PHÁP GIÁO NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
Giáo lý Thập nhị nhân duyên cũng là một phần quan trọng trong những giáo pháp mà đức Phật truyền dạy trước nhất. Theo giáo lý này, tất cả vạn pháp đều sanh khởi và tồn tại, hủy diệt do nơi mười hai nhân duyên. Hay nói khác đi, các nhân duyên này chi phối toàn bộ quá trình sanh khởi của các pháp, như lời kệ sau đây:
Các pháp do nhân duyên mà sanh,
Các pháp do nhân duyên mà diệt.
Bậc đạo sư vĩ đại của chúng ta,
Thường giảng thuyết đúng thật như vậy.
諸法因緣生,亦從因緣滅。我佛大沙門,常作如是說。 Chư pháp nhân duyên sanh,
Diệc tùng nhân duyên diệt.
Ngã Phật đại sa-môn,
Thường tác như thị thuyết.
° ° °
Mười hai nhân duyên được trình bày trong tương quan sanh khởi như sau đây. Tuy nhiên, thứ tự trình bày ở đây hoàn toàn không có nghĩa là thứ tự sanh khởi. Phải hiểu rằng mười hai nhân duyên là một xâu chuỗi tròn khép kín, không có điểm khởi đầu và điểm kết thúc. Nếu phá bỏ được bất cứ mấu chốt nào trong mười hai mấu chốt ấy, tức là sẽ phá vỡ được toàn bộ sự liên kết của chúng.
1. Vô minh Vô minh (無明), tiếng Phạn là Avidyā. Tức là sự mê tối, không hiểu
đạo pháp, không hiểu những
chân lý,
bản chất của
vạn pháp. Nói
cụ thể hơn là không hiểu lý
Tứ đế, không hiểu
tính chất khổ não của
đời sống. Chính vì sự không hiểu ấy mà sinh ra Hành.
2. Hành Hành (行), tiếng Phạn là Samskāras. Tức là những hành động tạo nghiệp, có thể là các
nghiệp lành, nghiệp dữ, hoặc không lành không dữ. Như vậy, hành tức là
sự tạo nghiệp, có thể
do nơi ba nhân tố là thân, miệng và ý. Hành vốn do
Vô minh sanh khởi, nhưng khi
sanh khởi rồi thì tự nó dẫn đến Thức.
3. Thức Thức (識), tiếng Phạn là Vijnna. Thức là sự
nhận biết,
thức tâm,
tùy theo nơi
nghiệp lực mà sanh ra. Mà
nghiệp lực chính là do Hành tạo tác, cho nên
nói Hành sanh ra Thức. Do Thức ấy mà
chúng sanh biết
phân biệt ta với người, tâm với cảnh, hình thành nên một cái
bản ngã riêng buộc mà
đối đãi với
vạn pháp.
Thức tâm ấy đã
sanh khởi rồi, lại
kết hợp với các
yếu tố vật chất như tinh cha, huyết mẹ... để hình thành
một đời sống mới của
cá nhân, được hợp thành từ
năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Các phần thọ, tưởng, hành, thức đều vô hình, không thể nhìn thấy được, còn sắc tức là hính sắc thì có thể dùng các
giác quan mà cảm nhận được.
Cá thể đã hình thành, có đủ hai phần là Danh, tức là tên gọi; và Sắc, tức là các sắc chất
hình tướng. Gọi chung là
Danh Sắc.
Vì vậy nên nói rằng Thức sanh ra
Danh Sắc.
4. Danh sắc Danh Sắc (名色), tiếng Phạn là Nmarpa. Tức là một
cá thể hoàn chỉnh được
sanh khởi ra
trong đời sống.
Cá thể ấy đã có được sự
nhận thức phân biệt giữa ta và người, chủ thể và khách thể, nên
do nơi đối tượng có
sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà
sanh khởi sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Khi căn và trần đã
sanh khởi rồi,
do nơi nghiệp lực mà sáu căn mới duyên theo lấy
sáu trần, thành ra
Lục nhập.
5. Lục nhập Lục nhập (六入), tiếng Phạn là Sada¬yatana. Tức là sáu căn nhập với
sáu trần. Sáu căn sau khi đã hoàn chỉnh, do cảm lấy
sáu trần liền
sanh khởi ra Xúc để tiếp cận giữa căn và trần.
Hay nói khác đi, Xúc tức là sự xúc chạm giữa căn và trần.
6. Xúc Xúc (觸), tiếng Phạn là Sparsa. Tức là sự xúc chạm giữa căn và trần.
Do nơi xúc chạm, liền
sanh khởi sự
phân biệt tốt, xấu, yêu, ghét... mà
lãnh thọ lấy. Như vậy gọi là sự
sanh khởi của Thọ.
7. Thọ Thọ (受), tiếng Phạn là Védanā. Tức là sự
lãnh thọ, hay là sự cảm nhận,
nhận biết của sáu căn khi
tiếp xúc với
sáu trần và
lãnh thọ lấy.
Xúc và Thọ đã
sanh khởi ra trong
một đời sống mới của một
chúng sanh thì cứ thế mà
tương tục cho đến khi
đời sống ấy
bị hủy diệt bởi
Lão Tử, vì căn và trần đều
liên tục tồn tại trong suốt đời sống của
chúng sanh ấy.
8. Ái Ái (愛), tiếng Phạn là Trsnā. Tức là ưa mến, yêu thích. Khi Thọ đã
sanh khởi,
chúng sanh liền
phân biệt đối tượng khách thể, và do đó
sanh khởi nên tâm
ưa thích những gì
thích hợp với mình. Từ đó mà Ái được
sanh khởi.
9. Thủ Thủ (取), tiếng Phạn là Upadna. Tức là nắm giữ, chiếm lấy. Khi Ái đã được sanh ra,
tâm thức liền bám chặt lấy đối tượng
ưa thích mà muốn
chiếm hữu, giữ lấy cho riêng mình. Do đó mà sanh ra Thủ.
10. Hữu Hữu (有), tiếng Phạn là Bhāva. Tức là sự
sở hữu,
hay nói rộng hơn là
toàn bộ sự
hiện hữu, như
đời sống,
thế giới... Chính do tâm
chấp hữu này,
chúng sanh luôn nghĩ rằng mọi cái đều thuộc về
sở hữu của mình, cho dù là cả
thế giới này hay tất cả những gì
tồn tại trong đó.
11. Sanh Sanh (生), tiếng Phạn là Jāti. Tức là sanh ra, là sự hình thành nên một
chúng sanh trong đời sống. Khi Hữu đã
sanh khởi tức là đã có đủ các
điều kiện nhân duyên để một
chúng sanh được sanh ra.
Nếu không có Hữu thì không thể có Sanh, nên nói là Hữu sanh ra Sanh.
12. Lão tử Lão, tử (老死), tiếng Phạn là Jarmarana. Tức là già và chết, hai
hiện tượng tự nhiên hủy diệt
đời sống của mọi
chúng sanh, không thể
tránh khỏi. Vì sắc chất là
vô thường, phải chịu sự hủy hoại, nên có sanh là có
lão tử. Sự hủy diệt này cũng
thuận theo nhân duyên, nên nói rằng: “Các pháp do
nhân duyên mà sanh, cũng
tùy theo nhân duyên mà diệt.”
° ° °
Nếu phân tích tương quan, thì
mười hai nhân duyên này cũng không đi ngoài lý
Tứ đế.
Mười hai nhân duyên ấy đều ở trong
Tứ đế hoặc khai mở, hoặc
hợp lại mà ra, như là
vô minh, hành, ái, thủ, hữu là năm chi, hợp thành
Tập đế; thức,
danh sắc,
lục nhập, xúc, thụ, sinh,
lão tử, là bảy chi, khai mở ra là
Khổ đế.
Trí tuệ hiểu rõ lẽ
sinh diệt của
nhân duyên là
Đạo đế. Dứt được hết cả
mười hai nhân duyên là
Diệt đế.
Tu tập quán xét
mười hai nhân duyên sẽ giúp
trừ diệt được
phiền não. Bởi vì diệt được
mười hai nhân duyên thì các
pháp không do đâu mà
sanh khởi được nữa, nên người tu có thể
thoát khỏi mọi sự
ràng buộc mà
đạt đến quả vị giải thoát.
Người
tu tập mười hai nhân duyên, dùng
trí tuệ mà
quán chiếu thấy rằng, do
Vô minh duyên sanh ra Hành, do
Hành duyên sanh ra Thức, do Thức
duyên sanh ra
Danh Sắc, do
Danh Sắc duyên sanh ra
Lục nhập, do
Lục nhập duyên sanh ra Xúc, do Xúc
duyên sanh Thọ, do Thọ
duyên sanh ra Ái, do
Ái duyên sanh ra Thủ, do Thủ
duyên sanh ra Hữu, do
Hữu duyên sanh ra Sanh, do Sanh
duyên sanh ra
Lão Tử, cùng với những
phiền não, khổ sở trong
cuộc đời. Sự
duyên sanh như vậy gọi là
thuận theo dòng
sanh tử, nghĩa là cứ như
vậy mà trôi chảy mãi không dừng, cái trước
duyên sanh ra cái sau, cái sau lại
duyên sanh ra cái sau nữa,
mãi mãi tương tục.
Người
tu tập quán xét rõ như vậy rồi, tự biết rõ
con đường diệt trừ sanh tử phiền não cũng là
do nơi mười hai nhân duyên này mà
đạt đến. Người
tu quán xét thấy nếu
Vô minh bị diệt thì Hành sẽ diệt; nếu Hành diệt thì Thức sẽ diệt; nếu Thức diệt thì
Danh Sắc sẽ diệt; nếu
Danh Sắc diệt thì
Lục nhập sẽ diệt; nếu
Lục nhập diệt thì Xúc sẽ diệt; nếu Xúc diệt thì Thụ sẽ diệt; nếu Thụ diệt thì Ái sẽ diệt; nếu Ái diệt thì Thủ sẽ diệt, nếu Thủ diệt thì Hữu sẽ diệt; nếu Hữu diệt thì Sanh sẽ diệt; nếu
Sanh diệt thì
Lão Tử sẽ diệt.
Trừ diệt được như vậy, gọi là đi ngược dòng
sanh tử, dứt sạch được
mười hai nhân duyên ấy, khiến cho
phiền não sanh tử không do đâu mà
sanh khởi được nữa.
Trong những
thời gian không có Phật ra đời, những bậc có
thiện căn trí tuệ có thể nhờ quán xét lý 12
nhân duyên này mà tự mình
giác ngộ, nên gọi là
Độc giác Phật. Vì các ngài do
lý nhân duyên mà
giác ngộ, nên cũng gọi là
Duyên giác Phật.