BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO GIÁC NGỘ
Luận Giải
Nguyên tác: Commentary on The Thirty Seven Practices of a Bodhisattva – 1995
Luận giảng: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh ngữ: Nyima Tsering
Hiệu đính: Vyvyan Cayley và Mike Gilmore
Chuyển kệ: Linh Thùy
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 22/10/2000
NGÀY THỨ NHẤT
MỞ ĐẦUChúng ta tập hợp cùng nhau ở
Đạo Tràng Giác Ngộ để tiến
hành nghi thức
truyền pháp Thời Luân (Kalachakra). Quý vị đã đến từ nhiều
nơi khác nhau
do nơi lòng thành tín. Trên những
phương tiện vận chuyển
nghèo nàn mà quý vị đã phải
chịu đựng trong một
hành trình nhọc nhằn, nhưng quý vị đã quên đi điều ấy để tập hợp ở đây.
Chúng ta sẽ
thực hiện đại nghi thức
khai tâm truyền pháp sau này. Nhưng trước nhất, có nhiều người ở đây chỉ có một lòng
tín ngưỡng đơn thuần trong
Pháp Bảo mà không có một sự
thông hiểu thực sự về
Giáo Pháp. Họ không có
kinh nghiệm về nghe và lắng nghe
Giáo Pháp, và
vì vậy không biết
ý nghĩa thật sự của nó. Trong
thời gian lễ
khai tâm truyền pháp sẽ không có
thời gian dành cho một sự
giải thích dài dòng. Do thế, nếu
chúng ta để
thời gian này
lãng phí, không có điều gì
tốt lành được
hoàn thành đáp lại cho sự khó nhọc và tổn phí
liên hệ đến việc tập họp về
Đạo Tràng Giác Ngộ của quý vị nơi đây.
Mục tiêu sự tập họp
của quý vị nơi đây để lắng nghe
Giáo Pháp và
tiếp nhận lễ
truyền pháp nhầm
mục đích chuyển hóa tâm thức của quý vị. Vì cung cách
suy nghĩ là
nguyên nhân chính để
đạt đến, và
điều kiện để
duy trì, một
tính cách tích cực của
tinh thần. Trong một vài
trường hợp ngoại lệ một tính tính cực
hiện hữu bẩm sinh trong
tâm thức, nhưng điều này rất hiếm hoi. Do vậy, có thể là rất
ích lợi nếu
chúng tôi dành một ít ngày đầu tiên để
giải thích những
ý nghĩa tổng quát của
Giáo Pháp.
Chúng tôi cảm thấy rằng nên gởi đến (
thỉnh thoảng) những lúc tuy ngắn ngủi nhưng
thích thú vì thế tất cả
chúng ta không
cảm thấy mệt nhọc.
Hôm nay
chúng tôi sẽ bắt đầu sự
giải thích tổng quát này, trong
trường hợp đặc biệt chúng tôi sẽ
bao gồm một sự
giới thiệu đến
giáo huấn Đại Thừa.
Chúng tôi sẽ giảng dạy bằng
truyền khẩu Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ được
sáng tác bởi Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo, là những điều trình bày những hướng dẫn thiết yếu cho sự
thực hành của
Bồ Tát.
Luật Tạng nói rằng khi lắng nghe
Giáo Pháp chúng ta không nên ngồi trên ghế hay đứng, cũng không mang giày, đội nón hay quấn khăn, cũng không mang vũ khí hay che dù. Một
trường hợp ngoại lệ có thể
cho phép được làm đến một vài điều trong những điều này ấy là
sự kiện bệnh hoạn.
Đức Thế Tôn nói, trong
giới luật của
Giáo Pháp:
Nếu xãy ra
trường hợp người bệnh phải bán tất cả những đồ
trang hoàng của
hình tượng Đức Phật,
luận giải và
kinh điển để
tồn tại, thế thì họ nên làm như thế
Điều ngoại lệ này được chế nên bởi vì
Phật Pháp căn bản trên
lòng từ bi
yêu thương.
Thực tế,
từ bi yêu thương là gốc rễ của
Phật Pháp. Do thế, điều này được
áp dụng ngày hôm nay ở đây. Mặc dù
con người chúng ta chưa bị bệnh, nhưng có nguy cơ rằng họ sẽ ngã bệnh bởi vì
mặt trời như thiêu đốt. Do vậy, (
mọi người) được phép đội nón hay che dù.
Tương tự như thế, những
tu sĩ nào không có nón có thể dùng một phần của y áo để che lên đầu của họ.
Sự
cải thiện điều kiện vệ sinh phải được
quán chiếu thích hợp tốt đẹp đến
thời tiết và một thái đội
thích nghi tốt
tùy theo điều kiện từng
quốc độ, nơi chốn và khí hậu. Những ai đã đã vượt thắng bốn
yếu tố nội tại không phải
lệ thuộc và những
yếu tố ngoại tại. Nhưng vì
chúng ta chưa khắc phục được những
yếu tố nội tại
chúng ta nên hành động
tùy theo với cường độ của
năng lực ngoại tại.
Trước khi
giảng pháp trong
truyền thống của
chúng tôi,
chúng ta trì niệm chân ngôn mantra đề ngăn chặn hay nhổ gốc rễ
bất thiện, và cũng trì tụng
Tâm Kinh Bát Nhã để
tiêu trừ chướng ngại. Đây là bởi vì
chúng ta không có
kinh nghiệm với những
trở lực kết quả từ những
năng lực bất thiện hay từ những ai đã hướng dẫn những người khác
lạc đường trong khi lắng nghe và
thuyết giảng Giáo Pháp. Hôm nay
chúng ta sẽ trì tụng
Tâm Kinh Bát Nhã để tịnh hóa
ám chướng và sau đó
chúng tôi muốn khởi đầu những lời
cầu nguyện bằng việc trì tụng
nghi lễ cúng dường Văn Thù Sư Lợi ba lần; rồi thì
chúng tôi sẽ bắt đầu
thỉnh cầu đến Ngài
Văn Thù Sư Lợi.
Ô Đấng
Từ Bi, bằng những tia
quang tuyến từ tâm toàn thiện toàn giác toàn trí…
Rồi thì
chúng ta cúng dường thỉnh cầu đến
mạn đà la và sau khi
hoàn tất mạn đà la này, nhầm
mục tiêu hợp nhất
động lực của
đạo sư và
đệ tử,
chúng ta phải tiến đến trì tụng
cầu nguyện quy y ba lần, và phát sinh tâm
vị tha.
Cầu nguyện quy y là:
Con nguyện
quy y Phật bảo, Pháp bào, và
Tăng bảo cho đến khi
đạt đến giác ngộ.
Chúng ta tiến hành
quy y với hai dòng này. Sau đó,
chúng ta thường thường hồi hướng công đức mà
chúng ta tích tập qua tính quãng đại và lắng nghe và giảng dạy
Giáo Pháp. Người
thuyết giảng trì niệm, “Công đức mà con tích tập qua việc giảng dạy…” và
thính chúng trì niệm, “Công đức mà chúng con tích tập qua lắng nghe Giáo Pháp…” vì thế thay đổi
ngôn ngữ tùy theo trường hợp.
Chúng ta cũng nên
bao gồm việc
hồi hướng này: “Với
công đức lành này, nguyện cho tất cả những
hành vi lành tích tập được của ba thời
trở thành nguyên nhân để
đạt được thể trạng
tối thượng của
giác ngộ.” Đây là đang
phát khởi tâm giác ngộ (bodhicitta) trong
hình thức của khẩn thỉnh hay nguyện cầu.
Tất cả quý vị đã
thiết lập một
chí nguyện mạnh mẽ để đến
Đạo Tràng Giác Ngộ vì những
giáo lý này. Quý vị không đến đây để nghĩ về
thực phẩm hay
thức uống được
cung cấp cho quý vị, cũng không phải vì một tiết mục lớn được xem ở đây, cũng không phải vì đến đây quý vị sẽ được
danh thơm tiếng tốt. Quý vị đến đây để
tiếp nhận những
giáo huấn Pháp Bảo,
bao gồm những
giáo lý của
Đại Thừa, Mật Thừa tantra, tantra yoga
tối thượng, và lễ
truyền pháp quán đảnh Quang Hoa Thời Luân (Kalachakra) của
Đức Thế Tôn. Do thế, quý vị đã đến đây vì một
mục tiêu tốt đẹp và đã đặt một nổ lực không mõi mệt để
tiếp nhận những
giáo huấn Pháp Bảo này. Nếu ai đấy ở ngoài từ bên ngoài
quán sát điều này, họ có thể cho rằng tất cả những nổ lực này là ở trong sự
phù phiếm hão huyền. Nhưng khi
chúng ta nhìn vào
mục tiêu và
lý luận tiềm ẩn, nó cực kỳ
lợi ích.
Ngay cả nếu quý vị không
từ bỏ đời sống trần tục này để
theo đuổi Giáo Pháp, hãy làm một nổ lực như điều này
biểu lộ rằng một sự hy hiến được tiến hành
vì lợi ích của
Giáo Pháp và là một dấu hiệu
quyết định mạnh mẽ. Điều gì là
mục tiêu phía sau nổ lực không mệt mõi và một
quyết định mạnh mẽ như thế?
Mục tiêu, hay
lợi ích, và
căn bản của việc tìm cầu
Giáo Pháp đấy là tất cả
chúng sinh cùng chia sẻ một
cảm giác của “cái tôi” và ước ao khao khát
hạnh phúc và hòa bình, cũng như là một khát vọng xa lánh đau buồn và khỗ não.
Loại
cảm giác này được
kinh nghiệm ngay cả bời một con côn trùng nhỏ bé. Trong
trường hợp của
nhân loại,
chúng ta có thể thấy rằng cho dù người đến từ phương Tây, Đông,
trung nguyên hay
biên địa của xứ sở họ và cho dù làn da của họ là đen, đỏ, vàng hay trắng, tất cả đều tìm cầu
hạnh phúc và xa lánh đau buồn.
Trong tâm tư
chúng ta có thể bày tỏ một
suy nghĩ, “Xin cho tôi có
hạnh phúc,” mặc dù
chúng ta không hiểu
cảm giác này của “cái tôi” một cách
rõ ràng. Trên cơ sở
kinh nghiệm của “cái tôi”,
chúng ta đã từng nghĩ chẳng hạn như, “Xin cho tôi
hạnh phúc; xin cho tôi đừng gặp khó khăn, xin cho tôi sống lâu và đừng chết; xin cho tôi có
một đời sống
tốt đẹp với
vô số thực phẩm và áo quần.” Vì thế mọi thứ
trở về lại ‘cái tôi’. Sau đấy,
chúng ta nghĩ về
thân quyến ‘tôi’, xứ sở ‘tôi’.
Điều này giống nhau ở mỗi
con người, và cũng đúng cho tất cả mọi tạo vật
cho đến một con côn trùng bé nhỏ. Chúng không có một
tâm thức rộng rãi và
thông minh, chúng cũng không
sở hữu một
tư tưởng đa dạng mà
con người chúng ta có.
Tuy nhiên, chúng
vẫn có một
cảm giác của ‘cái tôi’ và chúng có thể
cảm thấy. “Xin cho tôi
hạnh phúc,” hay “Tôi đang trong
tình trạng nguy cấp, xin cho tôi được
thoát khỏi cơn nguy biến này,” Do thế, tất cả
chúng sinh cùng nguyện vọng giống nhau,như khao khát cho
hạnh phúc và không muốn khổ đau. Có những nguyện vọng này là
quyền lợi của
chúng ta, nó là
hợp lý, và chúng
thường có thể được
hoàn thành.
Chúng ta dựa trên những
phương pháp khác nhau để
theo đuổi những
mục tiêu này, để
thích ứng với
năng lực của
chúng ta và để
đối phó với nhiều
trình độ khác nhau của khổ đau để chúng được
tiêu trừ và
hạnh phúc được
đạt đến.
Hạnh phúc và khổ đau có thể
tùy thuộc trên
thân thể hay
tâm thức. Hơn thế nữa, chúng có thể
tùy thuộc trên
thân thể hay
tâm thức ngắn hạn hay dài hạn; không chỉ trong kiếp sống này mà cũng trong kiếp sống tới.
Cho đến khi nào
đời sống này còn
hiện hữu và
quan tâm,
chúng ta có thể
phản chiếu trên những
lợi lạc từ
tuổi thơ cho đến tuổi già; trong những
hình thức của của giây phút
hiện tại,
chúng ta có thể nghĩ về những
lợi ích dài hạn
liên hệ đến hôm nay và ngày mai.
Mặc dù côn trùng có những suy tư về
hạnh phúc và khổ đau
tương tự như
con người, khả năng tìm cầu
hạnh phúc và
loại bỏ khổ đau của chúng thì tạm thời và trải ra một khoảng
thời gian ngắn ngủi. Chúng không thể
suy nghĩ về tương lai xa xôi trong những
hình thức như 5, 10, hay 30 năm tới cũng không thể nhớ lại thời
thơ ấu của chúng. Nhưng những
con người chúng ta suy nghĩ việc
hoàn thành hạnh phúc và khử trừ khổ đau không chỉ cho hôm nay, ngày mai và ngày kia, mà
xuyên qua toàn bộ đời sống của
chúng ta.
Chúng ta cũng nhìn
xa hơn chính
chúng ta để suy tư về
hạnh phúc của
thân quyến và bè bạn của
chúng ta,
xa hơn nữa là xứ sở
chúng ta và toàn
thế giới.
Do thế, tìm cầu
hạnh phúc và loại trừ khổ đau
liên quan đến sự
hiện hữu những khả năng khác nhau trong nhiều phương thức khác nhau. Một số người
hoàn thành những việc to lớn và những người khác kém hơn. Nói một cách phổ quát,
so sánh với
động vật con người chúng ta có một
phạm vi rộng rãi về những loại
hạnh phúc mà
chúng ta cố gắng để
đạt đến và khổ đau
chúng ta cố gắng để loại trừ. Từ thời điểm
con người hình thành
cho đến nay,
chúng ta đã dành
đời sống chúng ta để
theo đuổi những khuynh hướng này, mặc dù
chúng ta có
thể không thức tỉnh rằng
chúng ta đã
liên hệ trong một sự
theo đuổi như thế từ
thời khắc lọt lòng mẹ. Trãi qua
thời gian thơ ấu chúng ta có thể có
kinh nghiệm một số
hạnh phúc tạm thời náo đấy, những điều mà sau này
chúng ta tìm kiếm giống như thế.
Thí dụ,
chúng ta có thể đã từng
nói dối một điều nho nhỏ nào đấy, chẳng hạn như để đón nhận những lời ngọt ngào hay quà cáp, và
chúng ta liên hệ chính mình
hoàn toàn trong một
mục tiêu nhỏ bé như vậy nhầm
mục tiêu kinh nghiệm một
hạnh phúc nho nhỏ và để tránh một khổ đau be bé.
Dần dần, khi
chúng ta lớn lên, khổ đau và
hạnh phúc của
chúng ta trở nên to lớn
rộng rãi hơn và sâu sắc hơn và những khó khăn hơn cũng
sinh khởi.
Phương pháp quan trọng nhất để tìm cầu
hạnh phúc và loại trừ khổ đau là
gia tăng kiến thức, và vì thế
chúng ta làm nên
chương trình qua việc
thành lập trường học. Và trong những trường học này, nhiều
môn học khác nhau được giảng dạy,
bao gồm những
ngôn ngữ.
Ngôn ngữ bao gồm nhiều
từ ngữ và chuyên chở nhiều
ý nghĩa trên nhiều
chủ đề khác nhau.
Tâm thức quản lý tất cả những điều này phải là rất sắc bén và có thể
suy nghĩ trong nhiều cách khác nhau;
chúng ta đưa ra một nền
giáo dục chính xác nhầm
mục tiêu phát triển những bộ não mà chúng là hàm tàng những tâm tư
rộng rãi khoáng đạt như thế.
Cũng có những khổ đau của
thân thể mà
chúng ta cố gắng để tránh. Những bệnh viện đã được
thành lập để chửa trị nhiều bệnh tật khác nhau. Giống như thế,
mục tiêu của ăn, uống, làm việc – cho dù nó là công việc đồng áng, hảng xưởng nhà máy hay bất cứ điều gì – cũng là để tìm cầu
hạnh phúc và loại trừ khổ đau. Trong
thế giới ngày nay,
chúng ta tìm ra toàn bộ phạm vi của những phong tục và
hệ thống,
tình hình và chính sách,
tiêu chuẩn tiền tệ và
quan điểm,
tuy thế tất cả có cùng khuynh hướng tìm cầu
hạnh phúc và loại trừ khổ đau và
đơn giản là những
phương diện và
phương pháp khác nhau.
Trong những điều này, những
quan điểm khác nhau đã hình thành bời vì
con người bắt đầu
khám phá vấn đề này một phần nào đấy sâu sắc hơn. Nhiều
phương pháp khác nhau nhầm
mục tiêu mang đến hạnh phúc và loại trừ
khổ não đã được
thiết lập như kết quả của việc
khám phá phân tích như thế. Một trong những điếu ấy là sự hình thành đảng Cộng Sản. Những người Cộng Sản nói rằng
nguyên nhân chính của khổ đau
nhân loại loại là sự bất
bình đẳng về tài sảncủa những khu vực hay
giai cấp trong
xã hội.
Vì vậy, sự phân phối lại
tài sản là
phương pháp mà những người Cộng Sản hành động nhầm
mục đích mang lại
hạnh phúc cho
nhân dân và loại trừ khổ đau cho họ. Đây chỉ là một
quan niệm.
Trong tất cả những
quan điểm hiện hữu, có những thứ không chỉ dừng tại sự
khám phá đơn thuần những
phương pháp để
mang đến hạnh phúc tạm thời và
giải thoát khổ đau ngắn hạn. Những người chủ trương những
quan điểm này bắt đầu bằng việc
khám phá nguyên nhân và
điều kiện tạm thời này,
quán sát sự
sinh khởi của những
nguyên nhân và
điều kiện tạm thời này và rồi thì tại
nguyên nhân của
nguyên nhân, và
nguyên nhân của
nguyên nhân ấy, và
tiếp tục, giống như
liên kết của một dây xích. Bằng sự
suy nghĩ và khảo sát sâu
sắc chúng ta đi đến
quan điểm của
Giáo Pháp.
Chúng ta có thể
quán chiếu nhiều khía cạnh khác nhau của khổ đau và
hạnh phúc – làm thế nào những khổ đau này đến với
chúng ta; làm thế nào đế
hạnh phúc phát sinh trong một
ý nghĩa rộng lớn; làm thế nào và từ nơi nào mà
thế giới này đi đến hình thành
hiện hữu và
tùy thuộc vào
nguyên nhân nào;
mục tiêu và
lợi ích gì của
đời sống trong
thế giới này (vì cho dù có
lợi ích hay không,
thế giới vẫn hình thành
hiện hữu căn cứ trên sự
tồn tại trước đây của nó); tương lai sẽ là gì, và
cá nhân có thể làm gì về nó, và
chúng ta nghĩ gì về nó. Hãy
suy nghĩ một cách
xây dựng về
ý nghĩa của những điều này rằng
chúng ta không chỉ
tùy thuộc vào những gì
chúng ta thấy bằng cặp mắt của
chúng ta và nghe qua đôi tai của
chúng ta, mà
chúng ta phải tiến sâu hơn vào trong
chủ đề.
Một số người quy cho sự
hiện hữu của
thế giới và
nhân loại là do
Thượng Đế, và nói rằng đây là tất cả
sự tạo dựng của Ngài. Có nhiều sự
giải thích khác xa điều này, cũng có một số căn cứ trên
lý luận một số thì không. Do thế, một số người cho ra đời những
triết thuyết với lời
tuyên bố rằng, “Điều này là
hợp lý điều đó là không
hợp lý,” trong khi những người khác không có những
tư tưởng thâm sâu như thế nhưng dành hết
đời sống của họ có được cho một cuộc sống,
dựa trên trên
hạnh phúc tạm thời và xa lánh tạm thời khổ đau. Trong hai loại người này, một là loại mang trong mình một
triết thuyết và thứ đến là loại không nghĩ đến một chủ thuyết nào. Trong những người mang lấy
triết thuyết lại có hai loại, những người mang chủ thuyết về ngoại tại (không
Phật Giáo) và
quan điểm nội tại (
Phật Giáo).
Khi
đối diện với
vấn đề sâu sắc này, làm thế nào để đạt
hạnh phúc và
tiêu trừ khổ não, trong việc
liên hệ với
thân thể chúng ta có thể thấy rằng đấy là sự tập trung trên sự
cần thiết của
thực phẩm và áo quần, với những khía cạnh
tiếp theo là nhà cửa, giường chiếu, và những nhu dụng
vật chất khác. Nhưng chẳng bao lâu
rõ ràng rằng không đủ chỉ có thể
tìm ra thực phẩm thỏa mãn cho bao tử. Khi
chúng ta khám phá sự
khổ não và
hạnh phúc của
thân thể sâu xa hơn,
chúng ta thấy rằng mặc dù chúng là những
kinh nghiệm mạnh mẽ,
so sánh với nói về
hạnh phúc và khổ đau của
tâm thức thì cường độ mạnh hơn nhiều. Người nào đấy có thể có một
thân thể khỏe mạnh và
dồi dào thức ăn và uống, nhưng nếu người ấy có một tâm tư đau buồn, người ấy có thể trở nên
quẩn trí và ngay cả
dự tính tự tử. Có những người trở nên
giàu có vô cùng nhưng luôn luôn
căng thẳng; họ
hô hấp nặng nhọc và thường nói năng trong tư thái không
thỏa mãn và
không vui lòng.
Trái lại,
chúng ta có thể
quán sát những người luôn
duy trì sự tĩnh lặng và
an lạc ngay cả khi họ
thiếu thốn đồ ăn và
thức uống. Nếu
chúng ta có một
tinh thần an lạc và
thanh thản, thế thì họ
hoàn toàn có thể
chịu đựng những khổ đau của
thân thể.
Tuy thế, nếu tâm tư
chúng ta quá
căng thẳng, khi
tiếp nhận một vật phẩm gì đấy
chúng ta liền muốn một thứ khác
ngay lập tức và thế là chẳng biết một sự phõng đoán nào có thể có cho sự
liên hệ như thế
tiếp theo. Khi điều gì ấy xãy ra hơi sai sót,
chúng ta không thể
chịu đựng nó. Một tâm tư như thế, không có một sự
chịu đựng mạnh mẽ, sẽ luôn luôn không
hài lòng ngay cả nếu người ấy sống trong một
hoàn cảnh rất
tốt đẹp. Do thế,
chúng ta có thể thấy rằng
tâm thức là điều quan trọng
chính yếu, và rằng
chúng ta có thể loại trừ
khổ não tinh thần và
tìm thấy nguồn gốc
an lạc hạnh phúc qua cung cách suy tư của
chúng ta.
Đó là tại sao người ta
đối diện những
hoàn cảnh tương tự trong những phương thức khác nhau.
Thí dụ,
chúng ta có thể thấy hai bệnh nhân trong một bệnh viện, một người
tiếp nhận Giáo Pháp và có
niềm tin trong
luật nhân quả, và người kia không có
tư tưởng về
nghiệp báo và trở nên khích động,
cố gắng để loại trừ
hiện trạng khổ đau
lúc ấy.
Châm ngôn Tây Tạng có câu, “toạt miệng, toét mũi” – có nghĩa là điều
bất hạnh xãy ra cho cả hai người –
tuy thế một người trong họ
cảm thấy hoàn toàn thất vọng và không thể
chịu đựng nỗi khổ, kêu khóc trong đớn đau. Người kia cũng bị dày vò với cùng nỗi
đau khổ, lại hiếm khi
biểu lộ nó,
duy trì một sự
thái độ tĩnh lặng và mạnh dạn.
Chúng ta có thể nhìn vào những người
Tây Tạng: vào thời điểm này của
lịch sử quê hương
tuyết sơn,
chúng tôi bị cướp mất non sông và phải rãi rác khắp nơi trên
thế giới, và
rõ ràng có một sự đau buồn về điều này trong
cộng đồng chúng tôi. Tột cùng của điều này
chúng tôi đã
trở thành những người tị nạn và phải
dựa vào những người khác.
Tuy nhiên, mặc dù
chúng tôi đối diện với những khó khăn này, tâm tư
chúng tôi rất tĩnh lặng và dường như rất thõa mãn. Đã gần 15 năm từ khi
chúng tôi trở thành những người tị nạn và bây giờ, nói một cách
phổ thông, có rất it những
vấn nạn xãy ra. Nhiếu người
Tây Tạng đã tập họp về đây vì khóa
thuyết giảng giáo huấn này dường như thoãi mái, và
đại đa số những người
Tây Tạng đến từ Bhutan,
Ấn Độ và Sikkim đã
tham dự buổi
tiếp kiến hôm qua trang phục rất sặc sở, mặc dù như những người tị nạn
chúng tôi không
sở hữu một nơi chốn riêng của
chúng tôi (nhưng
chúng tôi có) đấy là kích thước lòng bàn tay của
chúng tôi.
Thực tế rằng mặc dù sống trong những
hoàn cảnh khó khăn và
căng thẳng như thế,
chúng tôi đã sinh sống thoãi mái là một phần qua sự
thông tuệ và
tinh thần sắc xảo.
Nhưng trong một chiều hướng khác nó
tùy thuộc trên
phước đức của
chúng tôi, cả to lớn hơn và kém cỏi hơn.
Tùy thuộc vào
phước đức của
chúng tôi chúng tôi không rơi vào một
tình cảnh không
lo liệu được và
mọi việc đã diễn ra một cách
tương đối êm ái. Hãy nhìn vào một
viễn cảnh rộng rãi hơn, thời điểm này
trong lịch sử Tây Tạng không phải là lúc không
lo liệu được (hay không
nơi nương tựa hay không ai giúp đở).
Nói đúng hơn, trong
trường hợp của
chúng tôi, như những người
Tây Tạng, đang
đi vào một
thời kỳ u ám tạm thời.
Chúng tôi chưa dùng tất cả những
phước đức của
chúng tôi; nó đang bị
vướng mắc giống như
La Hầu La nắm bắt
mặt trời và
mặt trăng. Điều này xãy ra rất một cách rất bất ngờ, nhưng không phải nó
chấm dứt tất cả và có
hy vọng một sự
tăng trưởng phước đức của
chúng tôi. Vì thế, tất cả
chúng ta phải phát sinh một
lòng can đảm phi thường,
hoàn thành tất cả những
việc làm nhiều nhất mà
chúng ta có thể, tích tập
phước đức và có những tấm lòng
hảo tâm. Thu thập
phước đức là quan trọng và cực kỳ mạnh mẽ.
Tương tự như thế, tôi đã có một
quyết tâm mạnh mẽ bởi vì
tuổi trẻ của tôi sống nhiều năm. Tất cả
chúng ta nên có một tâm tư mạnh mẽ như thế nhầm để sống cho một
thời gian dài và
thái độ của
chúng ta nên là một
thái độ phát sinh
can đảm như tôi đang làm. Những
tu sĩ lão niên không nên
chán nãn hay
ngã lòng, mặc dù
chúng ta già đi, tóc
chúng ta trắng thêm hay bị hói đầu. Nói chung,
phước đức hay
công đức của quý vị sẽ
biểu lộ sự hổ trợ.
Đây là
chủ đề của tất cả mọi khía cạnh, và điểm chính của
chúng tôi là điều này: mặc dù
chúng ta đối diện nhiều
vấn nạn và
nghịch lý, nhưng hãy
vẫn có hy vọng và tĩnh lặng trong tâm
chúng ta. Có một tâm tịnh tĩnh trong khi
đối diện những khó khăn là tất cả sự
lợi lạc. Nó không có nghĩa rằng bằng sự
thực tập Giáo Pháp chúng ta sẽ
lập tức loại trừ nạn
đói khát hay làm tăng thêm tổng lượng
thực phẩm cần thiết của đồ ăn và
thức uống. Nhưng bằng sự
tư duy về
Giáo Pháp chúng ta có
kinh nghiệm tịch tĩnh và sự
tịch tĩnh ấy sẽ cho
chúng ta một niểm hỉ lạc. Điều này là xứng đáng, có phải không?
Do vậy,
mặc kệ có
đời sống sau khi chết hay không, có
nhân quả hay không, có Ba Viên ngọc quý hay không, trãi qua cả
cuộc đời của
chúng ta và
trong đời sống hằng ngay của
chúng ta chúng ta nên giữ
nội tâm của
chúng ta tĩnh lặng và đừng làm khó khăn cho những người bạn của
chúng ta. Rất tốt để
duy trì một
thái độ vui tươi trào phúng, đem
lợi ích đến cho những người khác và dành
đời sống trong
mục tiêu này.
Cũng thế, khi
chúng ta thức dậy vào sáng sớm,
chúng ta nên
tỉnh thức về khả dĩ rằng điều gì ấy không may có thể xãy ra cho
chúng ta hôm nay. Rồi thì nếu có điều gì
bất hạnh thực sự xãy ra, tâm tư
chúng ta đã chuẩn bị tốt và
chúng ta sẽ có thể
duy trì sự cân bằng
tình trạng của
tâm thức. Trước khi đi ngủ vào buổi tối
chúng ta nên
phản chiếu trên những sự chuẩn bị tốt mà
chúng ta đã làm qua
suy nghĩ những
tư tưởng như vậy trong buổi sáng.
Trái lại, nếu
chúng ta dự đoán là
an bình vui vẻ mỗi ngày và chỉ nghĩ về những khía cạnh
tích cực, tâm tư
chúng ta sẽ bị quấy động khi điều gì ấy
không vui xãy ra hay
chúng ta gặp một người mà với họ
chúng ta không
cảm thấy thoãi mái, và
chúng ta có một đêm bồn chồn vào cuối một ngày.
Chúng ta phải có một sự
can đảm để
chịu đựng bất cứ
hoàn cảnh khó khăn nào có thể khởi lên. Nếu một người khác giáng xuống một sự
tổn hại trên
chúng ta và
chúng ta trả đủa lại, có thể
chúng ta cuối cùng phải đến tòa án; nếu
chúng ta để cho những người bạn của mình
liên hệ trong
trường hợp sẽ có những
vấn đề với tổn phí và
sở hữu. Không có
mục tiêu nào làm
nguyên nhân cho quá nhiều
vấn đề khó khăn,
trái lại sẽ có
lợi ích trong nhẫn nại với
vấn nạn. Hầu hết
mọi người không thể
thực hành trong cách này và là
lòng tốt bụng (
từ bi) đến
mọi người,
biểu lộ lòng
yêu thương đến người khác và giúp đở người khác. Nếu
chúng ta có thể
tăng trưởng thái độ này trong
xã hội, thế thì sẽ có
hy vọng thật sự và
chân thành cho hòa bình trong
thế giới này.
Thật là
sai lầm để
theo đuổi những
mục tiêu cho
hạnh phúc và xa lánh khổ đau bằng việc lừa dối và làm
mất mặt người khác.
Chúng ta phải
cố gắng đạt đến hạnh phúc và loại trừ khổ đau bằng
lòng tốt bụng của
từ bi và
cư xử tốt.
Thật không tốt để nghe về những người
tìm kiếm những
mục tiêu này bằng
cách cư xử không
đứng đắn và mánh khóe lừa dối, bằng việc
ám sát và qua chiến tranh. Nhưng trong
thế giới ngày nay người ta
biểu lộ ra bằng hành động của
tham lam và lừa dối, và thật sự đang dùng những phương thức như vậy để tìm cầu
hạnh phúc.
Chúng ta đã đang thấy những tiến trình
vật chất to lớn trên
thế giới, nhưng những nước lớn
tiếp tục làm
thất vọng những nước nhỏ và rất nhiều chết chóc xãy ra như một kết quả. Mặc người ta có thể
tin tưởng họ sẽ tìm
hạnh phúc và loại trừ khổ đau trong cách này, thật sự sẽ có nhiều sự đấu tranh , nhiều
đói khát, nhiều
dối trá, nhiều
căng thẳng, và nói chung những người bị
áp bức phải
chịu đựng nhiều khổ đau hơn trong thể kỷ 20.
Điều này không xãy ra bởi vì
thiếu thốn thực phẩm hay
điều kiện thuận lợi. Trường học và bệnh viện đang được phát triển và nhà cửa và
phương tiện giao thông đã được
cải thiện, đồ ăn
thức uống đang
gia tăng. Nhưng
sự thật và tính
lương thiện đã bị đánh mất trong
xã hội và đó là tại sao có ít
hạnh phúc an lạc hơn. Những ai với sự
giàu có và
quyền lực có thể làm bất cứ điều gì họ muốn,
trái lại một người
chân thật và
trung thực nhưng không có
quyền lực và phú quý sẽ không thể
thành công.
Những
thí dụ này thường thấy trong
xã hội ngày nay, là những điều rất buồn, và những
giá trị sai lầm phổ biến như thế lại cũng là
nguyên nhân cho những
bất hạnh đổ xuống
Tây Tạng. Những ngày này
mọi người đang nói về hòa bình và
sự thật từ Trung Hoa và
Ấn Độ đến những
quốc gia phương Tây. Nhưng trong
thực tế, những khổ đau đã đến những người bị
áp bức bởi vì những khái niệm
sai lầm ở phía sau cung cách mà
xã hội chúng ta thực hiện chức năng của nó.
Do vậy,
chúng ta trở lại điều được gọi là
Pháp Bảo.
Giáo Pháp không nên được
thực hành riêng cho những người ở những vùng xa xôi hẻo lánh, hay những người thô lổ có
quan niệm hẹp hòi.
Trái lại nó nên được
thực hành bởi những người có tâm tư cởi mở và tấm
lòng rộng rãi. Nhưng không có điều gì
kỳ diệu về kiến trúc của chùa chiền hay
tu viện, cũng không về sự phủ phục,
nhiễu Phật, hay
cúng dường.
Thực tế, không chắc về phần đó có phải thật sự là
Giáo Pháp hay không. Nếu trong
tâm thức chúng ta có
năng lượng tích cực (thiện) thế thì đấy là
Giáo Pháp. Nếu có
năng lượng tiêu cực (
bất thiện) thì đó không phải là
Giáo Pháp.
Giáo Pháp phải là trong trái tim
chúng ta. Nếu
tâm thức chúng ta thuần hóa, tĩnh lặng, và thư giản,
chúng ta đang
thực hành Giáo Pháp. Nếu ai đấy mặc y áo và nói về
tam tạng Pháp Bảo nhưng không có một
tâm thức thuần hóa, đấy không phải là một người
thực hành Giáo Pháp. Bất cứ ai có
Giáo Pháp thì tâm tư rất cởi mở,
thư thái, khiêm tốn, tĩnh lặng và có lòng
hảo tâm một cách
tự nhiên; nhưng những ai lừa gạt cùng
xem thường người khác và
nói dối thì không đang
thể nhập việc
thực tập Giáo Pháp.
Thái độ thật sự là
thực hành Giáo Pháp cốt tại sự
kiềm chế đối với sự lừa dối và không thay đổi với
chân lý, không làm giảm
giá trị và
chế nhạo người khác,
thể hiện sự khiêm tốn và
tiếp nhận một
vị trí khiêm nhường, có một
lòng tốt, giúp đở người khác và
hy sinh tự ngã.
Ngay cả những người nào đó
không chấp nhận thuyết
tái sinh, v.v…có thể phân tích để thấy
chúng ta có cần
Giáo Pháp trong chính
đời sống này hay không và rồi họ sẽ biết.
Chúng ta muốn
an lạc hạnh phúc cho chính mình, và
chúng ta muốn
thân hữu chúng ta vui vẻ. Nhưng, mặc dù
chúng ta có thể có đồ ăn
thức uống dồi dào hiện tại, lại có một
trạng thái lo lắng trong tâm, và
chúng ta phải sống với
cảm giác này.
Chúng ta bắt đầu
bất hòa với bè bạn
chúng ta, lừa dối và bắt nạt và làm nhục họ. Trong ngắn hạn,
chúng ta có
thể đạt mục tiêu giàu sang và
sở hữu vật chất bằng cách này, và có thể mặc vào áo quần đắc tiền, mang một chiếc đồng hồ đẹp, ăn
thức ăn ngon, và uống thức hiếm. Nhưng
chúng ta sẽ
không vui vẻ nếu tất cả những sự
giàu sang này và những
sở hữu này đã đến từ sự bắt nạt, hạ bệ, và lừa dối người khác.
Có lẻ nó sẽ
hao mòn tâm thức chúng ta rằng những hành động của
chúng ta có thể đưa
chúng ta đến tòa án. Bởi vì
chúng ta là những người với sự
giàu sang và
quyền lực ngay bây giờ, bạn bè
chúng ta có thể dùng những
ngôn ngữ tôn trọng trước mặt chúng ta. Họ có thể nói về những phẩm chất
tốt đẹp của
chúng ta như
hiện diện ngay cả vĩ đại hơn những
Đức Thế Tôn nào đấy. Phía sau lưng
chúng ta họ sẽ nguyền rũa
chúng ta và nói những thứ như, “Cầu cho kẻ ấy chết rất
thảm thiết,” và
chúng ta có thể rất khó khăn
tìm thấy bất cứ người nào
thích chúng ta. Do thế, nếu
chúng ta phải sống trong cách này, mặc dù
chúng ta có thể có tràn ngập những thứ để ăn và uống,
chúng ta tìm
hạnh phúc của mình nơi nào? Trong chiều sâu của tâm tư
chúng ta sẽ không
an ổn.
Cho dù
chúng ta có bị điều khiển bởi những người khác hay không, khi
chúng ta sắp chết
chúng ta cảm thấy rằng
chúng ta đã sống cuộc mình trong một cách bất chính, thế thì
chúng ta sẽ rất là đau buồn.
Tài sản mà
chúng ta đã tích tập bởi
tà mạng không thể
mang theo chúng ta được.
Chúng ta có thể có một tòa nhà rất lớn nhưng phải bỏ lại sau lưng.
Chúng ta có thể có những tài khoản
tiết kiệm thực sự nào đấy trong ngân hàng với giấy tờ
chứng minh, nhưng ở thời điểm
lâm chung chúng ta không thể xử dụng gì được với
tiền của ấy.
Chúng ta phải bỏ lại cho người thân,
cha mẹ chúng ta, và những người khác, những người chăm sóc
chúng ta ở hậu trường. Tệ hại nhất trong điều này là
chúng ta phải bỏ lại
thân thể của chính
chúng ta.
Do thế, bất cứ
tiền của nào được
tích lũy bằng
tà mạng trong đời sống này sẽ không mang được
lợi ích nào trong lúc
lâm chung và thậm chí có thể
mang đến rắc rối, như
lo lắng về việc ai sẽ chăm sóc những
tài sản của
chúng ta sau khi
chúng ta chết đi. Hay
chúng ta có thể trở nên
lo lắng trong khi
chúng ta hấp hối, sợ hải rằng những
thân nhân tốt bụng của
chúng ta cuối cùng sẽ
tranh đấu với nhau nhầm
mục tiêu rớ tay vào
tài sản ấy. Có tệ không nếu
chúng ta phải
kết thúc đời sống mình trong cách này?
Tuy nhiên, nếu
chúng ta lương thiện, với một
bản chất tự nhiên tử tế và một lòng
hảo tâm, sinh sống
trầm tĩnh và
thư thái, làm
lợi ích cho người khác va luôn luôn xem mình như thấp hơn họ,
chúng ta có thể chống chọi với sự
thiếu thốn đồ ăn
thức uống tạm thời và có thể thường
kết bạn tốt với
mọi người, và họ trở nên như những người thân của
chúng ta. Rồi thì khi
chúng ta đối diện với khó khăn đúng là có những ai đấy sẽ giúp đở
chúng ta.
Chúng ta những người
Phật tử tin tưởng rằng có
đời sống sau khi chết, và nó có thể được
chứng tỏ bằng
lý luận. Do thế,
chúng ta nên phân tích với một tâm tư cởi mở,
suy nghĩ một cách sâu sắc về
kinh nghiệm của
chúng ta.
Chắc chắn có
đời sống sau khi chết. Bởi vì
sự kiện này, những
nghiệp báo tích tập (
y báo) của
chúng sinh đã
mang đến kết quả
hoàn cảnh của
thế giới chúng ta (
chính báo) trong tổng quát, và
nghiệp quả cá nhân đã đưa đến những
điều kiện mà
chúng ta hưởng thụ.
Nếu không có
đời sống sau khi chết,
chúng ta đã phải nói rằng
thế giới này đã hình thành và
hiện hữu mà không có một
nguyên nhân – không có thể có một sự
giải thích nào khác hơn.
Chúng ta cũng sẽ
kinh nghiệm hạnh phúc trong đời sống
kế tiếp nếu
chúng ta sống trong một cung cách
ân cần và
từ bi bây giờ, do thế
chúng ta có thể
cảm thấy thoãi mái về điều ấy. Nhưng mặt khác, sẽ khổ đau như thế nào
chúng ta sẽ phải
chịu đựng trong kiếp này và kiếp tới nếu
chúng ta đam mê trong việc
phi đạo đức? Vì thế đây là một
lý do giá trị để
tham gia trong việc
thực hành Giáo Pháp.
Tóm lại, người
thể hiện tốt bụng và
lịch sự đem đến
hạnh phúc; kẻ biểu hiện
thô lỗ là
nguyên nhân cho nhiều thứ
tai hại xãy ra.
Ngày nay có những người trên
thế giới không
tin tưởng nơi
Giáo Pháp và phê phán nó. Do thế, nó
tùy thuộc chúng ta khéo
giảng giải tốt về
Giáo Pháp và rồi thì sẽ không có cơ sở nào cho sự bình phẩm.
Thí dụ tốt
thiết lập bởi một
hành giả thực hành Giáo Pháp, người hành động với một trái tim tốt và
lòng từ bi đối với
chúng sinh cùng
xã hội trong tổng quát, có thể được nhìn thấy và
chấp nhận bởi
mọi người, cho dù họ có tin có
đời sống sau khi chết hay không. Từ
quan điểm của
đời sống này
đơn thuần, có một trái tim tốt và làm
lợi ích cho người khác là những
thái độ thích đáng cho
mọi người, cho dù họ có là những người
thực hành Giáo Pháp hay không.
Do thế,
cốt lõi của
Giáo Pháp là phát sinh một trái tim tốt, và sự
giải thích hoàn toàn làm thế nào để
sinh khởi một lòng
hảo tâm được
tuyên thuyết trong
giáo huấn Đại Thừa.
Giáo huấn Phật Giáo này
xuất hiện trong
kỳ kiếp của một nghìn
Đức Phật. Trong những
Đức Phật đã
thị hiện, vị thứ tư,
Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, thường được biết đến trong
thế giới hiện tại. Trên mãnh đất tôn quý
Ấn Độ và tại ngay nơi này,ĐạoTràng
Giác Ngộ,
Đức Phật Thích Ca đã
giác ngộ 2.500 năm trước đây. Ngài đã
chuyển pháp luân lần đầu tiên ở
vườn Lộc Uyển và
tuyên thuyết nhiều
giáo huấn Pháp Bảo cho đến khi
nhập niết bàn. Ngài làm
sáng tỏ nhiều khía cạnh khác nhau của
Giáo Pháp trong
thế giới loài người và
chư thiên, cũng như dưới mặt đất, trên mặt đất và phía bên trên mặt đất, từ những
đệ tử thông thường, đến những nhóm nhỏ của những
thính chúng bất thường, đến những
thính chúng lạ lùng,
phi thường bí mật. Ngài đã ban bố những
giáo huấn Pháp Bảo khác nhau, mạnh mẽ,
thâm thúy trong cách này.
Nếu cô đọng, chúng hình thành hai loại xe, mà
Đại Thừa cao sâu hơn
Tiểu Thừa trong lĩnh vực của
tư duy đấy là tâm sinh và trong sự hướng dẫn của sáu
toàn thiện (
lục ba la mật), và kết quả của sự
thực tập này là
ba thân (
pháp thân,
báo thân, và
hóa thân).
Giáo huấn Đại Thừa là
siêu việt trong những khía cạnh
chỉ đạo đa dạng. Trong
Đại Thừa lại có
kinh điển hiển giáo và
mật điển tantra, trong ấy tantra
xuất hiện sau
kinh điển. Vì thế, sự
phối hợp giáo huấn của
kinh điển và
mật điển là cực kỳ
quý báu. Đây là thể loại
Giáo Pháp nở hoa ở
Ấn Độ và được truyền sang
Tây Tạng, non nước
Tuyết Sơn.
Giáo huấn Đạo Phật cũng lan rộng về phía Bắc đến
Mông Cổ và nhiều vùng đất
cho đến gần đây chúng ta biết là một bộ phận của Nga, và phía Đông đến Trung Hoa,
Đại Hàn,
Nhật Bản và v.v…Về phía Tây,
Giáo Pháp truyền đến A Phú Hản và một số địa điểm khác nữa. Chính
Đức Phật đã tiên đoán rằng
giáo huấn Đại Thừa sẽ lan truyền ‘về hướng Bắc’, đấy là từ
Ấn Độ vào
Tây Tạng và từ phía Bắc
Tây Tạng vào
Mông Cổ.
Phật Pháp bắt đầu ở
Ấn Độ trong
thời kỳ Đức Phật Thích Ca còn
tại thế, Ngài đã
chuyển pháp luân lần thứ nhất mà
giáo lý chính yếu là
căn bản cho
Phật Giáo Tiểu Thừa. Ngài đã giảng dạy
giáo lý Đại Thừa đến một số người
diễm phúc, mặc dù dường như rằng những
giáo huấn này không
phổ biến hay cũng không được biết đến nhiều trong thời Phật
tại thế. Đấy là tại sao trong
quá khứ cũng như ngày nay một số người đã
phàn nàn rằng
giáo lý Đại Thừa không phải là những lời
tuyên thuyết của
Đức Phật.
Sau khi Phật
nhập niết bàn,
giáo lý Đại Thừa thoái hóa cho đến khi chỉ còn danh xưng và
tình trạng ảnh hưởng này đã diễn ra trong một
thời gian dài. Theo sự tiên đoán của
Đức Phật,
Long Thọ và
Vô Trước đã đặt nền tảng cho sự
sống lại của
Đại Thừa, và
giáo huấn Đại Thừa đã rộ nở nhiều thế kỷ sau đó. Rồi thì cả giáo thuyết
Tiểu Thừa và
Đại Thừa dần dần yếu ớt xanh xao trên
thánh địa Ấn Độ cho đến khi dường như giáo thuyết đã bị biến mất một cách
hoàn toàn.
Trong khi ấy, ở
Tây Tạng, có nhiều cuộc
thăng trầm từ khi
Giáo Pháp được
du nhập cho đến năm 1959, nhưng
Phật Pháp không bao giờ bị chết đến không còn một dấu vết nào trên đất nước
chúng tôi.
Giáo Pháp đã bị suy thoái trong
thời kỳ của Langdarma, và
thời kỳ đó kéo dài khoảng 80 năm.
Tuy nhiên điều ấy chi xãy ra ở U-Tsang, bộ phận
trung tâm của
Tây Tạng, và
Giáo Pháp vấn
duy trì năng động trong những vùng chung quanh
trung tâm. Sau đó có một vài sự huy hoàng và suy thoái trong sự lan truyền của
Giáo Pháp, nhưng sự
phối hợp giáo lý của
kinh điển hiển giáo và
mật điển tantra đã từng được
duy trì bảo quản ở
Tây Tạng trong một nghìn năm.
Sự phát triển theo thứ tự
thời gian đã
diễn tiến ở
Tây Tạng từ cựu phái Nyingma đến tân phái Sarma. Trong tân phái Sarma có các tông Sakya, Kagyud, Kadam, Jonang, và Gelugpa.
Xuyên qua những
tông phái này, có nhiều danh xưng và kỷ năng được phát triển, cũng như có nhiều
phương pháp mở rộng tinh vi những
giáo huấn của
kinh điển và
mật điển và những cung cách
giữ gìn những hướng dẫn của những
đạo sư tôn kính của các
tông phái. Có những sự khác biệt nho nhỏ trongsự tiếp cận (hay tiến trình), nhưng tất cả đều giống nhau trong sự
phối hợp giáo lý của
hiển giáo và tantra, mà nó đã
trở thành sự phát triển cao độ ở
Tây Tạng.
Do bởi điều này, những vùng
lân cận của Bhutan, Sikkim, Ladakh, Mon (Arunachal Pradesh), và Mongolia đã
trở thành những học trò của nền
văn hóa tôn giáo Tây Tạng. Ngày nay những vị thầy giáo
Tây Tạng đã là những người tị nạn trong khi những người
đệ tử tiếp tục duy trì ổn định một cách
thoải mái; nhưng hôm nay thầy và trò cùng tập họp
với nhau ở đây.
Giáo huấn của
Đức Phật mà
chúng ta đang
thực hành,
bao gồm sự
phối hợp của
kinh điển và
mật điển, là cực kỳ
thuần khiết và
lợi ích.
Tâm giác ngộ (bodhicitta) và một trái tim
đức hạnh thánh thiện, được
diễn giải trong
kinh điển hiển giáo là nền tảng chính.
Mật điển tantra sẽ trở nên những
ngôn ngữ đơn thuần khô khan nếu
chúng ta không có
tâm giác ngộ (bodhicitta) và cũng không có gì
đặc biệt hay kết quả
thâm sâu đạt được trong việc
học hỏi nó.
Tương tự như thế, cả
Tiểu Thừa và
Đại Thừa là được diến giải từ
kinh thừa (hay
kinh điển hiển giáo). Nếu
quan điểm thâm thúy của
tính không – được trình bày một cách
thiện xảo trong
giáo huấn Đại Thừa –
vắng mặt, tantra trở nên không có
tác dụng và không thể đơm hoa kết quả trong bất
cứ sự thực chứng nào.
Như đã được
diễn giải trong
kinh điển,
tâm giác ngộ (bodhicitta) tôn quý ấp ủ những người khác
thân thiết hơn chính mình có
lòng từ bi và
yêu thương như gốc rễ của nó. Và
quan điểm về
tính không, mà nó có nghĩa là tất cả mọi
hiện tượng không có một sự
hiện hữu vốn có và là
thuần khiết từ ngay lúc
ban đầu, cũng được
giải thích trong ấy. Nếu
chúng ta thiếu
kiến thức kinh nghiệm về sự
phối hợp của hai điều này,
tâm giác ngộ và
tính không, thế thì
chúng ta không
thể đạt đến những kết quả từ việc
thực hành Giáo Pháp thâm diệu của
mật điển tantra.
Do thế,
chúng ta phải
giữ gìn sự
viễn ly,
tâm giác ngộ (bodhicitta) và
quan điểm đúng đắn (của
tính không) như nền tảng, như đã được
diễn giải trong
kinh điển. Từ
quan điểm của Tantra Yoga
Tối Thượng,
chúng ta phải căn cứ trên giai tầng
phát khởi và giai tầng
hoàn thiện trên nền tảng này. Nếu
chúng ta làm điều này, những kết quả
thâm diệu và bao quát sẽ xãy ra, như đã được
giải thích trong
mật điển tantra và những
luận giải tương ứng của chúng.
Không có
lợi lạc nào trong những hướng dẫn
thâm sâu như thế mà không có nền tảng ấy, mặc dù có thể có những giai tầng
phát khởi và
hoàn thiện, kinh mạch, khí, và hạt, v.v…
Chúng ta phải
biến thành một sự
thiện xảo thật sự để
tiếp nhận những lời giảng dạy, giống như
chúng ta có thể đón nhận được một loại
thuốc mạnh được
ban cho chúng ta và không thể có
một thể trạng quá
yếu đuối để
chịu đựng nó. Do thế,
chúng ta phải biết ba
phương diện chính của
con đường giác ngộ -
viễn ly,
tâm giác ngộ và
chính kiến (về
tính không) – nhầm
mục tiêu để
thực tập giáo pháp tantra, và rồi
tư duy cùng
uốn nắn tâm thức chúng ta một cách
thích đáng. Rồi thì sự
thực hành tantra sẽ rở
thành sự phối hợp của
kinh điển hiển giáo và
mật điển tantra.
Năng lực sống động của bất cứ
con đường nào, cho dù nó là
kinh điển hiển giáo hay
mật điển tantra, là
tâm giác ngộ (bodhicitta) tôn quý. Vì thế nó cực kỳ quan trọng.
***
Bây giờ
chúng tôi bắt đầu trao truyền và
giảng giải về
Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ (hay Ba Mươi Bảy Điều
Thực Hành của Một Vị
Bồ Tát), được
sáng tác bời
học giả Tây Tạng Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo. Không có
thời gian để
tìm hiểu tiểu sử chi tiết của ngài bây giờ, nhưng ngài là người cùng thời và rất được
tôn kính và
tin tưởng bởi Buton Thamchad Khyenpa (Buton Rinpoche). Chuyện được kể rằng, có
một lần Buton Rinpoche có một nỗi
đau đớn trên tay ông và ông
thỉnh cầu tác giả, nói rằng, “Ngài có
tâm giác ngộ trong tim ngài, vì thế hảy
gia hộ cho tay con.” Có rất nhiều
đệ tử tìm học những
giáo huấn của cả Buton Rinpoche và Thogmed Zangpo.
Bất cứ
quan điểm nào ngài
theo đuổi, chỉ
đơn thuần nhìn vào luận bản của ngài
chúng ta có thể biết rằng Thogmed Zangpo là
hiện thân của
tâm giác ngộ, và vì
thế sự hướng dẫn này cực kỳ
lợi lạc. Những vị
Bồ Tát có thể được biết bằng những dấu hiệu
tự nhiên của các ngài, giống như ngọn lửa vô hình có thể
kết luận qua khói và nước có thể được
phỏng đoán qua việc thấy con diệc. Qua việc đọc luận bản này
chúng ta hiểu sự
thích hợp với
danh hiệu Bồ Tát cho Thogmed Zangpo.
Thogmed Zangpo có một con cáo mà ngài thường
đem theo bên ngài, giống
như như một con chó nuôi. Bởi vì Thogmed Zangpo tĩnh lặng và
từ tâm cực độ, con cáo cũng trở nên
tốt bụng. Nó không làm
tổn thương bất cứ ai và cũng không
ăn thịt. Tâm hồnThogmed Zangpo rất
nhạy cảm nên ngài luôn luôn khóc khi ban
bố giáo huấn. Một số
đệ tử nói rằng họ luôn luôn vui cười bất cứ khi
Toàn thiện Rinpoche Buton giảng và bất cứ khi nào Thogmed Zangpo dạy họ luôn luôn phải rơi nước mắt.
Thogmed Zangpo đã
trở thành một
học giả lớn do sự
học hỏi nghiên tầm một cách
rộng rãi vào thuở
thiếu thời và ngài trước tác những
luận giải trên những
luận thuyết lớn. Ngài đã đặt
tâm giác ngộ (bodhicitta) làm đối tượng chính trong sự
thực tập của ngài vào cuối
cuộc đời của ngài, và ngài
trở thành một
đại học giả và
hành giả qua việc tập trung chỉ trên
tâm giác ngộ (bodhicitta).
Chúng tôi tiếp nhận sự
truyền khẩu Ba Mươi Bảy Điều
Thực Hành của Một Vị
Bồ Tát và sự giảng dạy này từ Khunu Lama Tenzin Gyaltsen Rinpoche. Ngài
tiếp nhận nó từ một
đại hành giả
viễn ly cực độ, một
đạo sư của Nyingma ở
tu viện Dzogchen miền Đông
Tây Tạng.
BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO GIÁC NGỘChúng ta bắt đầu với
nghi thức khai đàn kiểu mẫu của luận bản,
tiếp theo là phần chính của luận bản, và
cuối cùng là
kết luận. Nội dung
cúng dường khuôn mẫu đến những bậc
giác ngộ được
phân chia làm
kính lễ và
phát nguyện trước tác luận bản:
Nam Mô Thánh Quán Tự TạiCon luôn luôn phủ phục
tôn kính qua
ba nghiệp (1) đến
Đạo sư tối thượng và Đấng
hộ vệ Quán Tự Tại, những vị luôn luôn nhìn thấy
Tất cả những
hiện tượng là không đi không đến
Nhất tâm nổ lực để làm
lợi ích cho
chúng sinhBằng việc
xưng danh, “Nam mô
Thánh Quán Tự Tại”,
tác giả đang
cúng dường đến
đạo sư và Đấng
hộ vệ Quán Thế Âm. Phật và các vị
Bồ Tát trong
phổ thông không được đề cập ở đây, nhưng sự đề cập
đặc biệt đến
đạo sư và
Quán Thế Âm, điều này
chứng tỏ rằng luận bản này
biểu lộ sự
thực hành của những vị
Bồ Tát.
Vì gốc rễ của
tâm giác ngộ (bodhicitta) là
từ bi và
đại từ bi là gốc rễ của sự phát sinh một khuynh hướng
cương quyết, bằng việc
dựa trên từ bi mà
tâm giác ngộ (bodhicitta) sẽ được
sinh khởi.
Quán Thế Âm là thân
thị hiện của
từ bi và của tất cả những bậc
giác ngộ, hay chư Phật, và vì thế
tác giả đã
đặc biệt cúng dường đến Ngài. Giống như thế,
tác giả cũng làm như thế đến
đạo sư tối thượng bởi vì trong
ngôn ngữ của
Tổ Sư A Để Sa, “Tất cả những phẩm chất
trọng đại và thứ yếu được phát sinh bằng việc
tín cẩn đạo sư.” Điều này có nghĩa là tất cả những phẩm chất
lợi ích cường tráng trong tổng quát,
đặc biệt những phẩm chất của
Đại Thừa,
thể hiện qua có
lòng tin tưởng ở
đạo sư.
Gốc rễ của
Đại Thừa là lòng
yêu thương và đặc trưng nhất của
tâm giác ngộ (bodhicitta) căn cứ trên
lòng từ bi. Tất cả những
phương pháp của
thực hành tâm giác ngộ (bodhicitta)
xuất hiện trong
luận thuyết của
tôn giả Tịch Thiên (Shantideva),
như pháp bình đẳng và pháp
trao đổi chính mình với người khác là những
thực hành của những vị
Bồ Tát với những
tâm thức cực kỳ mạnh mẽ và là được phát triển bằng sự
tín cẩn đạo sư. Đây là
lý do tại sao cho những sự
tôn kính đặc thù được
thể hiện đến
đạo sư.
Nếu một người tự hỏi về những phẩm chất mà một
vị đạo sư và
Quán Thế Âm được phú cho, câu
trả lời là các ngài là
toàn thiện trong việc
từ bỏ những
phiền não và trong
thực chứng. Đây cũng là đòi hỏi sự
thực chứng đồng thời của
hai chân lý. Nếu
chúng ta không có thể nhổ gốc rễ và
từ bỏ những
phiền não và những
chướng ngại đến
giác ngộ,
chúng ta không thể
nhận thức hai chân lý một cách đông thời. Rồi thì không thể giúp ích cho
sự thể hiện
vô trụ một cách toàn tâm toàn ý, căn cứ trên sự không
dao động và
thông hiểu hoàn toàn tất cả những
hiện tượng như trống không. Do thế,
chúng ta cung kính phủ phục đến những
đạo sư như thế và Đức
Quán Thế Âm, những vị được phú cho những phẩm chất này và
biểu lộ những phẩm hạnh của Phật,
hoàn hảo trong việc
từ bỏ (
phiền não) và
thực chứng.
Như được
tuyên bố trong đoạn
kệ tán lễ của luận bản gốc của
Trung quán luận là:
Mặc dù thấy tất cả mọi
hiện tượng là không đi và không đến,…
Tất cả những
hiện tượng duyên khởi là những điều sinh và diệt trong tính
tự nhiên như thế, có nghĩa là một cách
căn bản chúng lìa tám khía cạnh khác nhau của
duyên khởi như sinh-diệt, khứ-lai, v.v…
Thể trạng của tâm là không
dao động ngay cả trong một khoảnh khắc từ sự cân bằng
tinh thần vô phân biệt trong điều mà chủ thể và khách thể là không hai, và ở chỗ không có ngay cả một
chướng ngại nhỏ nhất
từ tâm bất nhị vi tế, có thể được
so sánh như đổ nước vào trong nước. Với một
trạng thái bất động của tâm,
chúng ta phát ra những hình thể khác nhau trong hàng trăm hay hàng nghìn
vị trí biến khắp những
thế giới tịnh độ và
uế độ khác nhau của trần gian.
Nếu
nhân duyên hội tụ ở
chúng sinh, những
hành vi của các bậc
giác ngộ sẽ
lợi lạc cho họ một cách không thay đổi. Do thế,
chúng ta nên
quy y đến
Đấng giác ngộ Quán Thế Âm và làm như thế không chỉ khi những
hoàn cảnh không lành xãy ra.
Tác giả nói rằng ngài luôn luôn
quy mạng từ
ba nghiệp thân, khẩu, ý với lòng
tôn kính từ ngày này
trở về sau.
Tiếp theo đến
lời nguyện ước trước tác luận bản:
Những
Đức Phật toàn hảo, cội nguồn của tất cả những
lợi ích và
an lạcSinh khởi từ sự
thực hành Giáo Pháp thánh thiệnKhi
hoàn thành điều này cũng
tùy thuộc trên sự
thông hiểu những sự
thực hành về nó
Tôi sẽ
giải thích sự
thực hành của những vị
Bồ Tát.
Những
nghiệp báo của
chúng ta là cội nguồn
chính yếu mà từ đấy tất cả những khổ đau hay
hạnh phúc sinh khởi,
hạnh phúc từ thiện nghiệp và khổ đau từ
bất thiện nghiệp. Vì những
nguyên nhân của khổ đau là những
sai lầm của
tâm thức, những
sai lầm này phải được loại trừ; trong khi những
nguyên nhân của
an lạc, như
thái độ đạo đức tốt, và những phẩm chất tốt nên được
tăng trưởng. Nếu
chúng ta phân tích trong chiều sâu,
chúng ta thấy rằng phương thức để
tăng trưởng những phẩm chất tốt và vì thế gặt hái được
an lạc là
tham gia vào (sự
thực hành)
Giáo Pháp, vì cội nguồn của tất cả
lợi ích và
an lạc là
giáo huấn của
Đức Phật.
Do thế, như được
tuyên thuyết trong Đại
Diễn Giải Mật Thừa của
Tổ Sư Tông Khách Ba:
Cội nguồn của
lợi ích và
an lạc của tất cả
chúng sinh lang thang (ở cõi
luân hồi)
Kể cả
chư thiên, chỉ có
giáo huấn của
Đức Phật. Bằng sự
tin tưởng trong điều này
Giữ gìn Giáo Pháp thánh thiện với một
sức mạnh mãnh liệt và
Kiên quyết, ngay cả bằng giá của
cả đời sống của các con.
Chúng ta có thể trở nên
giác ngộ hoàn toàn, phú cho tất cả những phẩm chất
tốt đẹp một cách
hoàn toàn và
thoát khỏi tất cả những
ác nghiệp nếu
chúng ta thực hành theo
Giáo Pháp. Rồi thì một sự tràn ngập tự động của những
hành vi đức hạnh sẽ xãy ra diễn bày vũ điệu huyền bí để
hiển lộ những khía cạnh khác nhau
tùy theo tính khí và
niềm tin của mỗi loại
chúng sinh chúng ta có thể làm
lợi ích cho những kẻ khác một cách
đồng thời mà không phải nổ lực. Những
thành quả như thế của thể trạng
giác ngộ tối thượng sinh khởi từ sự
thực hành Thánh Giáo, và trong cách này
Giáo Pháp có thể được thấy là nguồn gốc của tất cả những
lợi ích và
an lạc.
Bằng sự
thực hành Giáo Pháp này, những
Đức Phật quá khứ trở nên
giải thoát với tất cả những
lỗi lầm và bối bổ những phẩm hạnh
tốt đẹp,
hoàn thiện những
mục tiêu của các ngài và
hoàn thành những
mục tiêu cho những người khác một cách
đồng thời và một cách không mệt nhọc. Nhớ lại
mục tiêu để
đạt đến giác ngộ, những phẩm hạnh cùng những
lợi lạc của
Giáo Pháp,
chúng ta nên đặt nó vào sự
thực hành và không
hạn chế chính mình đến
kiến thức thông minh thuần khiết qua lắng nghe nó.
Biết một chữ của
Giáo Pháp và đặt để vào trong sự
thực hành đem đến những kết quả
thâm sâu và
đặc biệt;
trái lại những kẻ có thể lập lại
từ trí nhớ một trăm nghìn luận bản nhưng không
thực hành Giáo Pháp sẽ không có
kinh nghiệm được tất cả
lợi ích nhiều như thế. Do vậy, đề cập
đặc biệt là hãy
thiết lập mục tiêu cho
thực hành ngay lúc này.
Vì thế,
chúng ta nên đặt
Giáo Pháp vào trong sự
thực hành ngay bây giờ nếu
chúng ta đang tìm cầu
hạnh phúc và khao khát xa lánh khổ đau, nếu
chúng ta ao ước được
thoát khỏi những
sai lầm và để
hoàn thiện tất cả những phẩm hạnh
tích cực.
Tác giả cũng
giải thích làm thề nào để
thực hành tâm giác ngộ (bodhicitta) tôn quý để yêu mến người khác hơn chính mình, của điều gọi là sự
thực tập tâm giác ngộ (bodhicitta).
Để
tiếp tục đến
luận thuyết thực sự, dường như rằng
chúng tôi phân chia tùy theo sự những sự
thực tập của những người của ba khả năng khác nhau, nó bắt đầu với một sự
giải thích của những người
giới hạn thuộc một
phạm vi:
ĐIỀU THỨ NHẤT
Bây giờ, khi mà sự biểu hiện to lớn của
thư nhàn và những
hoàn cảnh lợi lạc được
tìm thấy,
Đấy là sự
thực hành của những vị
Bồ Tát tuân theo,
Quán chiếu và
thiền tập ngày và đêm để
giải thoátChính họ và những người khác khỏi
đại dương của
sinh tử luân hồiDịch kệ:
1.
Tinh tấn kiên trìThân người
vững chãi lại nhã nhàn -
Con thuyền hiếm quý rất khó tầm -
Giờ ta đắc một không khuyết lỗi,
Tu tập đêm ngày chẳng
dời đổiVượt biển khổ
giải thoát luân hồiChẳng riêng ta trọn cả bao người
Lắng nghe,
tư duy và thiền lự -
Để
thực hành Giáo Pháp chúng ta cần biết về nó. Để biết về nó,
chúng ta cần nghe nó. Vì đây là
thời gian mà
chúng ta đạt được thân người, nếu
chúng ta nghe (văn) và
quán chiếu (tư)
Giáo Pháp,
chúng ta đi đến
hiểu biết nó.
Chúng ta nên
thực hành (tu) nếu
chúng ta có thể làm như thế, vì nếu
chúng ta không
cẩn thận bây giờ rằng
chúng ta đã
đạt được thân người, thì
chúng ta có thể làm gì khi
chúng ta không ở trong
tình trạng con người?
Hiện tại chúng ta đang giảng dạy và lắng nghe
Giáo Pháp. Nhưng nếu
chúng ta sinh như những con chó,
tình trạng của
thân thể chúng ta sẽ cướp đi vận hội tốt để nghe và
thực hành Giáo Pháp và sẽ không có cơ hội để hướng tâm tư
chúng ta đến
Giáo Pháp.
Chúng ta bất lực.
Nhưng
chúng ta đã được sinh ra làm người, và không chỉ là trong tất cả những
con người, mà
chúng ta đã sinh ra nơi
Giáo Pháp rộ nở.
Cũng thế,
chúng ta có thể thấy với đôi mắt
chúng ta và nghe với đôi tai của
chúng ta cùng với tâm tư
chúng ta biết một ít về những gì đáng
lìa bỏ và những gì nên
tiếp nhận.
Vì vậy đây là thời điểm mà
chúng ta phải
thực hành Giáo Pháp bằng lắng nghe,
suy nghĩ, và
thiền tập. Bây giờ, một số người
mù chữ, thậm chí không thể đọc
chữ nghĩa của
Giáo Pháp.
Tuy thế, họ
đạt đến thân người, và vì thế có thể tiến hành một nổ lực để
học hỏi về
Giáo Pháp qua nói chuyện với người khác, và họ có thể biết những điều gì đấy
tùy theo khả năng của họ.
Trên việc trở nên già đi,
năng lực chúng ta để
nhận thức trở nên không
rõ ràng, những
giác quan chúng ta trở nên mờ tối và
chúng ta lầm bầm qua hàm răng
chúng ta –
tuy nhiên,
chúng ta đã
đạt được thân người và có thể tiến hành nổ lực nhiều nhất để
chúng ta có thể
thông hiểu Giáo Pháp. Thật là quá
tốt lành để mang một thân người hơn là thân của một con chó hay con ngựa.
Tối thiểu chúng ta có thể trì tụng ‘án
ma ni bát di hồng’. Vì
thế thân người này rất quý giá.
Tuy thế, không có điều gì
kỳ diệu trong việc
đạt đến thân người một cách
đơn thuần. Có hơn bốn tỉ người trong
thế giới này, nhưng nếu
chúng ta đếm con số những người được sinh ra ở nơi mà
Giáo Pháp nở hoa, con số ấy sẽ rất là ít. Rồi thì trong số những người ấy, không có nhiều người
tin tưởng nơi
Giáo Pháp và có một cơ hội để
thực tập bằng việc lắng nghe, suy tư, và thiển tập trên việc
kết hợp giữa
kinh điển hiển giáo và
mật điển tantra. Do vậy
chúng ta nên đặt mọi nổ lực trong sự
thực hành của mình mà không trở nên chán nản và
chúng ta phải
cẩn thận để không xử dụng
sai lầm sự sinh (ra làm người)
tốt đẹp này. Vì nếu
chúng ta lãng phí thời gian của
chúng ta và
dự đoán để nếm qua
lợi lộc trong tương lai, điều đó rất là không
thông minh.
Thật rất khó khăn để có được một
hoàn cảnh thuận lợi và sự
thư thái. Tại sao thế?
Bởi vì
chúng ta phải có một
nguyên nhân hoàn hảo để
đạt được những
hoàn cảnh như thế và một sự
tái sinh làm người không thể có được nếu
nguyên nhân ấy thiếu vắng.
Nguyên nhân để
tái sinh làm người là gì? Đấy là
sự tích tập
đạo đức của
chúng ta.
Tuy thế,
thiện nghiệp quá khứ sẽ được nẩy nở và cần được làm mới bởi những hành động
đạo hạnh trong
hiện tại.
Thí dụ, một người
một lần đã có tiền nhưng bây giờ thì không, người ấy không thể đi mua sắm.
Tương tự như thế, mặc dù trước đây
chúng ta đã từng tích tập
thiện nghiệp, nhưng nó không
lợi lạc cho
chúng ta nếu
chúng ta không có
nghiệp lành trong
hiện tại.
Thật khó khăn để biết khả năng của những hành động
đạo đức mà
chúng ta tích lũy lúc trước có còn
duy trì với
chúng ta trong
hiện tại mà không bị
thoái hóa hay không? Một số những
hành vi đạo đức chúng ta đã từng tích tập trong
quá khứ sẽ trổi dậy từ những
thực hành thuần khiết khởi đầu, sự
thực hành thật sự và sự
thực hành quyết định, và một số từ những
thực hành trong sạch. Những
tư tưởng không
đạo hạnh mạnh mẽ như
giận dữ, tàn phá những sự
thực tập trong sách.
Giận dữ là sự
tiêu diệt những hành động
đạo đức rất
mạnh bạo và được
sinh khởi thường xuyên, căn cứ trên những
điều kiện to lớn và nhỏ nhoi.
Chúng ta không thể
dựa vào những
năng lượng thiện nghiệp quá khứ bởi vì
chúng ta không chắc nó có một
ảnh hưởng tích cực với
đời sống hiện tại của
chúng ta không. Do vậy, nếu
chúng ta cố gắng để
dựa vào nó, tại thời điểm
lâm chung chúng ta có thể được đưa đến
tái sinh trong
thế giới con người cực kỳ khó khăn. Nhưng nếu
chúng ta bồi bổ năng lượng đạo đức mạnh mẽ trong
hiện tại chúng ta có thể
tin tưởng vào điều ấy.
Khi
chúng ta khám phá sự
tiếp tục của
chúng ta một cách
chính xác,
chúng ta có thể thấy rằng
chúng ta đã có một
cơ duyên để
thực hành những
việc làm đạo đức mà
chúng ta có thể
tin tưởng;
lựa chọn một trong hai,
chúng ta có thể đã từng hành động những
việc làm như thế trong
quá khứ nhưng
chúng ta thấy rằng chúng không đủ
năng lực để
tin tưởng. Nếu gặp
trường hợp này,
chúng ta nên hành động với một sự cẩn thật
tột bực.
Chúng ta không nên
để tâm thức
chúng ta giải đãi và
dự đoán một tương lai
tốt đẹp, bởi vì điều này nghĩa là
chúng ta đang lừa dối chính mình và
đang tồn tại trong
chân không. Thay vì thế, điều quan trọng cho
chúng ta là nên
cư xử trong một cung cách
tích cực trong đời sống
hiện tại với những
điều kiện thư thái và
tự tại.
Người ta có thể tự hỏi rằng
thực hành Giáo Pháp có nghĩa là
cần thiết phải
từ bỏ đời sống xã hội và nhà cửa cùng
cộng đồng của
chúng ta không?
Dĩ nhiên,
chúng ta nên
thực tập một cách xác định trong cách này
nếu cần thiết phải làm như thế. Nhưng cũng có những
phương pháp khác mà
chúng ta có thể
thực tập Giáo Pháp.
Chúng ta có thể
cố gắng tột bật để có một trái tim tử tế
ân cần và không
tham dự vào những
hành vi không
đứng đắn (hạnh kiểm xấu), chẳng hạn như
dối trá và trộm cướp,
trong đời sống
hằng ngày của
chúng ta; thay vì thế,
chúng ta nên
chân thật và có
hạnh kiểm tốt, làm
lợi ích cho người khác,
kềm chế sự
thèm khát của chính mình và
mãn nguyện với chính mình. Những ai không thể
thực hành nhiều
vẫn có thể
thỉnh thoảng trì tụng
mật ngôn sáu âm ‘án
ma ni bát di hồng’ của
Đức bổn tôn
từ bi Quán Thế Âm, vì đây cũng là
Giáo Pháp.
Cuộc sống
hằng ngày của
chúng ta sẽ trở nên đầy đủ
ý nghĩa khi
chúng ta cẩn thận như thế. Người ta thường
cư xử một cách tệ hại – chẳng hạn như ấp ủ sự lười nhát, nói năng thô lổ, bắt nạt kẻ khác,
nói dối,
mục đích độc ác và chia rẻ giữa những người
với nhau, cùng hành động
tổn hại đến người khác – phải
cố gắng để
giảm thiểu sự liên lụy của chúng trong những
hành vi loại này từ ngày hôm nay trở đi. Những ai trong
nhiệm vụ nên làm mọi nổ lực để
chân thực trong sự
đối phó của họ với người khác và tự
kiềm chế với
dối trá cùng
tham lam quá độ. Đây cũng là
Giáo Pháp.
Có những người nói rằng: “tôi là người
tội lỗi và vì thế tôi không thể
thực hành Giáo Pháp.” Họ nghĩ rằng
Giáo Pháp phải được
thực hành trong những vùng xa xôi, hẻo lánh trong những
điều kiện cực kỳ khó khăn cho họ. Nhưng nếu một người nào đó là
hiện thân của
tội lỗi đi nữa, người ấy vẫn không muốn phải trãi qua khổ đau, chẳng hạn như nạn đói, khát, và lạnh, và người ấy
mong ước tìm thấy hạnh phúc, vì thế thật
vô nghĩa để dựng nên những
chướng ngại này cho việc
thực hành.
Nói một cách tổng quát, thật hiếm hoi
tìm ra ai đấy mà không phải là người
tội lỗi. Bằng điều này
chúng tôi muốn nói rằng khi
chúng ta dùng chữ ‘tội lỗi’ nó không
cần thiết phải có nghĩa là ‘giết người’. Lấy ví dụ của chính
chúng tôi,
chúng tôi đã mang
y Pháp, nhưng những
tư tưởng nhận thức bất thiện tiêu cực khác nhau vẫn
sinh khởi trong tâm tư, chẳng hạn như ganh tị với những ai ở
địa vị cao hơn,
cảm giác tranh đua với những sự
bình đẳng cùng
cảm giác trội hơn và chọc ghẹo
quấy rầy những người thấp hơn. Những
tư tưởng phiền não này sẽ biểu hiện trong cung cách nói chuyện và
biểu lộ trên gương mặt nếu
chúng tôi để chúng dính mắc trong tâm tư và chúng sẽ là
nguyên nhân cho những điều
tiêu cực hơn,
đặc biệt nếu
chúng tôi phát sinh những
tư tưởng tiêu cực chẳng hạn như
thái độ tự ái. Bởi vì
chúng tôi đã
phát nguyện phát tâm giác ngộ (bodhicitta) và
chí nguyện giao phó chính mình cho sự
thực hành tantric, những
hành vi như thế sẽ phát sinh nhiều việc
tiêu cực nghiêm trọng.
Do vậy,
chúng ta không nên nhút nhát bởi nghĩ chính mình như một kẻ
tội lỗi,
trái lại nên
cố gắng để
trở thành những người khá hơn. Bây giờ
chúng tôi khoảng 38 hay 39 tuổi và
chúng tôi muốn
kiểm soát tâm niệm của mình
hằng ngày, nhầm
mục tiêu tiến hành một nổ lực
chân thành để
cải thiện chính mình trong những năm tháng còn lại của mình. Khi
chúng tôi phản chiếu lại về
quá khứ, dường như một số
tiến bộ đã biểu hiện. Như được truyển khẩu của những
tiến sĩ Phật học (geshe)
dòng truyền thừa Kadampa: “Làm thế nào sự
cải thiện có thể xãy ra? Bởi vì những
hiện tượng hợp thành luôn thay đổi
tự nhiên, do vậy,
chắc chắn rằng một ngày nào đấy sự
cải tiến bộ sẽ xãy ra.”
Thế cho nên,
bảo đảm rằng sẽ có sự
cải thiện, mặc dù không dễ dàng để
đánh thức sự
viễn ly sinh tử luân hồi và
tâm giác ngộ (bodhicitta).
Có những cách khác nhau để nhìn vào sự
thực hành Giáo Pháp. Nếu
chúng ta nhìn vào điều ấy về một mặt là,
tâm niệm của những người
thế gian và
Thánh Pháp là
đối lập với nhau, như đã được nói là: “Tâm tư những thường nhân và
Thánh Giáo là cực kỳ xa rời nhau.” Nhưng từ một
quan điểm khác, nếu
chúng ta thực hành Giáo Pháp thì
Thánh Giáo sẽ rất gần
chúng ta.
Chúng ta không
cần phải lìa xa nhà cửa và đi đến một nơi thật xa nhưng có thể
thực tập trong đời sống
hằng ngày, không dùng sai
thời gian chúng ta thậm chí trong một ngày. Đây là một
ý nghĩa đầy đủ của sự
thực hành.
Thí dụ,
chúng ta không nên mang một
thái độ trong khi
chúng ta đi nhiễu rằng
chúng ta chỉ đi bộ, cũng không nên
tham gia vào những
buổi lễ cầu nguyện không có
ý nghĩa chẳng hạn như đòi hỏi rằng
chúng ta không bị làm
ưu phiền bởi bệnh tật và rằng sự
giàu sang và tuổi thọ
chúng ta có thể
gia tăng.
Tốt hơn,
chúng ta nên nguyện cầu trong một cung cách
lành mạnh và
chúng ta nên
tốt bụng hay
từ bi tột bật như mình có thể suốt trong
thời gian đi nhiễu một hay hai giờ đồng hồ.
Chúng ta nên
tư duy trên đoạn đường với
thông điệp từ “Hướng dẫn
Phương pháp của
Bồ Tát trong Đời Sống”: Nguyện cho con luôn luôn là cội nguồn của ần cần tử tế đa dạng
trong đời sống cho
vô lượng chúng sinh, như trái đất và bầu trời.” Điều được nói rằng có nhiều
lợi lạc từ việc
cầu nguyện như thế này trong khi đi nhiễu.
Chúng ta cũng nên đem
hình ảnh của Đấng Vĩ Đại và
Từ Bi Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn trong
tâm niệm; nhớ lại đức tính
ân cần của Ngài,
chúng ta nên
cầu nguyện một cách
tinh cần đến Ngài rằng bằng nói rằng: “Nguyện cho con được
tiếp theo bước chân của Phật và phát sinh nội lực
sung mãn để
trở thành như Ngài.”
Cúng dường những lời
cầu nguyện thiết tha như thế đem đến
lợi lạc bao la.
Chúng ta cần lắng nghe,
quán chiếu, và
thiền tập theo
Giáo Pháp nhầm
mục tiêu hành động đối với một
tình trạng toàn hảo của tâm như tâm của
Đức Phật. Khi lắng nghe,
quán chiếu, và
thiền tập trên
giáo huấn Đại Thừa một cách tường tận
chúng ta nên có một sự
liên tục giống như dòng nước chày, ngày và đêm, không dùng sai
thời gian ngay cả trong một khoảnh khắc.
Trước tiên chúng ta nên
học hỏi những
phương diện mà chúng không biết gì cả. Sauk khi có được
kiến thức về những điều này
chúng ta nên phân tích lại và phân tích lại
một lần nữa, nhầm để
tìm hiểu chiều sâu và
ý nghĩa của chúng. Một khi
chúng ta trở nên
tin chắc ý nghĩa của chúng,
chúng ta nên
cố gắng đạt đến kiến thức dựa trên kinh nghiệm của chúng trong
tâm thức chúng ta, căn cứ trên sự
phối hợp của
thiền tập phân tích và bố trí (quán và chỉ).
Tiêu dùng những ngày và đêm của mình trong cách như thế được biết như là sự
thực hành của một vị
Bồ Tát.
ĐIỀU THỨ HAI
Từ bỏ hương thôn cũ là sự
thực hành của những vị
Bồ TátĐấy là
tình thế khát khao như nước,
dao động đối với
quyến thuộc;
Giận dữ như lửa, trãi rộng đến những
kẻ thù; và
si ám, tạo nên một
Tình trạng mây mù trong
tâm thức vì thế
hành giả quên đi những gì nên
tiếp nhận và
loại bỏ.
Dịch kệ:
2. Lìa sanh quán
Trụ lâu chốn ấy sanh
nhiễm ái,
Thân tình như sóng dập dồn mãi.
Ngọn
lửa giận hờn kẻ quấy phiền,
Thiêu
công đức cũ bao kiếp hiền.
Bóng tối che mắt nhìn
thiển cận,
Khó phân hay dở, dễ nhầm lẫn.
Thôi hãy lìa quê cảnh riêng tây -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này.
Vướng mắc, thù hận, và
si ám gia tăng trong mỗi người, khi
chúng ta ở mãi trong quê cha của
chúng ta.
Chúng ta hình thành nên sự
vướng mắc không chỉ đến
quyến thuộc và bạn bè nhưng cũng đến
tổ tiên chúng ta. Những
vướng mắc này
sinh khởi một cách không
thích đáng như
hận thù và
giận dữ. Thậm chí nếu
chúng ta nguyện ước
thực hành và trì tụng một số
chân ngôn,
thời gian của
chúng ta bị chiếm mất vởi chăm lo đến
thân quyến và bè bạn cùng
chống lại những
mục đích của
kẻ thù.
Chúng ta biểu lộ một gương mặt tươi tắn và luồn cúi đến những người
quyền thế cao hơn,
chúng ta bắt nạt những người bị
áp bức và lừa dối những ai cùng
tình trạng giàu có như
chúng ta. Tất cả những hành động này
sinh khởi từ việc ở mãi trong một nơi mà nó có nhiều đối tượng để
vướng mắc và
giận dữ.
Nếu
chúng ta có một ngôi nhà nhỏ chứa đựng một ít
sở hữu vật chất,
chúng ta không cần sự vướng bận nhiều đến
ý tưởng giúp đở
quyến thuộc chúng ta, cũng không
cảm thấy sợ hải vì
kẻ thù của
chúng ta. Nhưng
chúng ta có thể
vẫn có sự
vướng mắc mà nó đến từ sự
suy nghĩ, “Đây là ngôi nhà của tôi”.
Tương tự như thế,
chúng ta có thể trở nên bận tâm
lo lắng với những đối tượng
vật chất nhỏ bé, vì nghĩ đến việc chúng làm thế nào
lợi ích cho
chúng ta khi
sở hữu chúng. Những sự
tán loạn này làm
nguyên nhân khiến
chúng ta xử dụng những ngày tháng của
chúng ta một cách
lãng phí.
Một
tu sĩ thân chỉ có thể có một chiếc hộp và một điện thờ cùng một hay hai khái niệm
thánh thiện của thân, miệng và ý trong nhà của người ấy.
Tuy nhiên, nếu
tu sĩ ấy trở nên quá
liên hệ trong việc bố trí những đối tượng ít ỏi này nhiều lần người ấy sẽ
xáo trộn bởi những
hành vi như thế,
tốt hơn là dùng
thời gian ấy để trì tụng
chân ngôn và suy tư về
Giáo Pháp. Do thế,
từ bỏ quê cha của một người được biết như sự
thực hành của một vị
Bồ Tát.
Gốc rễ của
vướng mắc, thù hận, và tâm tư đóng kín là
si mê ám chướng, và
chúng ta có thể nói rằng
vướng mắc và thù hận giống như những cận thần của
si mê. Về hai điều này, thù hận giống như một mãnh tướng
can trường người
chinh phục kẻ thù, trong khi vướng măc là bộ trưởng ngân khố hay kho tàng. Khi tất cả được
diễn đạt và hành động,
vướng mắc, thù hận và
si mê đưa
chúng ta cố chấp vào trong sự bất lực và sự khó khăn của kẻ khác.
ĐIỀU THỨ BA
Lưu trú ở những vùng hẻo
lánh xa xôi là sự
thực hành của những vị
Bồ Tát là nơi
Những
phiền não dần dần bị xua tan do việc
từ bỏ những địa điểm
quấy rầy,
Đấy cũng là những nơi
toàn bộ những hành động
tăng trưởng một cách
tự nhiên bởi không bị làm lãng xao, và
Nơi mà
tâm thức trong sáng cho phép sinh khởi nhận thức trong
Giáo Pháp.
Dịch kệ:
3. Tránh sao nhãng
Xa rời hẳn mọi điều khích động,
Hồn
chao đảo sẽ dần tĩnh lặng.
Tịnh hóa niệm
tán loạn buông lung,
Tâm quy
đức hạnh sẽ dần tăng.
Tuệ
sáng tỏ, cảnh vào tiêu điểm,
Niềm tin nơi Pháp
vững vàng thêm.
Sống
một mình ẩn dật nơi đây -
Chư
Bồ tát trọn hành cách này
Như điều này nói, chỉ
đơn giản từ bỏ quê cha hay xứ sở của
chúng ta không là một câu
trả lời.
Thí dụ,
chúng tôi là những người tị nạn và bị đẩy đến phải
từ bỏ xứ sở
chúng tôi, nhưng nếu
chúng ta duy trì sự bận tâm với những
hành vi thế gian chúng ta không học từ
kinh nghiệm ấy.
Mục tiêu chính của việc
từ bỏ quê cha của
chúng ta là có ít cơ hội cho việc
sinh khởi của
vướng mắc, thù hận, và
si mê. Trong đoạn kệ này những phẩm chất tĩnh lặng được làm
sáng tỏ. Không có đối tượng làm
xao lãng trong một nơi tĩnh mịch như
cưu mang nhà cửa,
liên hệ gia đình và
sự tích lũy cùng
tiêu dùng những
vật chất tạo được. Giống như thế, không có ai
ở chung quanh
chúng ta nói chuyện về những thứ tham đắm và thù hận.
Chúng ta có thể ngơi nghĩ trong một nơi nước nôi trong lành, không khí
tinh khiết,
chúng ta có áo quần
đơn giản và không có
căng thẳng trong
tâm hồn từ việc
lo lắng đến những
vật dụng của
chúng ta. Từ lúc
thức dậy vào buổi sáng không có điều gì làm
xao lãng chúng ta trong việc
thực hành Giáo Pháp, do vậy
chúng ta nên tập trung vào
Giáo Pháp trong một nơi
xếp đặt như thế.
Nhiều bậc
thánh nhân tôn quý đã
đạt đến sự
chứng ngộ cao độ trên
con đường tu tập bằng việc nương tựa vào những nơi tĩnh mịch. Do thế, nếu
chúng ta có được cơ hội
cư ngụ trong một am thất trước khi lìa đời, như một con vật sống trong
thiên nhiên, thì đấy là một cơ hội diệu kỳ.
Đặc biệt vì là những
tu sĩ chúng ta không phải bận bịu đến
trách nhiệm gia đình,
chúng ta cố ngẩng lên và nối gót tấm gương của
Đức Phật và những
đệ tử của Ngài, giảm thiếu những sự vướng bận của
chúng ta về
thực phẩm, áo quần,
tiếng tăm và thách thức những
phiền não.
Chúng ta không
đạt đến bất cứ điều gì
kỳ diệu chỉ bằng thay đổi áo quần bên ngoài và đeo mang những
biểu tượng. Biểu hiệu của một
tu sĩ là khi người ấy
đột nhiên đứng lên từ chỗ ngồi của vị ấy, không có gì vị ấy cần để thu thập từ nơi đó. Nếu một vài người phải
phụ giúp vị ấy khuân mang
vật dụng của mình khi vị ấy lìa khỏi một nơi để đến một
nơi khác, thế thì
chúng tôi không nghĩ rằng vị ấy
đại diện tốt lành cho
đời sống tu sĩ.
ĐIỀU THỨ TƯ
Từ bỏ đời sống này là sự
thực hành của những vị
Bồ Tát vì,
Thân quyến và bè bạn trong một
thời gian dài phải chia ly, sự
giàu sang và
của cải vật chấtTích lũy với nổ lực
vô cùng phải bỏ lại sau lưng và
thân thể,
Như một
nhà khách, phải bị
bỏ rơi bởi vị khách
tâm thức.
Dịch kệ:
4. Bận bịu với đời
Chung sống lâu rồi đến lúc thôi,
Bạn thân quyến thuộc cũng chia phôi.
Của tiền lao lách công gom nhặt,
Xa tít sau khi đời lịm tắt.
Tâm, là khách trọ của thân, nhà,
Ngày kia phải dọn bỏ đi xa.
Xả niệm đừng lo đời
hiện tại -
Chư
Bồ tát trọn hành cách ấy
Chúng ta là những người
thực hành Giáo Pháp chân thực nếu
chúng ta tìm một nơi tĩnh mịch và có thể xa lánh cuộc sống
thế gian này. Nhầm để xa lánh
đời sống thế gian này,
chúng ta nên nhìn trên đời sông này
như không quan trọng, những
lý do thiết yếu cho một
quan điểm như thế
hiện hữu là
vô thường và sự chết. Tất cả
chúng ta phải chết đi không sớm thì muộn. Nếu
chúng ta có
thực hành Giáo Pháp và phát triển một
lòng từ bi hay
tốt bụng, thế thì khi thời điểm của cái chết đến trong những
hoàn cảnh của tương lai trông
triển vọng lắm.
Trái lại, thậm chí nếu tất cả những người trên
thế giới là bạn bè và
thân nhân của
chúng ta cũng không có
lợi ích gì ở tại những thời điểm như thế, bởi vì
chúng ta phải ra đi
đơn độc một mình, bỏ tất cả họ lại sau lưng.
Thí dụ, một người rất là
giàu có, chủ nhân của một lô hảng xưởng phải lìa tất cả những nhà máy lại phía sau khi người ấy chết đi.
Từ lúc
chúng ta được sinh ra khỏi bụng mẹ
cho đến bây giờ
chúng ta đã yêu mến
thân thể này vì thể rất là tận tình bằng việc nói rằng ‘thân thể của tôi’, nhưng
thân thể này không
lợi ích gì cho
chúng ta vào lúc cuối bởi vì
chúng ta phải
lìa bỏ thân thể này lại đằng sau. Thậm chí
cho đến được
xem như là
Đạt Lai Lạt Ma, khi ngày chết của
Đạt Lai Lạt Ma đến thì
dĩ nhiên vị ấy cũng phải lìa
thân thể của Tenzin Gyatso. Không có cách nào để
thân thể và
tâm thức này đi chung
với nhau. Một
cách thông thường thì, nếu tước đi chiếc y vàng ‘cho gos nam jar’ (2) của ông, Tenzin Gyatso sẽ trãi qua một sự
suy sụp (
tinh thần), nhưng tại thời điểm của cái chết vị ấy phải lìa chiếc y
giải thoát thánh thiện này lại phía sau mà không có sự
sa sút nào cả.
Thời khắc sự chết của
chúng ta thì không biết chắc được. Hình thành những
dự tính sẽ xứng đáng để bỏ công nếu
chúng ta có thể
tin tưởng trong sự
sửa đổi tuổi thọ, nhưng
chúng ta không thể
tin tưởng giới hạn của
đời sống chúng ta bởi vì
chúng ta không biết khi nào
chúng ta sẽ chết. Tất cả
chúng ta cùng ở đây trong buổi
thuyết giảng ngày hôm nay, nhưng một số người trong
chúng ta có thể chết tối nay.
Chúng ta không thể
chắc chắn rằng tất cả
chúng ta sẽ
gặp nhau lại trong
chương trình ngày mai.
Thí dụ,
chúng tôi không thể
bảo đảm 100% rằng
chúng tôi không chết tối nay.
Do vậy, nếu
chúng ta tiếp tục bám víu vào
cuộc đời này ngay cả một ngày mà
chúng ta dùng
sai lầm thời gian của
chúng ta, và
cuối cùng trong cách này
chúng ta có thể
lãng phí hàng tháng, hàng năm. Bởi vì
chúng ta không biết khi nào
đời sống của
chúng ta sẽ
kết thúc,
thế cho nên chúng ta phải sống trong
tỉnh thức và chuẩn bị tốt. Rồi thì, thậm chí
chúng ta chết tối nay,
chúng ta sẽ làm như thế mà không
hối tiếc. Nếu
chúng ta chết tối nay,
mục tiêu chuẩn bị
tốt lành kiết tường được sinh ra; nếu
chúng ta không chết tối nay thì chẳng có
tổn hại gì trong việc chuẩn bị tốt, bởi vì điều ấy vẫn
lợi ích cho
chúng ta.
Những
hành vi của
thân thể trong kiếp sống này có thể được thấy và thấu hiểu cùng những sự vật có một phương thức
vận hành để biểu hiện trong một thời điểm nào đấy.
Thí dụ,
chúng tôi có
kinh nghiệm với một sự
đối phó nghiêm trọng về một
trạng thái lo lắng và
thất vọng vào
lúc đầu khi
đào thoát khỏi
Tây Tạng và đến
Ấn Độ, tự hỏi rằng
chúng tôi làm thế nào để
tồn tại. Trong tiến trình này của cảm nhận từ một
quốc gia nhân loại này đến của một
quốc gia nhân loại khác,
chúng tôi thấy rằng mọi thứ
dần dần tiến triển một cách
tốt đẹp.
Nhưng khi
chúng ta lìa
thế giới nhân loại,
chúng ta cũng làm như thế mà không có một người
bảo vệ hay hổ trợ và tất cả
trách nhiệm hoàn toàn đổ vào chính
chúng ta.
Chúng ta chỉ có chính sự
thông tuệ của chính mình để nương tựa vào
lúc ấy,
thế cho nên chúng ta phải
mở rộng nổ lực của chính mình nhầm để
bảo vệ chính
chúng ta. Như
Đức Phật đã nói, “Ta đã chỉ cho các ngươi
con đường đến
giải thoát; hãy biết rằng
sự giải thoát ấy
tùy thuộc trên các ngươi.”
Chúng ta phải
tích cực nổ lực trong sự
đạt đến tự tại của sự chuyển tiếp từ
thế giới thấp hơn đến
sự giải thoát khỏi
sinh tử luân hồi, từ sự
tự tại trong
hiện hữu thế tục đế đến cứu kính
tịch tĩnh.
Thật khó khăn để cho hàng
chư thiên bảo vệ chúng ta khi
chúng ta chuyển đến
đời sống kế tiếp, vì thế
chúng ta nên
cẩn trọng và cũng chuẩn bị tốt nhất ngay bây giờ như
chúng ta có thể.
Chúng ta nên đặt
trọng tâm vào những
đời sống tương lai hơn là chỉ
bám víu vào
đời sống này, vì thế,
chúng ta có thể
hy sinh và
từ bỏ đời sống này. Điều này được bắt đầu nhầm để
thiết lập sự không quan yếu của
đời sống này.
Thân thể được
so sánh như một
nhà khách, trong ấy nó chỉ là một nơi để ở lại một
thời gian ngắn và không
thường xuyên. Như đã trình bày vị khách
tâm thức đang lưu trú trong
nhà khách thân thể, như mướn một nơi để ở. Khi ngày giờ đến cho
tâm thức lìa xa, rồi thì
nhà khách thân thể phải bị bỏ lại sau lưng.
Hiện hữu không dính mắc vào
thân thể, bè bạn, sự giảu sang và
sở hữu là điều
thực hành của những vị
Bồ Tát.
ĐIỀU THỨ NĂM
Xa lánh những bè bạn không
đạo đức là sự
thực hành của những vị
Bồ TátNhững người khi
giao du với họ sẽ là
nguyên nhân gia tăng ba điều
nhiễm ô,
Những
hành vi về lắng nghe,
quán chiếu và
thiền tập đi đến
giảm thiểu,
Và
yêu thương cùng
từ bi trở nên không còn
hiện hữu.
Dịch kệ:
5. Lánh
ác hữuGặp phải bạn xấu đưa lối lầm,
Sân hận,
tham lam,
ngu dại thêm.
Thời giờ tu tập còn đôi chút,
Quên lãng Pháp; hành thiền
sơ xuất.
Tâm từ bi cho mọi
chúng sanhBị
chi phối, lạc lõng, lãng quên.
Hãy cắt tiếp giao cùng bạn ác -
Chư
Bồ tát trọn hành chẳng khác.
Có một sự khác biệt lớn lao giữa những phẩm chất mà
chúng ta tìm kiếm trong một
vị đạo sư
đức hạnh và người
bạn thân, và những thứ mà
chúng ta tìm thấy trong một vị thầy
không tâm linh và người bạn xấu. Có sự
lui tới với những
vị đạo sư
đức hạnh và người
bạn thân rất
lợi lạc,
trái lại chẳng có
lợi lạc gì để giữ mối quan hệ với vị thầy
không tâm linh và bạn xấu. Vì ngay cả nếu
chúng ta ao ước trở nên
tốt lành, bằng việc
dần dần tiếp nhận vào tâm tư
chúng ta những cung cách bất hảo của những người bạn xấu
chúng ta có thể mang lấy những
thói quen phi đạo đức của họ. Điểm này được nói là cực kỳ quan trọng.
Những người bạn thuộc loại xấu hay không phải bạn
tâm linh mà
chúng ta phải
từ bỏ là những người mà trong quan hệ với họ có một sự
gia tăng tự động trong
ba loại phiền não về
vướng mắc, thù hận, và
si mê. Một cách
tự nhiên,
chúng ta không thể
thực hành Giáo Pháp qua lắng nghe,
tư duy, và
thiền tập khi nối kết với những người bạn như thế.
Trong khi
tham gia vào trong sự
thực hành Đại Thừa, những
liên hệ như vậy sẽ làm giảm
giá trị của
tâm giác ngộ (bodhicitta), mà đấy là
yêu thương và
từ bi.
Chúng ta phải xa lánh họ như
chúng ta tránh xa bệnh dịch.
ĐIỂU THỨ SÁU
Theo đuổi ưu tú là sự
thực hành của những vị
Bồ TátNhững người bạn
tâm linh thậm
chí thân thiết hơn
thân thể của chính họ,
Khi
chúng ta nương tựa với những người bạn
tâm linh ưu tú,
lỗi lầm sẽ
giảm thiểu và
Những phẩm chất
tốt đẹp tăng trưởng như sự tô điểm (
đánh bóng)
mặt trăng.
Dịch kệ:
6. Trọng
Đạo sưKhi phó thác trong tay
Đạo sư,
Chân thật mong cầu hướng dẫn từ
Bậc thông
kinh điển rành tập huấn,
Trưởng dưỡng như trăng khuyết tròn dần.
Giải mọi nguy khó, xóa ảo hư,
Nếu trọn
lòng tin bậc
chân sư,
Phải tôn quý hơn
bản thân nữa -
Chư
Bồ tát trọn hành cách đó.
Đây là một cách nói rằng
chúng ta nên nương tựa
vị đạo sư của
chúng ta như người bạn
tâm linh, điều mà Geshe Potawa cũng
tuyên bố rằng: “Không có gì
tốt hơn để đến một
vị đạo sư nhầm
tìm kiếm sự giải thoát hoàn toàn. Phẩm chất
trong đời sống này có thể được
học hỏi bằng việc
quán chiếu.
Tuy nhiên, ngay cả có thể rằng không thể cần đến một vị thầy. Làm thề nào
chúng ta xoay sở mà không có một
vị đạo sư khi
chúng ta bất chợt chuyển tiếp từ
một thế giới thấp hơn đến một nơi mà
chúng ta chưa bao giờ đến trước đây.”
Chuyển hóa sự khiếm khuyết này của
tâm thức thành một
trạng thái tinh khiết sẽ không thể xãy ra mà không có tiến hành nhiều nổ lực, và để
thực hiện một nổ lực như thế
chúng ta phải biết làm thể nào để hướng dẫn nó trực tiếp và kỷ năng nào để xử dụng. Nếu
chúng ta không biết và không được hướng dẫn bởi một người
kinh nghiệm, nổ lực sẽ không có kết quả như mong muốn.
Ai là người
kinh nghiệm ấy? Một
vị đạo sư đạo hạnh, người qua
kinh nghiệm của chính mình có thể chỉ cho học trò
con đường và hướng dẫn
phương pháp để khử trừ
chướng ngại. Giống như một bệnh nhân
tìm kiếm sự giúp đở của một y sư để được chửa trị khỏi bệnh truyền nhiễm, do thế,
chúng ta nên
tìm kiếm sự giúp đở của một
vị đạo sư để
giải thoát chúng ta khỏi
ba nghiệp chướng.
Đạo sư là người mà
đệ tử nương tựa từ trong chiều sâu của trái tim.
Đạo sư hay vị thầy
chân chính không phải là bất cứ người nào. Như được nói bởi Dharmaraja Sakya Pandita: “Trước khi bắt đầu một dịch vụ nhỏ để
mua bán nữ trang và ngựa, người ta phải khảo sát một cách sâu sắc và hỏi
ý kiến giúp đở từ những người khác.
Tương tự như thế, sẽ
sai lầm nếu đi tìm
sự giáo huấn ở bất cứ người nào mà không phân tích kiểm nghiệm
vị thầy tâm linh trước, bởi vì
Giáo Pháp chỉ là những phương thức cho việc
đạt đến mục tiêu cuối cùng.”
Chúng ta phải khảo sát một cách
hết lòng trong cách này để thấy
vị đạo sư ấy là tương xứng hay chưa.
Chúng ta phải kiểm nghiệm những
đặc điểm này của
vị đạo sư một cách
cẩn thận: sự
liên hệ của vị ấy với
Luật tạng và
Kinh tạng cùng sự
sở hữu những phẩm chất của một
đạo sư Kim Cương, như được
giải thích trong
mật điển tantra.
Một khi đã được
thuyết phục rằng đấy là một
vị đạo sư thích ứng,
chúng ta nên nương tựa trên vị ấy trong một cung cách
đúng đắn, xem
kiến thức của vị ấy như đồng với Phật và
từ tâm của vị ấy thậm chí hơn những vị Phật.
Chúng ta phải có sự
tin tưởng trong những phẩm chất của vị ấy và
tôn trọng vị ấy bằng việc nhớ lại
từ tâm ân cần của vị ấy.
Giữ gìn sự
tôn kính này và
lòng từ bi
ân cần của vị ấy trong tâm
chúng ta,
chúng ta nên
thực hành những hướng dẫn
liên hệ đến sự
tín cẩn đối với
vị đạo sư.
Chúng ta nên đặt sự nổ lực
chân thành và
cúng dường đến
đạo sư của
chúng ta bằng việc
thực hành Giáo Pháp.
Sự
cúng dường cao thượng nhất mà
chúng ta có thể dâng đến
đạo sư của
chúng ta đấy là sự
thực hành. Nếu đấy là một
vị đạo sư tương xứng,
chân thực vị ấy sẽ
vui lòng hơn bao giờ hết với sự
cúng dường bằng cách
thực hành hơn là với những phẩm vật
cúng dường mà
chúng ta có thể đem đến cho vị ấy. Marpa Lotsawa đã đòi hỏi Milarepa sự ráng sức
chịu đựng những
thực hành khổ hạnh trước khi
cuối cùng cho phép Milarepa nhận lễ truyển pháp
quán đảnh. Vào
lúc ấy, Milarepa không có bất cứ phẩm vật gì
đáng giá để
cúng dường. Một người
đệ tử khác của Marpa là Ngok Lotsawa, người có những phẩm vật
phong phú và Ngok Lotsawa đã dâng cúng tất cả cho thầy của mình, ngay cả không
chừa lại một con dê què chân. Marpa đã hát một bài ca bày tỏ kết quả rằng ngài không
phân biệt giữa người không có gì để
cúng dường và người
cúng dường tất cả những gì mình có. Điều này
biểu lộ rằng ngài là một
đạo sư phẩm hạnh
trọn vẹn.
Những ai
tìm kiếm lợi lạc vật chất không phải là những vị thầy
Đại Thừa xứng đáng, như Sharawa
tuyên bố, trích từ
Con Đường Tiệm Tiến Lamrim của
Tổ Sư Tông Khách Ba. Nương tựa với một
vị đạo sư trong một cung cách
thích đáng được
diễn tả ở đây là sự
thực hành của những vị
Bồ Tát.
Chú thích:
(1) thân, khẩu, ý.
(2) ‘cho gos’ là chiếc y vàng phía trên, của tất cả
tăng ni cũng được biết là ‘la gos’, ‘nam char’ là chiếc y vàng phía trên chỉ dùng cho tăng
thọ cụ túc giới, ‘thang gos’ là chiếc y phía dưới được dùng cho
tăng ni.