QUAN ĐIỂM "VẬT BẤT THIÊN"
CỦA TĂNG TRIỆU
Thích Nhất Chân
Tăng Triệu cho rằng
vạn vật không
dời đổi, không
biến chuyển. Tất cả đều yên tĩnh
bất động: "Bản tính của mỗi sự vật ở yên nơi một thời, có vật nào để mà khả dĩ đi lại được ?" Ông đưa
kinh điển ra làm bằng: Kinh
Phóng Quang có nói: "Pháp không qua lại, không chuyển động vậy".
Kinh Đạo Hạnh có nói: "Các
pháp không từ nơi đâu mà lại, đi cũng không có nơi để đến).
Luận Trung Quán có nói: "Quán nơi
phương hướng để rõ là có đi, song người đi không hề đến phương hướng". Và ông gọi nguyên tắc nầy là "Vật Bất Thiên'', có nghĩa là
vạn vật không
biến thiên, không
dời đổi.
Dĩ nhiên nguyên tắc nầy
hoàn toàn nghịch lý đối với
thường kiến, song ông khẳng định "Thường thì
sanh tử chuyển tiếp, nóng lạnh đổi thay, có vật lưu động, là chuyện thường tình của
con người. Tôi lại cho là không phải vậy". Với ông thì nguyên tắc ''vật bất thiên'' nầy lại chính là
chân lý của
vạn vật. Thế nên tuy nói có
nghịch lý với thường tình, song là bởi: "Thường nói về
chân lý ắt nghịch với
thế tục. Thuận với
thế tục sẽ
vi phạm chân lý.
Vi phạm chân lý nên không rõ tính và không sao trở ngược lại. Nghịch với
thế tục nên lời lẽ lại vô vị".
Chân lý ''vật bất thiên'' như thế không những
nghịch lý mà còn nhạt nhẽo và
vô vị nữa. Song
chúng ta phải hiểu: "Lời nói
chân chính nghe tợ như ngược ngạo. Ai là người tin (phải biết)
lời nói kia có
lý do vậy". Do đó,
chúng ta đừng vội nghe nói ''vật bất thiên'' mà cho là
nghịch lý và
vô vị,
trái lại thử cố
tìm hiểu ra
lý do tại sao
chân lý lại phải nói như thế.
Lập luận căn bản để
biện hộ cho nguyên tắc ''vật bất thiên'' được
Tăng Triệu trình bày như sau:
"Phàm người ta nói là động, bởi vật xưa không tới nay, nên họ cho là động chớ chẳng phải tĩnh. Như tôi nói là tĩnh, cũng bởi vật xưa không tới nay, nên tôi nói là tĩnh chớ không phải động). ''Tích vật bất chí kim'' là nguyên tắc
căn bản của mệnh đề ''vật bất thiên''. Nếu sự vật trong
quá khứ (tích vật) không đi đến
hiện tại (kim), thời
chứng tỏ mọi vật ở yên nơi
thời gian của nó một cách bất di bất dịch. Ông nói "Mỗi tính (của sự vật) ở yên nơi một thời".
Thí dụ cho
dễ hiểu, quyển sách trong
quá khứ là mới,
hiện tại là cũ. Thường tình thấy trước mới sau cũ nên cho quyển sách là có
biến chuyển, thay đổi. Song như thế
chứng tỏ rằng cái tính ''mới'' ở trong
quá khứ đã không đi đến
hiện tại, mà luôn luôn trụ yên trong
quá khứ. Nếu ''mới'' để đi đến
hiện tại thì quyển sách trong
hiện tại vẫn là mới chứ không phải là cũ, và nếu vậy
vạn vật không có
biến động đổi dời nữa. Nếu
vạn vật không đổi dời,
thời gian không còn có nữa, bốn tướng
hữu vi sinh, trụ, dị, diệt không
hiện hành. Và như thế là
nghịch lý với
thế gian pháp và không đúng với
sự thật của
thế gian nên không thể
chấp nhận được.
Sự vật của
thế gian pháp cho thấy
vạn vật đều
biến chuyển, đổi dời. Điều ấy
chứng tỏ tính của mỗi sự vật ở yên trong một thời, nhờ
thế sự vật ở trong
quá khứ (tích vật) không
di chuyển đến
hiện tại (kim). Do nguyên tắc ''vật bất thiên'' nầy của
vạn vật, nên
vạn vật mới có
dời đổi,
biến chuyển,
thời gian mới
thành tựu, các
hữu vi pháp mới có sinh, trụ, dị, diệt.
Tăng Triệu tiếp tục lập luận: "Đã hay vật qua rồi là không đến, mà lại
bảo vật hiện nay lại qua đi. Vật qua rồi đã chẳng đến thì vật hiện nay đi đâu?"
Lập luận nầy
biện minh cho vật
hiện tại không hề đi qua
trở thành quá khứ. Theo
thí dụ quyển ở trên mà nói đã biết là cái tính ''mới'' thuộc
quá khứ không đi đến
hiện tại, thì cái tính ''cũ'' của
hiện tại cũng ở yên trong
hiện tại không hề chuyển dời đi để
trở thành quá khứ. Nhờ cái tính ''cũ'' ở yên trong
hiện tại, nên
quá khứ mới là ''mới'' (và tương lai mới là ''mục nát'' được). Như thế
rõ ràng nếu vật
quá khứ di chuyển thời không có
hiện tại (
vị lai). Nếu vật
hiện tại di động thì không có
quá khứ (
vị lai).
Mọi vật phải ở yên
bất động trong
thời gian của nó thì
thế gian pháp mới
hiện hành được.
Ông nói tiếp: "Cầu cái vật hướng đến ở lúc hướng đến, thời ở lúc hướng đến (vật ấy) chưa từng không có. Tìm vật hướng đến trong
hiện tại, thời trong
hiện tại (vật ấy) chưa từng có. Trong
hiện tại chưa có
chứng tỏ vật ấy không lại. Nơi lúc hướng đến chưa từng không có, mới hay vật ấy không đi. Ngược lại cầu (vật)
hiện tại, (vật)
hiện tại cũng không qua đi. Đó chính là vật xưa, không từ nay để đến xưa. Vật nay vốn ở tại nay, không từ xưa để đến nay". Ở đây xác định vật xưa ở yên tại xưa, vật
quá khứ ở yên nơi
quá khứ, vật
hiện tại ở yên nơi
hiện tại. Tuy là cùng một vật thể, song vật thể này
hoàn toàn bất động trong ba thời. Nhờ thế mới có
biến chuyển, mới có
thời gian. Đừng cho rằng cái
tình trạng hiện tại có được là do
tình trạng quá khứ chuyển biến dần đến
hiện tại, và ngược lại, do
tình trạng hiện tại chuyển biến qua đi nên tiến đến thành
quá khứ. Đó là luận lý của thường tình. Song nếu đúng như thế thời không có
thời gian biến đổi gì nữa.
Sở dĩ có
thời gian, có
biến chuyển bởi
hiện trạng quá khứ ở yên nơi
quá khứ,
hiện trạng hiện tại ở yên nơi
hiện tại. Mọi thời ở yên một vị thế
bất động, không hề có qua lại,
động chuyển chi hết. "Đã không có chút gì là qua lại, thì còn có vật gì để mà động đây ?".
Tóm lại, ''vật bất thiên'' muốn
thuyết minh chân lý bất động chuyển, vô khứ lai,
vô sinh diệt của pháp vậy. ''Vật bất thiên''
trở thành cực tắc, nguyên lý
tuyệt đối của các pháp. Chính vì thế nên
quan điểm ''vật bất thiên'' nầy không giản dị chút nào.
Lập luận ''tích vật bất chí kim'' không thể nào tát cạn được hết
ý nghĩa bao la vô biên của cực tắc ''vật bất thiên''. Ngay cả
từ ngữ ''vật bất thiên'' cũng không
thể đại diện được cho cái cực tắc
vô sinh diệt, vô khứ lai mà
Tăng Triệu muốn
ám chỉ. Giờ đây
chúng ta thử chạm thẳng vào cái chiều
sâu rộng mênh mông của cực tắc nọ qua
quan điểm ''vật bất thiên'' của
Tăng Triệu vậy.
Trước hết, hình như rằng
Tăng Triệu chia sự vật ra thành
các loại theo
thời gian. Cùng một sự vật song nếu ở
quá khứ thì là vật
quá khứ, ở
hiện tại là loại vật
hiện tại.
Các loại vật nầy không qua lại
với nhau nên gọi là ''vật bất thiên''.
Thật ra, không phải vậy, nếu chia như có nghĩa là
thời gian là một vật thể
độc lập với sự vật; một sự vật lại gồm hai vật thể: một vật thể
thuần nhất liên tục, và một vật thể đa thù bị chia chẻ theo
thời gian. Sự vật như thế trở nên bất khả và
mâu thuẫn ngay nội tại. Chính
thời gian khi tách rời ra khỏi sự vật và được chia chẻ thành ba thời một cách máy móc cũng
trở thành là một vật thể vậy.
Tăng Triệu không hề có
ý tưởng như vậy. Là một
hành giả Đại Thừa,
dĩ nhiên ông phải chia sẻ cái nhìn chung của
Đại Thừa, nhất là
học phái Trung Quán, là không thể xác định được bất cứ một pháp riêng rẽ nào.
Thời gian và sự vật không phải là những thật thể dễ dàng xác định như trên. Chỉ có thể xác định được chúng cùng một lúc trong một sự
liên hệ không thể thiếu nhau được.
Đại Thừa là sự khảo sát các
nhân duyên chứ không phải là
học thuyết về
bản thể. Các pháp
sở dĩ là các
pháp không phải vì có một
bản thể trường tồn,
thuần nhất,
bất biến nào đó hậu thuẫn, mà bởi vì các pháp cùng nhau đồng khởi lên theo sự
phối hợp của
nhân duyên.
Không
bản thể thật hữu, không một pháp xác định nào, làm
điểm tựa.
Đại Thừa trình bày mọi thứ theo
nhân duyên quan, nên sự trình bày nầy không đầu không đuôi, không căn cứ, và thường thì
lờ mờ và đầy
mâu thuẫn.
Long Thọ Bồ Tát cố gắng đặt để một đầu mối cho
quan điểm của
Đại Thừa, đó là
Không Tính, và Ngài xác định hẳn cái khuôn khổ cho sự khảo sát
nhân duyên qua hai
sự thật:
Chân Đế và
Tục Đế.
Tuy thế, nhưng rồi ra người ta lại càng mịt mù hơn nữa trước
nỗ lực làm
sáng tỏ Đại Thừa của Ngài. Song dù sao, theo
Đại Thừa, cái nhìn ấy (
nhân duyên quan) mới đúng thật và
như thật.
Do đó
Tăng Triệu, một
tông đồ của
Trung Quán, không hề
phân biệt thời gian và sự vật là hai thật thể
độc lập rời rạc, mà là hai pháp khác biệt
nhân duyên vào nhau để cùng khởi lên làm hai pháp khác biệt. Hai pháp khác nhau, nhưng nếu pháp nầy không có là pháp kia không có, mà pháp nầy có là pháp kia phải có. Có sự vật ắt có
thời gian, mà có
thời gian ắt có sự vật. Bởi
nhân duyên vào nhau mà hai pháp cùng khởi.
Nếu thế nhân duyên (đúng hơn là
duyên khởi) là đầu mối của
vạn pháp. Vậy làm sao để thấy rõ được
nhân duyên đây?
Long Thọ Bồ Tát đã chỉ điểm
toàn thể nhân duyên tóm thâu qua hai
sự thật Chân Đế và
Tục Đế. Thế nên
Tăng Triệu quán sát hữu vi tướng, tức
tục đế,
biến chuyển,
sinh diệt dời đổi không ngừng, và
quán sát lý do của chính
tục đế đó không gì khác hơn là
chân đế ''vật bất thiên'' vậy.
Chân đế không phải là một
sự thật trong sạch đối lập với
tục đế là một sự
giả dối dơ bẩn.
Trái lại chân đế là
lý do khiến
tục đế được là
tục đế, được
hiện hữu.
Sở dĩ thế gian vô thường biến chuyển sinh diệt là bởi
vạn vật không hề
di động ''vật bất thiên'', vậy. Ngược lại bằng chứng của
chân đế chính là
tục đế. Do vì
thế gian sinh diệt vô thường, đó là
chứng cớ cụ thể cho nguyên tắc ''vật bất thiên'' vậy. Đây là chỗ ách yếu
thâm sâu khôn dò của
nhân duyên quan. Chính vì
nhân duyên mà
vạn pháp hiện hành thành hai
ý nghĩa chân và tục, từ đó mở ra hai đường thánh và phàm,
giải thoát và
đau khổ,
giác ngộ và
vô minh. Rồi cũng vì
nhân duyên mà tuy phân thành hai nẻo chân, tục, song không hề có gì là
đối kháng, mà ngược lại hai cực kia lại chính là
lý do hiện hữu của nhau. Các nhà
Đại Thừa không còn biết đâu là mối để nói lên
sự thật nhân duyên nầy nữa.
Tăng Triệu phải
thổ lộ: "trở lại suy tầm
thánh ngôn,
vi tế khôn lường, như động mà tĩnh, tợ đi mà dừng".
Sự thật, ''vật bất thiên'' không phải là một chủ trương của ông để ra công
biện hộ. Nó chỉ là một gợi ý để ông trình bày về một
sự thật, từ
sự thật đó một
chân lý được rút ra, rồi lại từ
chân lý nầy một nội kiến bừng mở ra cả
một thế giới kỳ ảo được
kinh nghiệm cụ thể. Và
chúng ta đừng quên rằng trọn tiến trình nầy được đặt trên
căn bản nhân duyên quan qua hai
sự thật chân và tục.
Tăng Triệu phát giác ra
chân đế và
tục đế tuy hai mà là một, tuy một mà là hai.
Tục đế là
biến chuyển vô thường, nên "động" là
tiêu biểu cho
tục đế. Ngược lại, cái không
chuyển biến thường hằng là
chân đế, nên ''tĩnh'' là
tiêu biểu cho
chân đế. Ông nói: "Cứu xét lý lẽ
bất động, phải đâu bỏ động để cầu tĩnh, mà phải cầu tĩnh nơi cái động. Phải cầu tĩnh nơi cái động, nên tuy động mà thường tĩnh. Không bỏ động để cầu tĩnh, nên tuy tĩnh mà không lìa động". Như thế, chân, tục nào phải
mâu thuẫn đối lập, mà là một bổ túc không
thể không có để cùng
hiện hữu.
Vạn hữu được nhìn theo hướng
duyên khởi nầy là sự
phối hợp các lực
mâu thuẫn đến một mức độ như hòa vào làm một
với nhau. Nên ông
kết luận: ''Nếu thế ắt động tĩnh chưa hề có khác, song do hoặc
bất động nên (người ta) mới làm cho
chân ngôn vướng vào
tranh luận,
tông đồ nhún trước
dị kiến. Cho nên động tĩnh hai cực, có đâu dễ nói".
Con người bị
mê hoặc không phải ở chỗ không
tìm ra, không tạo ra được tĩnh, mà ở chỗ không thấy được động tĩnh là một. Thế nên cứ phân động tĩnh thành hai cực
đối lập. Đó là nỗi khó khăn để trình bày về
sự thật của
duyên khởi vậy.
Ông trích Đạo Trích Hạnh kinh: "Chư pháp vốn không từ chỗ nào lại, đi cũng không chỗ để đến", và
Trung Quán Luận: "Quán phương biết là có đi, người đi không đến phương" và
kết luận: "Đó đều ngay nơi động để cầu tĩnh, mới biết vật bất thiên,
rõ ràng vậy). Thế là từ
sự thật động tĩnh (chân tục)
tương tức, tuy hai mà chẳng phải khác, ông rút ra được
chân lý "vật bất thiên". Điểm quan trọng là nền tảng cho
quan điểm "vật bất thiên" của ông chính là sự khảo sát
vạn hữu một lúc trọn
hai mặt chân và tục (Động và Tĩnh). Chúng là
hai mặt của một
sự thể hiện của
vạn hữu, nên chúng là của nhau và bổ túc cho nhau, chứ không tương phản hay
mâu thuẫn.
Sự thể hiện nầy của
vạn hữu không hề phải là một
bản thể thật hữu, mà là sự bày ra đó của
vạn pháp trong tương quan
duyên khởi. Nếu
chúng ta xao lãng điểm
then chốt nầy thì không có thể có được một sự
hiểu biết đúng đắn về "vật bất thiên" nữa.
Chính vì thế, ông lấy chính
phương diện thế tục để
lập luận chứng minh chân lý "vật bất thiên" (có nghĩa là "tức động nhi cầu tĩnh").
Rõ ràng ông không xác định một
ý nghĩa đặc biệt nào cho sự vật và
thời gian hết, mà theo đúng
quan điểm của
thế tục: có sự vật, có sự
biến chuyển của sự vật, và do đó có
thời gian. Nói "Có" ở đây không phải là một
ý nghĩa xác định, mà là một sự
chấp nhận của
thường kiến, tuy theo
cảm quan rất mù mờ, song lại
điểm tựa duy nhất của
thường kiến vậy. Từ
thường kiến nầy ông rút ra nguyên tắc ‘‘tích vật bất chí kim‘‘ (vật xưa không
đến nay). Sự
biến chuyển của
thế gian là do sự vật trong
quá khứ không trôi tới
hiện tại. Người đời
nhận định ngay
trước mắt (tức
hiện tại) không thấy cái vừa qua nữa nên cho là
động chuyển. Nhưng
nếu thế thì
động chuyển có được là nhờ cái đã qua (tức vật trong
quá khứ) không
di động tới
hiện tại. Suy ra cái
hiện tại cũng không hề
di động để tiến về
quá khứ "vật đã qua đã chẳng lại, vật
hiện giờ qua đi đâu ?".
Sự
suy luận có vẻ mù mờ khó hiểu và
nghịch lý, song đừng bao giờ đi
nỗ lực xác định các
ý nghĩa về
thời gian, chuyển động và vật thể trên, rồi võ đoán
gán cho đó là
quan điểm của
Tăng Triệu. Mọi
lập luận của ông chỉ có thể theo
thường kiến mà
thiết lập. Điều ông muốn xác định là xác định
lý do tại sao có
sự thể như
thường kiến nhận định "vật bất thiên" không
phản đối thường kiến, ngược lại, lại chính là
lý do hiện hữu của
thường kiến.
Chân đế cực hậu thuẫn cho
tục đế vậy.
Nếu
thường kiến thấy là có sự
dời đổi, có
quá khứ,
hiện tại,
vị lai, thì chính là bởi mỗi sự vật cùng với
thời gian của nó
hoàn toàn đứng yên bất động. "Nếu
Đức Phật xác định một thật thể
trường tồn bất biến như nhất ngoài các
hiện tượng hư ảo của
thế gian, thời không bao giờ
Đại Thừa Phật Giáo lại trở nên mông lung khó hiểu như vậy.
Trái lại, thật và giả lại cùng khởi lên nơi một chỗ, tức sự
hiện hành hiện tượng của
thế gian, tức chính là
duyên khởi.
Đại Thừa trở nên
hoàn toàn bất khả tư nghì, song lại gói trọn trong cái thường tình của
thế gian. Vậy chân tục, động tĩnh chỉ là một sở tạo vị thường dị. Chỗ phát sinh ra (chân tục, động tĩnh), chưa từng khác nhau.
Nếu thế tìm
chân lý để làm gì khi nó chả khác
gì thế tục, mà lại còn là
lý do tác thành thế tục? Thử hỏi nếu
Niết Bàn là
lý do hiện hữu của
luân hồi, thì
đạt được Niết Bàn chỉ là
tác thành của
luân hồi mà thôi? Song
Tăng Triệu luôn nhắc nhở: "như động mà tĩnh, tợ đi mà dừng"; "Có đâu cho rằng đi lại có thể dứt mất, đứng lặng có thể giữ yên". "Cho nên nói thường mà không trụ, bảo đi mà chẳng dời". Ông cũng như các
hành giả Đại Thừa, không hề có ý đặt để những
lập luận vững chắc dựa trên những thật thể
thường hằng bất biến độc lập ngoài
thế gian.
Trái lại, ông
nỗ lực đi sát theo
vạn hữu để có được một cái nhìn như thực, như các pháp đang là, cái nhìn nầy là một nội
kiến chân thật
đặc biệt, nó
phù hợp với thật tại, nó không
tìm kiếm Niết Bàn, vì với nó chính
luân hồi là
Niết Bàn, nó không
hãi hùng luân hồi, vì với nó chính
Niết Bàn là
luân hồi.
Nhưng đến đây, tuy thánh phàm chỉ có một đối tượng
duy nhất là
vạn hữu, song bắt buộc phải phân ra hai cái thấy nhau về cùng một đối tượng ấy. "Chỗ thấy không từng giống nhau, nghịch với lẽ (bất thiên) gọi là ngăn ngại. Thuận với lẽ gọi là thông suốt". Từ đó, với
Đại Thừa, thánh phàm khác nhau ở chỗ "thấy", chứ không ở chỗ sở đắc.
Đắc Đạo, đắc
Niết Bàn không phải là thánh, nhiễm phàm, theo
luân hồi không phải là phàm. Thấy
Niết Bàn,
luân hồi không khác nhau mới là thánh, thấy
luân hồi đối lập Niết Bàn chính là phàm. Và cái "thấy" ấy, cái nội kiến ấy, được trình bày như sau :
"Nói đi không hẳn là đi... bảo đứng nào hẳn là đứng... Há lại cho rằng có đi để mà trừ, có đứng dừng để mà định sao ?) "Cho nên nói thường mà không trụ, bảo đi lại không dời. Không dời nên tuy qua đi mà thường tĩnh. Không trụ nên tĩnh mà thường qua đi. Tuy tĩnh mà thường qua đi, nên qua đi mà không
di động. Tuy qua đi mà thường tĩnh, nên tĩnh mà chẳng yên vậy). "Cho nên nói qua đi không hẳn là qua đi, nên xưa và nay thường còn, bởi (sự vật) không động. Bảo đi không hẳn đi, nghĩa là không từ nay đến xưa, bởi (sự vật) không lại. Không lại nên không rong ruổi nơi
xưa nay. Không động nên mỗi tính trụ nơi một thời).
Tóm lại,
chân lý được
khám phá ra trong nội kiến nầy là
bất động tính của
vạn pháp. Song
bất động tính nầy không hề trở ngại sự
hiện hành biến chuyển dời đổi của
thế tục pháp.
Trái lại cả hai cùng
phối hợp với nhau toàn hảo để một mặt xác định
thế gian pháp, một mặt khai mở nội
kiến chân thật thấy
vạn pháp như
vạn pháp đang là. Nên nhắc lại là
Tăng Triệu không có ý
thiết lập một
ý nghĩa đặc biệt nào về
thời gian hết. Từ cái nội
kiến chân tục, động tĩnh không khác, ông có thể
lập luận một cách
tự tại về bất cứ
vấn đề gì. Thoạt nhìn nó có vẻ như chỉ là một trò chơi của
tâm thức suy luận trên
chữ nghĩa, và "những tìm hiểu" võ đoán có thể cho là ông có những
quan điểm đặc biệt về
thời gian và vật thể. Nhưng thật ra, đó là một nội kiến
hoàn toàn chân chính như thật về
thế gian nầy vậy.
Do đó, nội kiến không giản dị chỉ là thấy ra
chân lý "vật bất thiên", mà
siêu việt hơn nữa, nó chỉ ra "thiên" và "bất thiên" là một. "Nên luận về
chân lý có lý lẽ "bất thiên", dẫn đắc tục có
lý thuyết "lưu động". Tuy là ngàn lối
đề xướng khác nhau, hợp quy về cùng một mối vậy"."Cho nên người ta cho là trụ, tôi lại nói là đi. Người ta cho là đi, tôi lại bảo là trụ.
Vậy thì đi trụ tuy khác, mà lại là
nhất trí vậy". Thế nên "vật bất thiên" không phải chỉ là một
ý kiến lập dị của những người thích
nghịch lý, cũng không giản dị chỉ là lý lẽ "tích vật bất chí kim". Nó là một nội kiến
thâm sâu, là chỗ móc nối trong
tinh thần của
hành giả với
trí huệ chân thật của chư Phật ở chỗ nó
thấy như thật sự
hiện hành của
vạn hữu (chân tục không khác).
Phật pháp và
thế gian pháp trở nên kỳ ảo và mang nhiều
ý nghĩa hết sức bất ngờ.
Tăng Triệu nói "Thương thay cho nhân tình bị
mê hoặc bao lâu rồi,
sự thật ngay
trước mắt mà chẳng giác".
Rõ ràng chân lý của
đạo Phật, khi nghe có vẻ
nghịch lý xa vời, như
Ma Ha Diễn Luận nói: "Các
pháp không động, không chỗ đi lại". Song thật ra,
sự thật ấy lại ở ngay
trước mắt. Tôi đang già dần đi,
vạn vật xung quanh đang
biến chuyển, chỉ là bởi các pháp
bất động vậy. Nhưng
chúng ta chỉ thấy sự
chuyển hoá mà chẳng nhìn ra được lẽ
bất động.
Rõ là: "Gần mà không thể rõ được, duy có vật tính mà thôi". Thế nên "vật bất thiên" không phải là một đề tài để luận lý, để
suy nghĩ mà là một nội kiến
cá nhân của
hành giả.
Tăng Triệu chỉ rõ: "chỉ có thể lấy "thần" để
lãnh hội, chứ khó mà lấy sự để cầu". "Nếu có thể thần khế hợp ngay nơi vật,
chân lý nào xa mà có thể
tỏ rõ vậy). Thần ở đây chính là nội
kiến chân thật.
Như thế "vật bất thiên" đòi hỏi một nội kiến
thâm sâu về chính
vạn hữu đang
hiện hành ngay nơi đây. Và một khi nội kiến nầy khai mở, nó kèm theo cả
một thế giới (hay có thể nói là
cảnh giới) tuy kỳ ảo ngoài sức tưởng tượng nhưng lại
hoàn toàn thực nghiệm.
Tăng Triệu nói: "Thế nên gió lốc bạt núi song thường tĩnh, sông nước
cuồn cuộn mà chẳng trôi, quáng nắng lung linh mà chẳng động,
nhật nguyệt xoay vần chẳng giáp vòng. Có chi là lạ đâu). Nếu
chúng ta hiểu vật bất thiên như một
lập luận, thì đây chỉ là một sự
suy diễn của luận lý. Nhưng nếu
chúng ta mở ra được một nội
kiến chân thật về vật bất thiên, thì đây là một
cảnh giới hoàn toàn thực nghiệm về chính
thế gian nầy, nhưng
thế gian nầy lại mở ra một
phương diện khác cho
kinh nghiệm của
chúng ta, một khi
chúng ta, bằng nội
kiến chân chính, nhìn vào
thế gian nầy một cách
như thật.
Cảnh giới nầy còn được
diễn tả tiếp : "Thế nên trăng sao mây nước như gió cuốn, tinh hà như sấm cuộn, chỉ một
mảy may lẽ
chân thật, thì tuy mau lẹ mà chẳng chuyển động). "Thế nên trời đất
đảo ngược cũng không cho là không tĩnh, sóng vỗ ngút trời cũng không bảo đó là động). Ông còn trích kinh ra: "Ba
tai nạn lẫy lừng, mà
hành nghiệp lắng yên". Phải tin lời ấy vậy. Nghĩa là đến kiếp hoại,
toàn thể thế giới bị ba nạn nước, lửa, gió
phá hủy tiêu tan, nhưng chính ngay
đang lúc ấy mọi náo động thật sự
đứng yên.
Cái
kinh nghiệm lạ lùng nầy phát xuất từ nội kiến
như thật về
vạn hữu đang
hiện hành. Nó
trở thành nền tảng
chân thật cho tất cả mọi
ý nghĩa của
đạo Phật, nghĩa là phải có nó làm nền tảng thì mọi
Phật Pháp mới là
Phật pháp, mới là
chân thật nghĩa. Nó chính là suối nguồn của
Đại Thừa vậy. Dù một
hành giả đắc
Niết Bàn, mà chưa có nội kiến nầy, thì
Niết Bàn kia chưa phải là
chân thật, chưa phải là
liễu nghĩa. Dù một
hành giả giác ngộ, mà nội kiến nầy chưa có được, thì
giác ngộ kia chưa phải là
chân thật, chưa phải là
liễu nghĩa.
Do đó, nếu
chúng ta không có cùng với
Tăng Triệu cái nội kiến
như thật kia, thì mọi sự
hiểu biết của
chúng ta về
chân lý vật bất thiên
hoàn toàn không đúng nghĩa và không
chân thật.
Dĩ nhiên chúng ta sẽ cố
giảng giải cái
ý tưởng nghịch lý lập dị nầy bằng cái
ý thức đầy khái niệm của
chúng ta mà
chúng ta vẫn hằng tự hào. Đôi khi niềm kiêu hãnh
vượt quá giới hạn,
chúng ta sẽ dễ dàng
chỉ trích và
công kích sự thiếu mạch lạc và thiếu
hệ thống của bổn luận, hoặc ép đặt nó vào một trào lưu
tư tưởng nào đó do sự
chủ quan võ đoán của niềm
kiêu ngạo, song phản ngược lại,
chúng ta lại vỗ ngực tự hào là khách quan với
lịch sử làm bằng.
Nhưng nếu đã không thế, lại không có được cùng một nội kiến với
Tăng Triệu, thì làm sao để hiểu được vật bất thiên cho
đúng đắn đây? Có lẽ
vấn đề ở đây
trở thành vấn đề chung của
Đại Thừa.
Các
thánh giả Đại Thừa xuất hiện trong đời nỗ lực lập luận hết sức tinh tế phân minh không để cho
con người hiểu, mà giúp cho
con người tin. Khi chưa
đạt được một nội
kiến chân chánh, "hiểu" là một
lầm lẫn đầy
tai hại, nó chỉ là con đẻ của cái
ý thức kiêu ngạo mà vốn dĩ là
ngu xuẩn, chứ chẳng
liên hệ gì tới
thực chất của
vấn đề. Trong khi "tin" là đón nhận vào để ấp ủ cái hạt mầm
chân chính nọ
cho đến một ngày nào nó bừng nở ra thành chính nội kiến của
cá nhân vậy. Thế nên
Đại Thừa dùng
lý trí tích cực song chỉ khơi dậy
lòng tin nơi
con người. Vật bất thiên dùng
lý luận để
thuyết phục chúng ta tin trước khi một nội
kiến chân thật
thành hình. Phải biết,
nỗ lực tìm hiểu đã
sai lạc ngay từ
bản chất.
Sau cùng, vật bất thiên cũng chỉ là một cách nói. Khi đã
đạt được nội
kiến chân chánh, người ấy có được
năng lực tự tại để
lập luận trên mọi
vấn đề. Vật bất
thiên không phải là
đại biểu duy nhất của nội kiến kia vậy. Nhất là những
vấn đề về Phật và
Phật Pháp. Vì Phật là
hiện thân của
sự thật, của
vạn hữu, thế nên cái nội kiến thấy được
vạn hữu như chúng là, chính là cái thấy
chân thật về Phật vậy.
Đại Thừa minh giải về
sự thật nầy của
Đức Phật và kêu gọi
lòng tin của
chúng ta về
sự thật ấy.
Tăng Triệu cũng hé lộ ít nhiều cái thấy của ông về Phật hạnh: "Cho nên
Như Lai,
công đức giữ lại vạn đời vẫn thường còn, đạo suốt trăm kiếp vẫn bền chắc). Như thế
đức Phật chưa từng
nhập Niết Bàn, nghĩa là chưa từng đi qua mất. Phật vẫn ở yên nơi thời của Ngài,
nếu không thì không có thời
hiện tại nầy với hơn hai nghìn năm qua. Thế nên bảo rằng
Trí Giả Đại Sư nhập
Pháp Hoa Tam Muội thấy Phật vẫn đang
thuyết pháp,
hội Linh Sơn chưa hề tan. Điều ấy với
chúng ta là
hoang đường, nhưng với nội
kiến chân chánh nó là một
sự kiện thực nghiệm
cụ thể mà không cần
chúng ta phải dời khỏi ngay nơi đây và ngay lúc nầy.
Kinh điển Đại Thừa trình bày về
trí huệ Phật,
công đức Phật và
cảnh giới Phật
hết sức kỳ ảo và khó hiểu.
Nỗ lực của các nhà
Đại Thừa là trình bày sao cho
minh bạch các điều ấy. Nên
tóm lại vấn đề chính yếu là
vấn đề về
Đại Thừa. Làm sao để
chúng sanh có
đủ sức tin vào
Đại Thừa đây, khi mà
Đại Thừa quá
thâm sâu mà trí
hiểu biết của
chúng sanh lại quá cạn cợt? Bao
nghi ngờ đã nẩy sinh:
Đại Thừa có phải là
Phật thuyết không?
Đại Thừa có phải là
đạo Phật Không?
Đại Thừa có phải có
thực tế xác
thực không, hay chỉ triết lý suông và chỉ nói toàn chuyện
nghịch lý hoang đường viễn vông? Hoặc đâu là
lịch sử chính xác của
Đại Thừa hay của các
kinh điển Đại Thừa? Rồi lại còn
Đại Thừa chỉ là của
Ấn Độ mà thôi, qua Trung Hoa lại là lai căn
Lão Giáo và không còn gì là
Đại Thừa nữa?
Mục tiêu của
Đại Thừa là
cứu độ chúng sinh. Công việc
cứu độ nầy đòi hỏi một
nỗ lực ngoài sức tưởng tượng, trong khi
chúng sinh lại quá
rắc rối và đầy
kiêu căng, dù
thực chất là
yếu đuối và cạn cợt, đã thế lại không màng gì tới tấc dạ thiết tha của
Đại Thừa. Các
hành giả Đại Thừa ngày nay, nếu còn có được ít nhiều, phải làm sao đây? Song thật ra nỗi khó khăn nầy không phải là
vấn đề căn bản của
hành giả Đại Thừa. Một
hành giả Đại Thừa trước tiên không
cần phải quan tâm gì đến
thời chánh pháp hay
mạt pháp, mà chỉ cần phát triển nội kiến
quan sát như thật cái
thế gian đang
hiện hành ngay đây mà thôi. Dù là thời nào hay ở đâu, như thời
đức Phật tại
Xá Vệ Quốc hay thời tàn ác tại đất nước
nghèo nàn thì cũng chỉ là một thời
duyên khởi mà thôi.
Sự quán sát
duyên khởi đúng cách sẽ đem đến kết quả của cùng một
trí huệ siêu việt. Chẳng phải chỉ có thời
đức Phật, các pháp mới "vô sở tùng lai, diệc
vô sở khứ", cũng chẳng phải chỉ có một thời
Tăng Triệu vạn vật mới "bất thiên". Nhưng ngay ở cái
thời mạt pháp nầy, vật vẫn bất thiên và vẫn "vô sở tùng lai, khứ diệc
vô sở chí" như thường. Bài học "vật bất thiên"
quả thật nào phải của
cá nhân Tăng Triệu, mà thật ra lại chính là
sự thật của
chúng ta ngay đây và tức thì.
Thích
Nhất ChânĐọc thêm:
●
TRIỆU LUẬN LƯỢC GIẢI - Tác Giả: Tăng Triệu Đại Sư