởng không
thích đáng khởi lên,
đặc biệt một
tư tưởng ẩn chứa
bệnh hoạn, hay hoặc là
chúng ta đang
đạo đức giả - nói một đàng, nghĩ một nẽo – và cũng hoặc là những hành động của thân là thiện hay
bất thiện.
Nếu
chúng ta phát hiện một hành động nào đó
tiêu cực,
chúng ta nên nhắc nhở
chúng ta rằng, “con có một niểm tin và sự
thành tâm nào đấy
mong manh trong
giáo lý Đại thừa và đã từng sinh ra trên vùng Đất
Tuyết Sơn nơi có sự hợp nhất của
kinh điển Đại thừa và
Giáo Pháp Mật thừa tantra; con nương tựa trên nhiều
vị đạo sư, đã từng
lãnh thọ sự
truyền pháp khẩu truyền và được
trang nghiêm với những sự hướng dẫn và
giải thích kinh luận từ những
học giả luận sư Ấn Độ vĩ đại. Nếu bất chấp điều này con
xử sự tệ hại, không
nghi ngờ gì nữa con sẽ làm
thất vọng tất cả những vị
Bồ tát phi thường.”
Chúng ta nên
gánh vác lấy
trách nhiệm với chính mình trong cách này. Hãy
cố gắng luôn luôn
duy trì chính niệm và
tận tâm chu đáo trong nổ lực này.
Trong Hướng Dẫn
Lối Sống Bồ Tát, nói rằng:
Này bạn người
ao ước bảo vệ tâm thức mình,
Tôi
cầu khẩn người với đôi tay búp sen:
Hãy luôn luôn
sử dụng sức mạnh của mình để
duy trìChính niệm và tỉnh giác!
Chúng ta nên
dùng sức mạnh của mình trong
chính niệm và,
giữ gìn sự
chính niệm này,
hoàn thành tối đa như có thể trong cung cách hành động vì người khác.
Tóm lại,
chúng ta nên
hy sinh thân thể,
sở hữu, và tất cả những hành động
tốt lành của mình
vì lợi ích của người khác, và hiến tặng tất cả những khả năng của ba cánh cửa thân, khẩu, ý
vì lợi ích của tất cả các tạo vật
chúng sinh, không tìm cầu hay
phản chiếu trên bất cứ điều gì khác hơn những gì được
giải thích ở đây. Sau đấy
chúng ta nên
phát nguyện dâng cúng
hồi hướng.
ĐIỀU THỨ BA MƯƠI BẢY
Đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ tát để dâng hiến
đạo đứcĐạt được bằng
sự cố gắng trong cách này đến
Giác ngộ,
Nhầm để loại trừ khổ đau của
vô lượng chúng sinh lang thang trong cõi
luân hồiVới
tuệ trí của sự
thanh tịnh nơi
ba cõi (cõi
vô sắc, cõi sắc, cõi dục).
Dịch kệ:
37.
Hồi hướng trọn
công đứcMọi
công đức tích từ
nỗ lựcĐưa vào
tu tập đạo
thiện đứcTa hành hầu
giải thoát khổ đau
Của
vô lượng bà mẹ nhiều đời,
Trọn
hồi hướng cho họ
thành Phật,
Với
tuệ kiến, tha
ngã không thật
Lẫn
công đức, thảy chẳng phải chân -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này.
Chúng ta nên đem tất cả những
hành vi tốt đẹp
lành mạnh mà
chúng ta đã
hoàn thành qua những nổ lực
tinh tấn chân thành của
chúng ta theo Ba Mươi Phầm
Trợ Đạo Giác Ngộ của
Bồ tát, và đúng hơn là
hồi hướng dâng hiến tất cả những
thiện nghiệp đến sự
trường thọ và
tự tại của chính
chúng ta khỏi bệnh tật, và
chúng ta nên dâng hiến chúng đến
vô lượng,
vô biên chúng sinh lang thang trong cõi
luân hồi những người đã rơi vào khổ đau. Trong cách này
chúng ta hồi hướng những
công đức tích cực của
chúng ta để hổ trợ những người khác loại trừ khổ đau cũng như
nguyên nhân của khổ đau, với
kiến giải từ
tuệ trí của
chúng ta về
vô tự tính của người dâng cúng, hành động dâng cúng, và người nhận sự dâng cúng (
tam luân không tịch). Từ quan kiến này, như được nói,
chúng ta nên
tiến tới và
phát nguyện hồi hướng.
Điều này được bao hàm trong luận bản. Bây giờ
chúng ta đem
toàn bộ đến một
kết luận:
Tôi
biên soạn Ba Mươi Bảy Phầm
Trợ Đạo Giác Ngộ của
Bồ Tát cho những ai
Nguyện ước
thực hành theo
con đường Bồ tát, qua
Việc tôntrọng
triệt để những
lời nói của những
chúng sinh cao thượng
siêu phàm quan tâmĐến những
phương tiện liên hệ trong
kinh điển,
mật điển tantra và những
luận giải.
Luận bản này được nói là
liên hệ với cội nguồn của
kinh điển và
mật điển tantra.
Tác giả nói rằng ngài đã
miêu tả sinh động ở đây
ý nghĩa được
giải thích trong
kinh điển,
mật điển tantra, và những
luận giải, theo những hướng dẫn được ban bố bởi những
tiền bối tôn kính của
chúng ta trong những
phương pháp của Ba Mươi Bảy Phẩm
thực hành của
Bồ tát. Những điều này được
thực hành ngày qua ngày
trong đời sốn bởi những ai có khuynh hướng
rèn luyện trong
con đường của
Bồ tát.
Bởi vì tôi có sự
thông tuệ thấp thỏm và học vấn ít ỏi,
Đây không là một
sáng tác thơ văn làm
hài lòng những
học giảTuy thế, khi tôi đã
dựa trên kinh điển và lời dạy của những bậc
siêu phàm,
Tôi nghĩ luận văn này tự
giảng giải một cách không thể tranh cải.
Ở đây nó
giải thích rằng luận văn này có một nguồn gốc
rõ ràng. Ngài nói rằng ngài thiếu
kiến thức bẩm sinh và phẩm lượng nhỏ nhoi một cách
tương đối về
nghiên cứu làm cho ngài không
đủ khả năng đề hùng biện, những
từ ngữ hay
thành ngữ tiêu biểu để làm
vui lòng những bậc
học giả.
Tuy thế, ngài đã diến tả ở đây
quan điểm của
kinh điển,
mật điển tantra bắt nguồn từ những lời dạy của những bậc tối
thánh thiện, và vì thế ngài
tin tưởng điều này sẽ là những điều
thực hành không thể tranh cải được của những vị
Bồ tát. Dường như rằng ngài nói điều này ở đây nhầm
mục tiêu giản dị cũng như khiêm tốn.
Tuy thế, bởi vì khó khăn cho những người như tôi,
Thông tuệ thấp thỏm,
thăm dò những chiều sâu những sự
thực tập của những vị
đại Bồ tát,
Tôi
thỉnh cầu những bậc cao nhân
tha thứ cho tôi
Vì
lỗi lầm đầy dẫy, như những mâu thuẩn và sự rời rạc.
Như ngài nói, nếu có bất cứ những
thông điệp nào mâu thuẩn những chỗ dường
như không liên hệ giữa những sự trình bày trước và sau, hay nếu có một số
giải thích không
cần thiết, ngài
thỉnh cầu những bậc
học giả bao dung cho những
thiếu sót này. Ngài
thỉnh cầu họ hãy có nhẫn nại và bỏ qua tính
hãnh diện của ngài trong cách này.
Tiếp theo ngài
hồi hướng những
việc làm thánh thiện của ngài.
Qua những
đạo hạnh sinh khởi từ điều này, nguyện cho tất cả
chúng sinh,
Bằng những
phương tiện của
tâm thức siêu việt và trần gian của sự
Giác ngộ,
Trở thành như đấng
Thủ Hộ Quán Tự Tại, người không ở trong
Những
cực đoan của cõi
luân hồi và sự
cứu độ tịch tĩnh [tự độ].
Vì thế, Ngulchu Gyalsas Thogmed dâng hiến bất cứ
công đức tốt lành nào mà ngài có được qua việc
sáng tác luận văn này đến tất cả
chúng sinh, và nguyện ước họ có thể phát sinh
tâm giác ngộ tương xứng và vô
điều kiện. Ngài nguyện ước rằng điều này có thể làm phát sinh trong họ
một lần nữa nếu
hiện tại không
sẳn sàng và
tâm giác ngộ có thể được
tăng tiến xa hơn nếu đã phát sinh rồi. Bằng
đạo đức của sự phát sinh như thế,
tâm giác ngộ
kiên cố sẽ
mang đến sự
chấm dứt những
cực đoan của cõi
luân hồi sinh tử, trong khi
tâm giác ngộ tương xứng loại trừ
cực đoan cứu độ vì chính
cá nhân mình mà thôi. Bằng sự không dừng lại trong cõi
luân hồi cũng không
cứu độ tự mình mà thôi,
chúng ta đạt đến đại bát niết bàn hay sự
giác ngộ tối thượng, như được hưởng bởi
đạo sư tâm linh Quán Tự Tại. Đây là sự
thỉnh cầu hay dâng hiến
tinh thần của
tác giả.
Kệ văn này được
sáng tác trong hang động Ngulchu bởi người
duy trì những luận lý (logic) và luận văn là
tỳ kheo Vô Trước (Asanga), vì
tự lợi và
lợi tha. Lời thình cầu được
ban cho sự
bảo trợ việc in ấn
tác phẩm này đọc như sau:
“Lòng tha thiết và
hấp dẫn của
tâm giác ngộ (bodhicitta) là
căn bản và
cốt lõi của
Đại thừa. Bằng
năng lực của những hành động
đạo đức và in ấn
tài liệu này
xuất phát từ nguyện ước
chân thành để làm
lợi ích cho những người khác, nguyện cho
giáo huấn của
Đức Phật toàn thiện toàn giác toàn tri được lan tỏa.
Giáo huấn siêu việt này là sự
phối hợp của
phương pháp và
tuệ trí mà nó chứa đựng sự
giải thích theo đúng nguyên văn và sự
thực chứng tâm linh được
giảng giải chi tiết bởi đức
Tổ sư toàn hảo
Tông Khách Ba. Nguyện cho những ai sống trong bất cứ nơi nào của
thế giới cùng sự
thủ hộ,
duy trì, và khuyến khích
giáo huấn này được thấy tất cả những nguyện ước của họ tất nhiên tự phát sinh, và nguyện cho họ
tiếp tục sống
cho đến hết
thọ mạng.
“Hơn thế nữa, nguyện cho những nguyện ước trần gian tạm bợ cùng nguyện
ước cơ bản
xuất trần của Dorje Tsewang cao thượng,
gia đình của ông và
toàn thể chúng sinh được
hoàn thành trọn vẹn, nguyện cho họ
du hành không
chướng ngại đến lãnh địa của
ba thân Phật.”
Bằng sự
cúng dường tượng trưng về thân, khẩu, ý, nhà
bảo trợ Dorje Tsewang đã
thỉnh cầu những người khác hãy
hồi hướng đến những người
bảo trợ cho việc in ấn
tác phẩm này. Do thế, bắt nguồn từ tình cảm của Dewa Rinpoche, Lhatsun Tulku, đã viết
lời nguyện cầu
hồi hướng này bày tỏ
lòng biết ơn.