CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO PHẬT
Đoàn Trung Còn
LUẬT TÔNG
Khai tổ: Đạo Tuyên Luật sư ở Trung Hoa
Giám Chân[23] ở Nhật vào thế kỷ 8.
Giáo lý căn bản: Ba tác phẩm của Đạo Tuyên về Tạng Luật, nhất là Tứ phần luật của phái Đàm-vô-đức bộ.
Tông chỉ: Giới luật là yếu tố quan trọng nhất. Người tu phải bắt đầu từ việc nghiêm trì giới luật thì mới có thể tu chứng được bất kỳ pháp môn nào khác.
LỊCH SỬ
Luật tạng là một phần trong
giáo lý nguyên thủy từ thời
đức Phật, nhưng không được
thuyết giảng trọn vẹn một lần.
Trong suốt thời gian hành hóa khắp nơi trên xứ
Ấn Độ,
tùy theo từng
hoàn cảnh phát sinh
cụ thể mà
đức Phật chế ra từng điều luật và dạy
đệ tử phải
lưu truyền về sau.
Cho đến khi Phật nhập Niết-bàn, ngài có căn dặn lại hàng
tăng chúng về sau
nhất thiết phải xem
giới luật là bậc thầy để nương theo trên đường
tu học.
Vâng theo lời dạy của Phật, các vị
đại đệ tử của ngài đều rất chú trọng đến
giới luật.
Ngay sau khi Phật
nhập diệt, ngài Ưu-ba-ly được
giáo hội ủy thác trùng tuyên lại phần
giới luật trong khi
kết tập kinh điển lần thứ nhất. Những gì ngài nhắc lại đều được ghi vào
Luật tạng.
Tại
Ấn Độ, không có một
bộ phái riêng biệt chuyên về
giới luật, mà tất cả các
bộ phái đều vâng giữ theo
giới luật do Phật đã chế định.
Tuy nhiên, do
thời gian và sự chia tách, nên mỗi
bộ phái cũng có những sự khác biệt
nhất định.
Khoảng 100 năm sau Phật
nhập diệt, năm vị
đệ tử của ngài Ưu-ba-cúc-đa[24]
phân chia thành năm
bộ phái riêng, đều soạn lại phần
giới luật cho
bộ phái của mình. Các
bộ phái ấy là:
1.
Pháp tạng bộ[25]
2.
Nhất thiết hữu bộ3. Âm quang bộ
4.
Hóa địa bộ5. Khả
trụ tử bộTrong các
bộ phái này, phần
Luật tạng của
Pháp tạng bộ được các ngài
Trúc Phật Niệm và Phật-đà-da-xá dịch sang chữ Hán
vào khoảng đầu thế kỷ thứ 5, đời Hậu Tần, với tên là
Tứ phần luật, gồm 60 quyển.[26]
Vào đời
Tam Quốc, khoảng thế kỷ 3, ngài Đàm-ma-ca-la,[27] một vị
tăng Ấn Độ sang Trung Hoa khởi sự việc dạy luật.
Cho đến đời nhà Đường (620 – 906), bộ
Tứ phần luật đã được hầu như tất cả
chư tăng ở Trung Hoa
chấp nhận và
vâng theo.
Người có công lớn nhất trong việc
thúc đẩy sự hình thành
Luật tông là ngài
Đạo Tuyên (596 – 667), còn có
danh hiệu là
Nam Sơn Đại sư, khoảng thế kỷ 7,
trong đời nhà Đường.
Vì vậy ngài được xem là
khai tổ sáng lập Luật tông ở Trung Hoa. Ngài
ẩn cư trên đỉnh núi
Nam Sơn,
tinh thông cả ba
tạng Kinh, Luật và Luận, nhưng chú trọng nhất vào tạng Luật. Ngài
biên soạn và dịch rất nhiều kinh sách, hiện nay trong
Đại Tạng Kinh còn lưu giữ được 20 bộ, gồm 110 quyển. Riêng về bộ
Tứ phần luật, ngài có soạn ra ba tập sách
giá trị để người học dùng kèm theo. Đó là bộ
Tứ phần luật San phồn
bổ khuyết hành sự sao, gồm 12 quyển; bộ
Tứ phần luật San bổ
tùy cơ yết-ma, gồm 2 quyển; và bộ
Tứ phần luật Tỳ-kheo hàm chú
giới bản, gồm 2 quyển.
Sau ngài
Đạo Tuyên, còn có một vị nữa cũng có công lớn trong việc xiển dương
Luật tông. Vị này là tổ thứ 15 của
Luật tông, hiệu là
Nguyên Chiếu (1048 – 1116). Ngài
thông minh,
học rộng, nên người đời
xưng tụng là
Đại Trí Thiền sư. Ngài có soạn bộ
Tứ phần luật Hành sự sao tư trì ký, gồm 16 quyển, giúp cho việc nghiêm
trì giới luật được
thúc đẩy mạnh mẽ hơn nhiều. Vì thế, nhiều người vẫn xem ngài là Tổ
sáng lập thứ hai, chỉ đứng sau ngài
Đạo Tuyên mà thôi.
Trong thế kỷ 8, ngài
Giám Chân[28] (688 – 763) truyền
Luật tông sang Nhật,
trở thành vị
khai tổ của
Luật tông ở nước này. Ngài là người
Dương Châu, Trung Hoa. Năm 14 tuổi theo cha vào chùa, nhìn thấy
tượng Phật nên
cảm động mà
phát nguyện xuất gia. Ngài học
thông thạo ba
tạng kinh điển, nhưng
đặc biệt chú trọng việc nghiêm
trì giới luật. Năm ngài 55 tuổi, có 2 vị tăng người
Nhật Bản khẩn thiết
thỉnh cầu ngài sang hoằng hóa ở
Nhật Bản. Ngài nhận lời và
lập chí nguyện sang Nhật.
Môn đồ rất nhiều người
ngăn cản, vì vào
lúc ấy đường sang Nhật rất
gian nan, nguy hiểm. Ngài nói với
môn đồ rằng: “Đây là vì việc rộng truyền
chánh pháp, dù có
hy sinh tính mạng cũng chẳng hề gì.
Nếu không có ai cùng đi thì
một mình ta đi vậy.”
Nghe như vậy, có 21 vị
đệ tử cùng xin
đi theo, nhưng thất bại, không đến được
Nhật Bản. Ngài vẫn
kiên trì tiếp tục tổ chức thêm nhiều chuyến đi khác nữa. Đến lần thứ 6, sau 11 năm gian khổ, ngài mới đến được Nại Lương,[29]
Nhật Bản vào năm 754, thuộc
thời đại Thiên Bình,
mang theo được rất nhiều kinh sách.
Trong suốt các cuộc
hành trình, có tổng cộng 36 vị tỳ-kheo bỏ mạng
dọc đường, và chính ngài cũng bị mù hai mắt.
Lúc bấy giờ, Nhật hoàng và cả nước Nhật đều ngưỡng mộ,
tôn sùng ngài, nên việc hoằng hóa
vô cùng thuận lợi. Ngài được Nhật hoàng phong tặng là
Truyền Đăng Đại pháp sư. Trong
thời gian hoằng pháp, ngài cũng
đồng thời giúp phát triển rất nhiều cho ngành y học của
Nhật Bản, vì ngài vốn rất
tinh thông y học. Sau 10 năm hoằng hóa với những
thành quả vô cùng to lớn, ngài
thị tịch tại Nhật vào năm 763.
Trong
thời gian hoằng hóa của ngài, nhiều
giới đàn được lập ra ở khắp nơi, và số người xin
thọ giới ngày càng đông hơn, khiến cho
Luật tông trở thành một chi phái được nhiều người
sùng tín.
HỌC THUYẾT
Luật tông ngay từ thời đức Phật tuy không hề được xem là một bộ phái riêng biệt, nhưng rất được chú trọng. Một trong những lời di huấn của Phật trước khi nhập Niết-bàn là dặn dò chư tỳ-kheo nhất thiết phải lấy giới luật làm thầy. Học thuyết của Luật tông về sau phát triển quan điểm ấy, cho rằng người ta trước hết phải chuyên giữ giới luật cho thật nghiêm mật, thì mới có thể nhờ đó mà đạt được sự an định thân tâm. Từ chỗ an định thân tâm, mới phát sinh trí huệ.[30]
Đạo Phật được bảo tồn lâu dài là nhờ giới luật. Hàng tăng ni xuất gia được tôn trọng sùng bái là nhờ các vị nghiêm giữ giới luật. Thậm chí cư sĩ mà giữ trọn được 5 giới của mình cũng chính là nguồn gốc của sự an vui, thanh thản. Từ xưa đến nay, tất cả các tông phái khác nhau, dù không phải là Luật tông nhưng hết thảy cũng đều xem trọng giới luật.
Trong lễ bố-tát, tức là nghi thức tụng giới mỗi tháng hai lần, có đoạn mở đầu nói rõ ý nghĩa quan trọng của việc giữ giới như sau:
Như người bị què chân,
Không thể đi đứng được.
Cũng vậy, người phạm giới,
Không sanh cõi trời, người.[31]
Người muốn sanh cõi trời,
Hoặc trong chốn nhân gian,
Phải thường giữ giới luật,
Không để cho hủy phạm.
Như xe vào đường hiểm,
Bị mất chốt, gãy trục.
Người phạm giới cũng vậy,
Giờ sắp chết lo sợ.[32]
Như người tự soi gương,
Đẹp, xấu sinh ưa, chán.[33]
Nghe thuyết giới cũng vậy,
Không hủy phạm, vui mừng.[34]
Như đôi bên giao chiến,
Mạnh tiến, yếu phải lùi.
Nghe thuyết giới cũng vậy,
Trong sạch được an ổn.[35]
Phần lớn kinh điển Phật giáo đều được phân chia thành một trong hai khuynh hướng, Đại thừa hoặc Tiểu thừa. Riêng đối với những phần thuộc về giới luật thì cả hai khuynh hướng Đại thừa và Tiểu thừa đều tin nhận và vâng theo không hề có sự phân biệt, chia tách. Người ta chỉ thấy có sự khác biệt về quan điểm, về phương thức hành trì giới luật, chứ không thấy có những phần giới luật riêng biệt cho Đại thừa hoặc Tiểu thừa.
Tuy nhiên, trong nội dung giới luật có sự phân chia thích hợp cho các mức độ tu tập khác nhau. Như đối với cư sĩ tại gia có 5 giới, hoặc có thể tùy ý phát nguyện thọ Bát quan trai gồm 8 giới; đối với sa-di hoặc sa-di ni cũng có sự khác biệt về giới luật, và đơn giản hơn nhiều so với phần giới luật của các vị tỳ-kheo; và giới luật của tỳ-kheo ni lại còn nghiêm ngặt hơn nữa...
Khác với các phần trong giáo pháp như tạng Kinh, tạng Luật, vốn được truyền bá rộng rãi không giới hạn, phần giới luật được truyền dạy với sự chọn lựa chỉ dành cho các đối tượng thích hợp. Và hơn thế nữa, người muốn thọ giới phải được sự truyền dạy chính thức của các vị thầy có đủ đức độ, phẩm hạnh, và phải được truyền giới thông qua một nghi lễ nghiêm trang tổ chức tại giới đàn.
Tuy rằng giới luật giữ một vai trò rất quan trọng trong Phật giáo, như Luật tông với tư cách là một tông phái độc lập lại không tạo được ảnh hưởng lớn lắm, và cũng không tồn tại lâu. Điều này xét cho cùng cũng có thể hiểu được, bởi vì giới luật tuy là một phần quan trọng, nhưng không thể xem là một học thuyết hay giáo lý duy nhất để giúp người tu tập đạt đến sự giải thoát. Người ta cần có những phương thức tu tập cụ thể để thực hành song song với việc giữ giới thì mới có thể đạt được kết quả mong muốn trong sự tu tập.