CHÁNH TÍN TRONG ĐẠO PHẬT
Thích Trí Quảng
Chánh tín thuộc về
trí tuệ đối lại với
mê tín thuộc
vô minh,
phiền não. Từ khi
con người có mặt trên trái đất, đối trước những
hiện tượng thiên nhiên không giải thích được, họ tự đặt tên đó là
thánh thần và tin vào sự
hiện hữu của
thánh thần này. Có thể nói từ
thời kỳ sơ khai cho đến hiện tại vẫn có hình thức tín ngưỡng nhân gian, nhưng điều này chỉ
tồn tại chủ yếu ở các nước chậm tiến; còn những nước
tiếp nhận văn minh nhân loại thì
mê tín đã bị đẩy lùi vào
quá khứ.Nói đến
niềm tin theo
đạo Phật,
chúng ta thấy khởi đầu từ
Phật giáo Nguyên thủy, Phật dạy không tin vào những gì người trước truyền lại, hay không tin vào những gì số đông tin. Muốn tin,
chúng ta phải kiểm chứng, tức đưa
trí tuệ vào. Một là kiểm chứng bằng
tri thức là
hiểu biết của
con người, ngày nay gọi là khoa học. Thứ hai là kiểm chứng bằng suy nghiệm dưới
hình thức triết học và ba là kiểm chứng bằng
trực giác là
thiền định mà chỉ Phật và các vị A-la-hán mới có
trình độ kiểm chứng này.
Nếu kiểm chứng theo khoa học,
chúng ta thấy rất nhiều điều khoa học chưa biết và những
văn minh của
con người hôm nay thường phủ nhận những
hiểu biết của ngày hôm qua. Như vậy, sự
tiến bộ khoa học luôn thay đổi. Còn về
triết học thì những
triết gia có
nhận thức sâu xa, có thể cao hơn khoa học một bước và ít thay đổi hơn khoa học.
Duy nhất chỉ có kiểm chứng theo Phật là có
giá trị tuyệt đối, vì lời Phật nói không
sai lầm. Thật vậy, những gì Phật dạy cách đây cả ngàn năm mà ngày nay vẫn thấy đúng.
Niềm tin của người
Phật tử có qua sự kiểm chứng
rõ ràng. Những người không có
niềm tin chắc chắn không làm được gì, nhưng không phải
tin mù quáng như
Vô Não nghe lời thầy bảo giết người sẽ
thành thánh. Người
Phật tử cũng không tin giết
súc vật để cúng tế
thần linh được phước. Điều này về khoa học và
triết học cũng
không chấp nhận được, chưa nói tới
chánh tín theo
đạo Phật. Cúng giết
súc vật để nhờ vả
Thượng đế, nghĩa là
Thượng đế cần ăn
súc vật hay sao. Điều này
suy luận theo
triết học đã sai, hay thuyết
triết học tiến hóa cho rằng
Thượng đế là cha đẻ của muôn loài cũng
không chấp nhận được, vì không thể có việc
Thượng đế chấp nhận đứa con mạnh của ngài giết anh em yếu hơn để cúng tế cho ngài.
Khi Phật chưa
thành Phật, Ngài đã từng khuyên
vua Tần Bà Sa La đừng giết
súc vật để dâng
Thượng đế vì đó là điều
mê tín. Và đối với việc
thờ cúng trong
nhân gian, người ta sợ sệt núi sông
hiểm trở, nên họ thờ thần núi, thần sông. Phật hỏi có ai thấy biết các vị thần này hay không mà tôn thờ.
Phải
xây dựng cho mình có
chánh tín, đòi hỏi
chúng ta có
trí tuệ để
nhận thức đúng. Phật dạy muốn tin điều gì, phải
suy nghĩ xem điều đó có đúng hay không và nếu thấy đúng thì phải
thực tập để xem có mang lại kết quả như
chúng ta suy nghĩ hay không. Thấy đúng bằng
việc làm mới đem điều đó dạy.
Vì vậy, Phật dạy
chúng ta học
giáo lý,
thực hành giáo lý và
chứng ngộ giáo lý rồi mới
truyền bá.
Chúng ta nghe người nói, nhìn thẳng vào cuộc sống của họ, thấy có kết quả đúng như họ nói hay không. Nói và làm đúng,
chúng ta mới có thể tin được, nhưng cũng chưa chắc, vì mỗi người có
hoàn cảnh khác nhau, tâm trạng khác nhau và
kiến giải khác nhau; cho nên tùy
hoàn cảnh và
thể lực mà
áp dụng giáo pháp của Phật khác nhau.
Vì vậy, có những việc mà các vị Thánh làm được, nhưng
chúng ta làm không được.
Chúng ta cần
suy nghĩ Thánh có cơ thể đặc thù, nói
dễ hiểu là họ nhịn đói, nhịn khát được, có sức
chịu đựng, không ngủ nghỉ được. Điển hình như Ngài
Hiếp tôn giả cả đời không nằm, chỉ đi đứng ngồi; đó là cơ thể
đặc biệt của
Thánh nhân. Người thứ hai mà tôi gặp là
Hòa thượng Giác Chánh tu
Khất sĩ,
suốt đời Ngài không nằm. Ngài chọn
cuộc đời đi
khất thực, không tự nấu ăn. Tôi rất
quý trọng Ngài chỉ sống với
tinh thần khất thực của
Đức Phật. Những vị
cao tăng nhờ có cơ thể
đặc biệt nên
thực tập được những việc của
Hiền thánh làm, còn
chúng ta không có khả năng này.
Ngoài cấu trúc cơ thể
đặc biệt, còn có
yếu tố Bồ-đề để
làm Phật, làm Thánh.
Hạt giống Bồ-đề hay
trí tuệ rất quan trọng, vì
nếu không có
hạt giống Bồ-đề thì làm sao thành cây Bồ-đề, không có
hạt giống trí tuệ thì dù tu
suốt đời cũng như nấu cát muốn thành cơm. Có
hạt giống Bồ-đề thì không học cũng biết; nói cách khác, người có khả năng
hiểu biết mới truyền trao
hiểu biết cho họ được. Phật nói chư
Phật Thế Tôn chỉ truyền được
hiểu biết cho những người này, còn hạng người không có khả năng
hiểu biết thì Phật phải khai
phương tiện để làm
lợi ích cho họ. Khả năng
hiểu biết rất quan trọng, có người học mãi cũng không biết, nhưng có người gặp Phật là
đắc quả, như
Xá Lợi Phất hay
Mục Kiền Liên gặp Phật trong vài tuần là
đắc quả A-la-hán, vì khả năng
trí tuệ có, nên được Phật dạy, họ
tiếp thu nhanh chóng.
Tôi tới Kobe ở
Nhật Bản để
tham vấn Thiền sư Kono là Viện trưởng
Đại học Hananojo. Ngài vừa là
nhà trí thức nghiên cứu giáo lý vừa
thực tập thiền quán. Tôi chọn ngài làm thầy để học,
ít nhất về
giáo lý không
sai lầm, vì ngài là
học giả nghiên cứu và là
nhà trí thức lớn được
tông Lâm Tế coi là người
hiểu biết cao nhất, mới làm Viện trưởng và về việc
thực tập thiền quán, ngài cũng rất giỏi. Đầu tiên tôi tới
hỏi đạo, ngài dắt tôi lên ngọn đồi sau chùa và chỉ vào những ngôi mộ nhỏ.
Đơn giản vậy thôi, rồi về; nhưng lòng tôi cảm nhận được ý của
Hòa thượng Kono muốn dạy tôi rằng đây là những người có cơ thể bạc nhược,
yếu đuối mà muốn
thực tập pháp môn siêu đẳng nên phải chết non.
Phật cũng nói tu
ép xác phải chết trước khi
đắc đạo. Phật nhịn đói một tháng không chết. Ta nhịn
quá mức này có
tồn tại được hay không. Cấu trúc cơ thể rất quan trọng. Ta có sức chịu được
đói khát, nóng lạnh hay không.
Thiền sư thực tập pháp này có cơ thể rất
đặc biệt, 12 giờ đêm nước hồ trong chùa đông cứng mà đập lấy nước đá để rửa mặt và
tọa thiền.
Ngoài ra,
thực tập còn bắt buộc cởi quần áo, chỉ đóng một cái khố và
ngồi thiền như
vậy mà không chết vì lạnh. Nhìn mộ Sa-di thấy
Thiền sư dạy như vậy,
chúng tôi cân nhắc để dạy chúng. Có những người hỏi thiền, tôi không dạy, vì
yếu tố Bồ-đề giữa Phật và ta, giữa
Thiền sư và ta phải ngang nhau, mới truyền lực,
truyền pháp được. Còn gỗ và gỗ không truyền điện được. Phật và Phật, Phật và Bồ-tát, Phật và
Thánh chúng có mối
liên hệ vô hình,
chúng ta không thấy, không biết được, nhưng đó mới là
yếu tố quyết định để các Ngài tương thông
với nhau trên bước đường
hành đạo.
Còn
Thiền sư truyền cho
thiền sinh thì sao? Theo dòng
Thiền Lâm Tế, thầy trò ngồi
đối diện với nhau. Theo dòng Thiền
Tào Động thì thầy trò ngồi
xây lưng nhau. Tôi tham quan hai dòng thiền này, hiểu tại sao ngồi như vậy.
Đa số chúng ta thường nói
thiền Lâm Tế là trình
kiến giải và giải
thoại đầu rồi thì được
ấn chứng.
Đơn giản như vậy, nhưng
ấn chứng rồi, tôi thấy
thiền sinh không có sự
tiến bộ tâm linh nào, thì đó là giả.
Thiền sư và
thiền sinh ngồi
đối diện, quý vị nghĩ gì? Cả hai người này phải vào định, sau khi
thoát ly đời sống vật chất, thầy trò
gặp nhau ở
thế giới tâm linh, nên thầy không nói, trò không hỏi, nhưng họ hiểu nhau. Còn không hiểu, không cảm được
lời Phật dạy thì ngồi làm gì. Phật
ví như người bị trúng tên độc mà chờ
điều tra xem mũi tên độc từ đâu tới thì họ chết mất.
Phật đưa một pháp nào đó để
ứng dụng tu hành, giúp
chúng ta nhẹ hơn,
tâm trí tốt hơn. Phật ở
trình độ cao, Ngài sống trong
xã hội tùy
trường hợp, tùy từng người mà làm cho họ
kết duyên với
Phật đạo,
lần hồi họ tiếp cận được
chân lý. Các nhà
truyền giáo hiểu thâm ý của Phật, đi
truyền đạo, đầu tiên
quán sát trình độ kiến thức của dân chúng, cùng
niềm tin và cuộc sống của họ, để khai thị, từng bước giúp họ thăng hoa. Thật vậy, các vị
thiền sư đắc đạo, tới vùng dân chúng
nghèo đói thì nghĩ cách
nâng cao đời sống người dân, nghĩa là vừa
áp dụng khoa học và
triết học, còn
Phật học chưa nói.
Vì vậy,
thiền sư đến đâu chăm sóc gần nhất là
sức khỏe của người dân, nên họ đều biết cây thuốc. Ngày nay
thức ăn của
chúng ta là thuốc.
Thiền sư dạy đạo là dạy ăn ngủ và làm việc, như vậy
đạo Phật rất
thực tế. Ăn, ngủ, lao động không đúng cách thì sanh
bệnh hoạn. Ngày nay
chúng ta lạm dụng thuốc quá nhiều, ăn
thức ăn chứa nhiều
độc tố làm cho cơ thể bên ngoài mập, nhưng bên trong rệu rã.
Thiền sư dạy
chúng ta lao động, ăn, ngủ, nghỉ, sao cho cơ thể điều hòa với cuộc sống và
thiên nhiên,
xã hội.
Đạo Phật là đạo của
con người sống. Người trẻ
thuyết pháp hay, nhưng
bệnh hoạn thì tôi không nghe theo, vì
yếu tố Bồ-đề có hay không chưa biết, nhưng cơ thể như vậy là nghiệp.
Hòa thượng Phổ Tuệ là
Pháp chủ Giáo hội chúng ta và
Hòa thượng Trí Tịnh đều 94 tuổi, nhưng các Ngài vẫn khỏe và
sáng suốt, thì ta có thể nghe theo, học theo hai vị này. Người tuổi cao, khỏe và
thông minh, ta tin
ít nhất không
thành Phật thành Thánh, cũng thành người
sáng suốt, không lú lẫn, không
bệnh hoạn. Ta có thể học với hai vị
Hòa thượng này về cuộc sống, vì Phật dạy
đạo Phật xây dựng con người và
xã hội, cái gì cao xa chưa nói đến.
Riêng tôi, 74 tuổi vẫn khỏe, vì biết
ứng dụng Phật giáo vào cuộc sống, đầu tiên là
ứng dụng vào làm việc, ngủ nghỉ. Tôi ăn ít, nhưng làm nhiều được. Theo tôi,
ăn uống, ngủ nghỉ, lao động phải
giải quyết xong, mới
giải quyết việc khác. Tôi có người bạn
tri thức là
bác sĩ Dương Dậu,
đệ tử của Tổ
Huệ Quang. Ông rất thân với tôi và lúc tôi còn trẻ đã dặn tôi rằng
Đại đức nhớ đến 40 tuổi đừng ăn nhiều chất bột, chất béo, chất đạm, vì ba thứ này
dư thừa rất nguy hiểm. Ông là
bác sĩ nhưng
ăn chay trường nhờ
lãnh hội giáo lý Phật
áp dụng vào cuộc sống. Ngày nay tôi thấy
lời khuyên của ông rất đúng. Ông bảo tôi đừng ăn nấm nhiều, vì đó là chất dinh dưỡng có nhiều đạm, sanh nhức mỏi, nên
ngồi thiền đầu gối bị đau. Đối với việc
căn bản là
ăn uống, ngủ nghỉ,
chúng ta không giải quyết được, mà muốn việc cao siêu là điều xa vời,
không tưởng.
Ngài
Trí Giả đại sư một ngàn năm trước đã dạy phải điều hòa
ăn uống trước. Ngài dạy không ăn nhiều, không ăn ít, không ăn những gì không
thích hợp với cơ thể mình. Lời dạy này vừa có
tính cách khoa học, vừa
triết học và đó chính là
phương tiện của Phật, không phải pháp dạy cho hàng Thánh. Tôi không ăn chất béo, nhưng ăn
ngũ cốc, lúa mạch, mè để tăng HDL và làm hạ LDL, không bị béo phì, tuy ốm, nhưng khỏe, không bị cao huyết áp, không chết vì bệnh tim mạch.
Chúng ta tin
Phật học và kiểm chứng bằng khoa học, tin như vậy là
chánh tín; còn nghe nói cái gì cũng làm theo rồi sanh bệnh, chết.
Chúng ta tin
Phật học dạy những điều cao siêu, nhưng
chúng ta chưa nhận được thì nhờ khoa học thí nghiệm biết được đúng và nhờ
thiền sư tỉnh giác dạy.
Kết hợp ba điều này giúp cơ thể khỏe mạnh để gieo mầm Bồ-đề vào tâm, trước nhất là gieo
niềm tin với Phật, Pháp, Tăng. Thiếu
niềm tin với
Tam bảo, dù đã
quy y, nhưng tin
ma quỷ,
thần thánh hơn là
mê tín. Ví dụ
nghe đồn ở chùa
Phổ Quang có điện
Quan Âm rất linh, nên đến lạy để xin
lợi lộc, như vậy là tham, không phải
chánh tín. Không tham, không giận, không
si mê thì không sanh
tà kiến. Không tham thì ai xúi dại được,
tham lam là cách Phật xa.
Đi chùa để mua may bắn đắt, trúng số đề, nhưng không được thì bỏ chùa. Nếu có
may mắn, thì đó chỉ là
phương tiện ban đầu, để từ đó
chúng ta tin
lời Phật dạy, nhờ
cao tăng khai ngộ, chỉ dạy
chúng ta ứng dụng giáo pháp,
chúng ta mới có
đời sống an lạc nội tâm và cuộc sống ổn định thì từng bước
đi lên.
Phật tử giàu sang vẫn được
an lạc, hay
nghèo khó nhưng không khổ đau, khác với người giàu mà khổ đau vì
tham vọng, nhiều
tội lỗi, nên
gia đạo bất hòa, con hư, nên
sự nghiệp lớn mà lòng vẫn
bất an, thì sớm chiều cũng thành mây khói.
Trong
đạo chúng ta, người nghèo được
an lạc là các thánh La-hán, không có tiền, không giữ tiền, nhưng tâm luôn rất
an lạc, vì lòng tham đã
đoạn tuyệt, chê khen của thế nhân nằm ngoài tai. Ý này được vua
Trần Nhân Tông cảm tác rằng:
Thị phi tiếng rụng theo hoa sớm.
Danh lợi lòng băng với bão đêm. Hay: Trẫm xem ngai vàng như chiếc giày rách, bỏ lúc nào cũng được. Tâm Ngài
hoàn toàn an lạc là thế.
Chúng ta tin Phật,
áp dụng lời Phật dạy, dù nghèo hay giàu, nhưng biết thì nhân phước này tạo thêm phước khác. Chưa có phước thì biết tạo phước nhỏ, hay không có phước cũng không bận tâm, ăn một ngày bao nhiêu mà lo.
Phật tử giàu hay nghèo cũng vậy, lấy tâm
an lạc và
sức khỏe làm chính và lấy lời Phật
xây dựng cuộc sống
chúng ta ổn định
cho đến nâng lên
Hiền thánh, thì
xã hội chúng ta sống
trở thành thiên đường trần gian. Thật vậy, khi quý vị chung sống với người thực
sự giải thoát, không tham, không giận và có
trí tuệ,
mọi việc được
giải quyết nhẹ nhàng. Người không
tham vọng và
hiểu biết như năm anh em
Kiều Trần Như là những nhà
hiền triết, Phật đưa cho họ
Chánh pháp là họ
đắc quả liền.
Tóm lại,
chánh tín trong
đạo Phật là đầu tiên ta tin Phật, Pháp, Tăng. Tăng là đoàn thể
hòa hợp,
thanh tịnh mà
chúng ta đặt trọn
niềm tin, hoặc tin những nhà
thông thái có
ý tưởng hay, tin
văn minh khoa học.
Kết hợp được như vậy để
xây dựng cuộc sống
chúng ta thăng hoa trên bước đường
tu học Chánh pháp.
HT.Thích Trí Quảng