TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn
V. Chư Tổ sư Đông độ
SÁU ĐỜI TỔ NỐI TRUYỀN Y BÁT
Đức Phật Thích-ca đản sanh vào năm 563
trước Công nguyên. Ngài truyền
Chánh pháp cho Ma-ha Ca-diếp làm Tổ thứ nhất. Từ đó, có sự
tiếp nối nhau giữa chư
Tổ sư ở
Tây thiên mà
gìn giữ và
truyền bá mối đạo.
Cho đến đời Tổ thứ hai mươi tám là
Bồ-đề Đạt-ma, vị này theo lời
phó chúc của Tổ đời hai mươi bảy, mang ánh sáng
Phật pháp truyền sang Trung Hoa.
Mặc dù
đạo Phật lúc bấy giờ đã được người Trung Hoa biết đến khá nhiều. Chính vua
Lương Võ Đế cũng là một
Phật tử mộ đạo. Nhưng
giáo lý chân truyền chưa được ai truyền dạy, nên người học Phật chưa thể nắm được
yếu chỉ của
Phật pháp, chưa thể thực sự tìm được đến chỗ
giải thoát.
Vị Tổ
chân truyền đời thứ hai mươi tám của
Ấn Độ đặt chân lên đất Trung Hoa năm 520 Dương lịch, và tịch ở nước ấy vào năm 529, tức là hoằng hóa ở Trung hoa được chín năm.
Bồ-đề Đạt-ma, theo
lịch đại Tổ sư Tây Thiên, là Tổ đời thứ hai mươi tám, tức là vị Tổ sau rốt được
chân truyền. Kể theo
lịch đại Tổ sư Đông độ tiếp nối truyền y bát, thì ngài là vị
Sơ Tổ. Và vị
Tổ sư Đông độ sau rốt được
truyền y bát là Tổ đời thứ sáu,
Đại sư Huệ Năng,
tịch diệt năm 713. Sau đời
Lục Tổ Huệ Năng,
Thiền tông chỉ
truyền pháp, không còn lệ
truyền y bát nữa.
Sáu đời
Tổ sư ở Trung Hoa được kể ra như sau:
1.
Bồ-đề Đạt-ma(菩提達磨)
2.
Huệ Khả (慧可)
3.
Tăng Xán (僧璨)
4.
Đạo Tín (道信)
5.
Hoằng Nhẫn (弘忍)
6.
Huệ Năng (惠能)
1.
SƠ TỔ BỒ-ĐỀ ĐẠT-MA
初祖菩提達磨
Ngài là
Tổ sư đời hai mươi tám ở
Tây Thiên, và
Tổ sư thứ nhất ở
Đông độ. Ngài là hoàng tử thứ ba, con út vua Hương Chí nước Ca-xi ở miền Nam
Ấn Độ, ngài
đắc pháp do Tổ đời thứ hai mươi bảy Bát-nhã Đa-la phó truyền.
Sau khi
hóa đạo ở
Ấn Độ, ngài theo lời
di ngôn của thầy sang Trung Hoa mà
truyền pháp. Ngài
đi theo đường biển, đến Quảng Đông, Trung Hoa vào năm 520. Vua Võ Đế nhà Lương ở kinh
thành Kiến Khương là người rất sùng mộ
Phật pháp, có thỉnh
Tổ sư đến
thuyết pháp. Nhưng vua chẳng
lãnh hội được
diệu pháp do Tổ truyền giảng.
Bấy giờ ở Trung Hoa người ta cũng
thờ Phật trọng Tăng, nhưng chưa có người
đắc đạo chân truyền giáo hóa, nên cách hiểu về
Phật pháp còn nhiều sai lệch. Chính vua
Lương Võ Đế là một người rất
mộ đạo, nhưng cũng chưa hiểu đúng được
Chánh pháp.
Tuy được gặp
Tổ sư nhưng vua
Lương Võ Đế và các tăng sĩ
Phật giáo lúc bấy giờ ở đó không hội được ý Tổ.
Biết
cơ duyên chưa đến,
Tổ sư liền bỏ
đi lên Tung sơn, vào một hang động vắng vẻ mà
ngồi yên lặng đến chín năm. Người đời không hiểu, gọi ngài là “Thầy Bà-la-môn ngồi nhìn vách”.
Thuở ấy có một vị tăng tên là
Thần Quang, là người
học rộng biết nhiều,
trí tuệ sâu rộng. Nghe chuyện
Tổ sư ngồi ngó vách,
Thần Quang biết là bậc
siêu phàm, liền tìm đến ra mắt.
Thần Quang đến nơi,
lễ bái nhiều lần, Tổ vẫn lặng thinh ngồi ngó vách, không
để ý gì đến.
Thần Quang tự nghĩ: “Người xưa
cầu đạo không tiếc
thân mạng. Nay ta phải tỏ
lòng thành mới mong được
hỏi đạo.”
Thần Quang liền đứng trước cửa động suốt đêm không ngủ. Khi ấy trời giá lạnh, đến sáng tuyết rơi phủ đầy người, ngập lên quá đầu gối mà
Thần Quang vẫn
đứng yên chắp tay hướng về phía
Tổ sư, nét mặt không hề thay đổi.
Tổ sư biết người thật lòng
cầu đạo, liền quay ra hỏi:
“Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết lạnh, trong lòng muốn cầu chuyện gì vậy?”
“Đệ tử muốn cầu
diệu đạo.”
Tổ sư nói:
“Diệu đạo của chư Phật phải
trải qua rất nhiều khó khăn mới mong cầu được. Nay ngươi chỉ qua một đêm chịu lạnh mà muốn được
diệu đạo hay sao?”
Thần Quang biết mình đã gặp được bậc
chân truyền,
quyết lòng cầu đạo, liền tự tay dùng dao bén cắt đứt cánh tay trái mà dâng lên
trước mặt Tổ sư.
Tổ
Bồ-đề Đạt-ma liền dạy rằng:
“Chư Phật
cầu đạo đều vì pháp
quên mình. Nay ngươi tự chặt tay
cầu đạo, cũng có thể nói là có
thành ý. Lòng ngươi có chỗ nào muốn hỏi, cứ hỏi đi.”
Thần Quang thưa:
“Tâm con chưa an, xin thầy truyền cho
pháp an tâm.”
Tổ sư nói:
“Ngươi hãy đưa tâm đây, ta sẽ
an tâm cho.”
Thần Quang thưa:
“Con tìm
tâm không thể được.”
Tổ nói:
“Ta
an tâm cho ngươi rồi đó.”
Thần Quang nghe xong
đại ngộ.
Tổ sư liền đổi tên cho là
Huệ Khả.
Về sau, Tổ
Bồ-đề Đạt-ma truyền y bát cho
Huệ Khả. Ngài đến Trung Hoa là
Sơ Tổ, nên
Huệ Khả nối
tiếp theo ngài mà làm Nhị Tổ của
Thiền tông Trung Hoa.
Sơ tổ có
bài kệ truyền pháp rằng:
Ngô bổn lai
tư độ,
Truyền Pháp cứu
mê tình;
Nhất
Hoa khai Ngũ Diệp.
Kết quả
tự nhiên thành.
吾本來茲土
傳法救迷情
一華開五葉
結果自然成
Dịch nghĩa
Vốn ta lại đất này,
Truyền pháp cứu
mê tình;
Một hoa trổ năm cánh,
Kết quả
tự nhiên thành.
Sau khi
truyền pháp cho
Huệ Khả rồi, ngài ngồi
an nhiên mà tịch. Vua nước Ngụy truyền đem
kim quang đến khâm liệm thân ngài và
an táng tại núi Hùng Nhĩ.
Ba năm sau, có một người tên Châu Vân, được vua nước Ngụy phái đi sứ về, gặp Tổ Đạt-ma đi bộ trên đường núi, quảy một chiếc dép nơi đầu gậy. Vân hỏi rằng: “Thầy đi về đâu?” Tổ đáp: “Đi về
Tây Thiên.”
Vân lấy làm lạ, khi về đến triều, đem việc ấy trình lên vua. Ngụy đế bèn ra lệnh quật mồ của Tổ mà xem. Chỉ thấy lưu lại trong quan tài một chiếc dép mà thôi. Vua ra lệnh lấy chiếc dép ấy lên, để
thờ cúng tại
chùa Thiếu Lâm.
Vì chuyện ấy, nên trong các tranh tượng của Tổ Đạt-ma sau này, đều thấy ngài quảy một chiếc dép trên đầu gậy mà đi.
2.
NHỊ TỔ HUỆ KHẢ
二祖慧可
Đại sư Huệ Khả là người Bắc Ngụy, thành
Lạc dương, họ Cơ, trước lấy hiệu là
Thần Quang. Sau ngài được pháp của
Bồ-đề Đạt-ma ở
chùa Thiếu lâm tại núi Tung. Tổ Đạt-ma đổi hiệu của ngài ra là
Huệ Khả.
Trong “Phật Tổ
lịch đại thông tải” có chép: Có vị Tăng tên
Thần Quang, đến
tham kiến Bồ-đề Đạt-ma tại
chùa Thiếu Lâm.
Sơ Tổ đang
ngồi thiền, day mặt vào vách.
Thần Quang bền chí đứng đợi, chẳng động. Người đứng giữa trời suốt đêm, tuyết đổ xuống phủ cao hơn đầu gối. Tổ Đạt-ma thấy vậy hỏi rằng:
“Ngươi đứng
đã lâu giữa tuyết, vậy muốn cầu điều gì?”
“Xin
Hòa thượng rủ
lòng từ bi, mở cửa
cam lộ, quảng độ
chúng sanh.”
Tổ đáp: “Đạo
vô thượng và
mầu nhiệm của chư Phật,
trải qua nhiều kiếp cũng khó gặp được. Những kẻ
trí đức nhỏ hẹp, tâm ý khinh mạn, há dễ mong được
chân thừa hay sao?”
Thần Quang nghe vậy, muốn tỏ
lòng thành, bèn lấy dao bén tự chặt đứt cánh tay trái của mình dâng lên
trước mặt Tổ.
Đạt Ma biết là đây là bậc
pháp khí, liền đổi tên
Thần Quang ra là
Huệ Khả.
Huệ Khả bạch rằng: “Pháp ấn của chư Phật,
đệ tử có thể được chăng?”
Tổ đáp: “Pháp ấn của chư Phật chẳng phải
do nơi người khác mà được.”
Huệ Khả lại nói: “Tâm
đệ tử bất an, xin thầy
an tâm cho.”
Tổ bảo: “Đưa tâm của ngươi đây, ta sẽ
an tâm cho.”
Một lúc lâu sau,
Huệ Khả mới đáp: “Đệ tử tìm
tâm không thấy.”
Tổ nói: “Ta
an tâm cho ngươi rồi đó.”
Chẳng bao lâu,
Sơ Tổ tịch.
Huệ Khả được
truyền pháp, nối tiếp làm
Tổ sư đời thứ hai. Khi ấy là năm đầu niên hiệu
Đại Đồng triều vua
Lương Võ Đế, tức là năm 529 Dương lịch.
Nhị Tổ
Huệ Khả về sau lại
truyền y bát cho
Đại sư Tăng Xán. Ngài tịch vào năm 107 tuổi, tại Quảng Thành. Vua
Đức Tông nhà Đường có thụy phong cho ngài là Đại Tổ
Thiền sư.
Lúc
phó Pháp và
truyền Y Bát cho
Tăng Xán, Tổ có đọc kệ rằng:
Bổn lai duyên hữu địa,
Nhân địa chúng hoa sanh.
Bổn lai
vô hữu chủng,
Hoa diệt bất tằng sanh.
本來緣有地
因地種華生
本來無有種
華亦不曾生。
Dịch nghĩa
Xưa nay nhờ nơi mặt đất,
Muôn loài hoa cỏ đều sanh.
Xưa nay chưa từng có giống,
Hoa cũng chưa từng sanh ra.
3.
TAM TỔ TĂNG XÁN
三祖僧璨
Đại sư Tăng Xán khi còn làm
cư sĩ, thân có bệnh ghẻ lở, đến
yết kiến Tổ
Huệ Khả và thưa rằng: “Đệ tử bị bệnh tật từ trước vướng vít theo mãi. Nay thỉnh
Hòa thượng sám hối tội lỗi cho.”
Nhị Tổ đem lý tội tánh vốn không mà giảng cho nghe.
Tăng Xán lại hỏi rằng: “Nay
đệ tử được thấy
Hòa thượng, tức là Tăng. Nhưng
đệ tử thật chưa biết Phật và Pháp là gì.”
Tổ đáp: “Tâm là Phật, Tâm là Pháp. Phật và Pháp vốn không hai,
Tăng bảo lại cũng như vậy.”
Tăng Xán nói: “Nay tôi mới biết tội tánh vốn chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở khoảng giữa. Nó cũng như Tâm vậy.”
Tăng Xán liền lễ Tổ
cầu xin xuất gia. Tổ
Huệ Khả biết là bậc
pháp khí, bèn thâu nhận và cho
thọ giới cụ túc, lại đặt tên hiệu cho là
Tăng Xán. Bệnh tật lâu năm của người
dần dần tiêu mất. Ngài
làm thị giả cho Nhị Tổ trong hai năm. Khi thấy
tâm đạo của ngài đã
thuần thục, Tổ liền pháp và
truyền y bát.
Nhị Tổ lại dạy rằng: “Ngươi được
truyền pháp rồi, nên vào núi sâu mà ở. Lúc này chưa phải
thời cơ để
hành đạo. Trong nước đang có nạn. Và qua đến đời Hậu Châu thì sẽ có pháp nạn.”
Sau đó,
Tổ Tăng Xán bèn
đi vào núi Tư Không, khi ở chỗ này, lúc ở chỗ khác. Ngài vào núi La-phù, vì chúng mà quảng tuyên chỗ
tâm yếu. Ngài
lập Pháp hội,
khai hóa nơi cội cây.
Đến triều
Huyền Tông (713 – 755) nhà Đường, có
Sắc thụy phong cho ngài là Giám Trí Đại
Thiền sư.
Trước khi tịch, ngài
truyền y bát cho
Đại sư Đạo Tín làm Tổ đời thứ tư, có
bài kệ truyền pháp rằng:
Hoa chủng tuy
nhân địa,
Tùng
địa chủng hoa sanh;
Nhược
vô nhân hạ chủng,
Hoa Địa tận
vô sanh.
華種雖因地
從地種華生
若無人下種
華地盡無生。
Dịch nghĩa
Giống hoa tuy cậy đất điền,
Nương nhờ giống đất, hoa liền sanh ra.
Không nhân, gieo giống chi mà?
Cả hoa với đất đều là không sanh.
4.
TỨ TỔ ĐẠO TÍN
四祖道信
Tổ sư Đông Độ đời thứ tư,
Đại sư Đạo Tín, sanh tại huyện
Quảng Tế, tỉnh Kỳ Châu, họ Tư mã. Từ lúc bé thơ, ngài
tỏ ra khác lạ với đời, sùng mộ
Không tông với các môn
giải thoát.
Năm mười bốn tuổi, ngài đến
lễ bái Tổ đời thứ ba là
Tăng Xán, bạch rằng:
“Xin
Hòa thượng mở
pháp môn giải thoát.”
Tổ hỏi:
“Có ai buộc trói ngươi sao?”
Đáp rằng:
“Không ai
trói buộc cả.”
“Vậy sao lại cầu giải thoát?”
Nghe xong,
Đạo Tín liền
đại ngộ.
Sau khi được
truyền pháp, ngài
Đạo Tín giữ bền
tâm chí, chẳng hề
nằm ngủ. Ngài có
trở về Kỳ Châu, trụ tại núi Phá Đầu, mở mang
Phật giáo,
giáo hóa chúng sanh,
đạo pháp rất
thâm sâu huyền diệu. Vua Thái Tông nhà Đường nghe
danh tiếng ngài, ra thánh chỉ triệu ngài về kinh đô. Ngài từ tạ một cách khéo léo. Mời đến hai lần, nhưng ngài vẫn không đến. Vua đành thôi, và gởi
trân bảo cùng hàng lụa
ban tặng cho ngài.
Tổ
viên tịch tại núi Phá Đầu. Đến
triều Đại Tông nhà Đường, có
sắc thụy phong ngài là
Đại Y Thiền sư và tòa tháp của ngài là
Từ Vân Tháp.
Ngài truyền lại cho
đệ tử là
Hoằng Nhẫn tiếp nối làm Tổ thứ năm, có
bài kệ rằng:
Hoa chủng hữu sanh tánh,
Nhân địa, hoa
sanh sanh.
Đại duyên dữ tánh hiệp,
Đương
sanh sanh bất sanh.
華種有生性
因地華生生
大緣與信合
當生生不生
Dịch nghĩa
Giống hoa
vẫn có tánh sanh,
Nhân nơi địa cuộc, hoa
sanh sanh thường.
Đại duyên với tánh hiệp nương,
Rồi thì
sanh hóa, nhưng dường chẳng sanh.
5.
NGŨ TỔ HOẰNG NHẪN
五祖弘忍
Đại sư Hoằng Nhẫn sanh ra tại huyện
Hoàng Mai, tỉnh Kỳ Châu, mẹ là người họ Châu. Ngài hoằng
hóa Phật Pháp vào thế kỷ thứ bảy Dương lịch, sau khi
thọ lãnh Chánh pháp làm Tổ đời thứ năm, do Tứ
Tổ Đạo Tín phó truyền.
Ngay từ thuở bé, ngài đã có
cốt cách đặt biệt, khác lạ hơn những đứa trẻ thường.
Truyện kể rằng: Có một
vị đạo nhân già tên là Tài Tùng đến
cầu đạo nơi Tứ
Tổ Đạo Tín. Tổ dạy rằng: “Nhà ngươi già rồi. Nếu ta
truyền pháp cho ngươi, thì ngươi làm
lợi ích cho đời chẳng được lâu. Như ngươi
đầu thai trở lại, ta sẽ nhẫn mà đợi”. Tài Tùng
ưng thuận ra đi. Thấy người con gái họ Châu đang giặt áo dưới khe, ông gọi mà nói rằng: “Cho tôi ngủ nhờ một đêm.” Rồi ngay
lúc ấy liền
mạng chung, gá thành
bào thai nơi nàng ấy.
Cha mẹ thấy con mình
vô cớ mà có chữa, bèn đuổi đi. Nàng nhẫn nhịn đối với khổ nhục. Đúng kỳ, sanh ra một trai. Vì không có cha, nên
thuở ấy người trong xứ gọi trẻ ấy là đứa trẻ “không có họ”.
Mẹ con đi
xin ăn mà nuôi nhau. Đến bảy tuổi, trẻ ấy nhân đi qua đường, gặp Tứ Tổ. Ngài gọi:
“Này đứa bé không họ kia.”
Đứa trẻ
trả lời:
“Tôi có họ.”
“Vậy ngươi họ gì?”
“Tôi họ Phật.”
Tổ nhớ lại lời hẹn xưa với ông đạo già Tài Tùng. Ngài liền nói với người mẹ, xin đứa trẻ đem về nuôi. Ngài lại đặt tên cho: vì ông nên Tổ nhẫn chịu, không chết mà đợi ông, lại vì mẹ ông phải nhẫn chịu khổ nhục mà sanh ra ông, nên ngài đặt tên cho là
Hoằng Nhẫn.
Tổ
thu nhận Hoằng Nhẫn làm
đệ tử, dạy cho học
giáo pháp.
Hoằng Nhẫn thông minh hơn người nên về sau
trở thành môn đệ giỏi nhất, được ngài
truyền y bát cho nối tiếp mà làm Tổ đời thứ năm.
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thường
hóa đạo tại chùa Đông Thiền, huyện
Hoàng Mai, tỉnh Kỳ Châu,
môn đồ theo học có hơn ngàn người. Ngài thường khuyên hàng
xuất gia cũng như
tại gia nên trì
tụng kinh Kim Cang, có thể tự mình thấy tánh và
chứng đạo thành Phật.
Vào năm 661 Dương lịch, đời vua Cao Tông nhà Đường, có ngài
Huệ Năng trí huệ khác thường, hiểu được lý
Đốn giáo Chân không,
Ngũ Tổ thân
truyền y bát cho
Huệ Năng làm Tổ thứ sáu.
Kể từ
Lục Tổ Huệ Năng về sau, chỉ còn
truyền pháp cho
môn đệ, không còn
truyền y bát nữa.
Huệ Năng đắc pháp rồi,
vâng theo ý Tổ mà ra đi. Ba năm sau, vào năm 663,
Ngũ Tổ viên tịch.
Sau khi
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn tịch, đến đời vua Đại Tông nhà Đường, triều đình ra
sắc thụy phong cho ngài là Mãn
Thiền sư, và sắc phong tòa tháp của ngài là Pháp Võ Tháp.
Trong khi
truyền pháp cho
Huệ Năng,
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn có dạy rằng: “Nhà ngươi làm Tổ đời thứ sáu, khéo tự
hộ niệm lấy mình. Hãy rộng độ
chúng sanh,
lưu truyền Chánh pháp về sau, đừng để dứt mất. Hãy nghe
bài kệ của ta đây:
Hữu tình lai há chủng,
Nhân địa, quả hoàn sanh.
Vô tình ký vô chủng,
Vô tánh diệc
vô sanh.
有情來下種
因地果還生
無情既無種
無性亦無生。
Dịch nghĩa
Có tình lại gieo giống,
Nhân đất, quả lần sanh.
Không tình cũng không giống,
Không tánh cũng không sanh.
6.
LỤC TỔ HUỆ NĂNG
六祖惠能
Đại sư Huệ Năng sanh ngày 8 tháng hai năm Mậu Tuất, là năm Trinh Quán thứ 12 đời
Đường Thái tông, tức năm 638 Dương lịch. Cha họ Lư, mẹ họ Lý. Cha của ngài quê quán tại huyện Phạm Dương, ngày nay thuộc tỉnh Trực Lệ, làm quan bị giáng chức đày ra xứ Lãnh Nam, làm
thường dân ở Tân Châu. Cha ngài mất sớm.
Mẹ con bèn dời đến xứ Nam Hải, nay thuộc tỉnh Quảng Đông. Nhà nghèo, ngài phải đi đốn củi bán mà nuôi mẹ.
Đến năm hai mươi bốn tuổi, tức là vào năm 661 Dương lịch, ngài
Huệ Năng tới chùa Đông Thiền, huyện
Hoàng Mai, tỉnh Kỳ Châu mà
tham kiến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn và được
truyền y bát.
Khi
Huệ Năng vừa đến chùa,
Ngũ Tổ hỏi rằng: “Nhà ngươi là người phương nào? Muốn cầu việc chi?”
Huệ Năng bạch rằng: “Đệ tử là
thường dân ở Tân Châu, xứ Lãnh Nam, từ xa xôi đến đây
lễ bái, chỉ cầu
làm Phật, chớ chẳng cầu việc chi khác.”
Tổ nói: “Ngươi là người xứ Lãnh Nam, là giống mường mán, mọi rợ, làm sao làm được Phật?”
Huệ Năng bạch rằng: “Người ta có Nam Bắc,
Phật tánh chẳng có Bắc Nam. Thân mường mán này với thân
Hòa thượng tuy chẳng đồng, nhưng
Phật tánh có chi là khác biệt.”
Tổ nghe biết là bậc
pháp khí, nhưng chỉ thầm
lưu tâm mà không nói cho ai biết, vì sợ có sự
ghen tỵ trong
đồ chúng.
Tám tháng sau,
Ngũ Tổ khiến các
môn đồ mỗi người làm một
bài kệ nói chỗ
sở kiến của mình, trình lên ngài để ngài xét ai có
tài đức mà
truyền y bát. Chẳng có ai dám làm kệ, vì nghĩ rằng chỉ có
Thượng Tọa Thần Tú,
lúc ấy đang làm
Giáo thọ, là xứng đáng với ngôi Tổ mà thôi.
Thần Tú biết không có ai trình kệ, buộc lòng mới làm
bài kệ rằng:
Thân thị
Bồ-đề thụ,
Tâm như minh kính dài,
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ
trần ai.
身是菩提樹,
心如明鏡臺。
時時勤拂拭,
勿使惹塵埃。
Dịch nghĩa
Thân là cây Bồ-đề,
Tâm như đài
gương sáng.
Thường siêng lau siêng rửa,
Chớ để bám bụi nhơ.
Tổ xem kệ, biết là chưa thấy tánh, chỉ đến ngoài cửa chưa bước được vào trong.
Huệ Năng tuy không biết chữ, nhưng nghe đọc kệ ấy, liền mượn người khác viết thay mình, làm một
bài kệ rằng:
Bồ đề bổn vô thụ,
Minh kính diệc phi đài,
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?
菩提本無樹,
明鏡亦非臺。
本來無一物,
何處惹塵埃。
Dịch nghĩa
Bồ-đề vốn chẳng phải cây,
Gương sáng cũng chẳng phải đài.
Xưa nay vốn không một vật,
Chỗ nào bám được bụi nhơ ?
Tổ
nhận biết Huệ Năng đã ngộ được
đạo ý, liền
truyền y bát cho làm Tổ thứ sáu. Đó là vào năm 661 Dương lịch.
Mười sáu năm sau,
Huệ năng hội kiến với
Ấn Tông Pháp sư và được
truyền giới cụ túc. Qua năm sau, ngài đến
trụ trì tại chùa
Bảo Lâm. Tại chùa ấy, ngài
tuyên dương pháp giáo,
đồ chúng theo về số đông
vô kể.
Đệ tử đắc pháp của ngài cũng nhiều hơn các vị
Tổ sư trước đây, về sau chia ra khắp các phương mà xiển dương
giáo pháp Đại thừa.
Tổ
Huệ năng giỏi
biện luận,
phá chấp cho người, làm cho họ
liễu ngộ lẽ
chân không, lẽ
trung đạo. Những bài giảng của ngài, sau được
môn đệ ghi chép lại thành quyển kinh “Pháp Bảo Đàn”.
Cuối đời,
Tổ sư trở về xứ Tân Châu, trụ tại chùa
Quốc Ân và tịch năm 713 Dương lịch, thọ 76 tuổi.
Sau khi ngài tịch, đến đời vua Hiếu Tông nhà Đường, triều đình thụy phong cho ngài là
Đại Giám Thiền sư, tòa tháp của Tổ là Nguyên Hòa
Linh Chiếu Tháp.