LUẬT NGHI TỔNG QUÁT
Tỳ Kheo GIÁC GIỚI
Ấn bản 2003
Lưu ý: Đọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)
06. PHÉP SÁM HỐI TỘI (ĀPATTIDESANĀ)
Tội (āpatti) là mức độ
lỗi lầm đã
vi phạm trong điều luật mà
Đức Phật đã
cấm chế.
Tội của Tỳ-kheo
phạm luật trong
giáo pháp nầy qui định có 7 thứ:
- tội triệt khai (pārājika),
- tội tăng tàng (saṅghādisesa),
- tội thô suất (thullaccaya),
- tội ưng
phát lộ (pāṭidesanīya),
- tội ưng xả
đối trị (nissaggiyapācittiya),
- tội ưng
đối trị (pācittiya),
- tội
tác ác (dukkaka), và
-
tội ác khẩu (dubbhāsita).
Tội triệt khai hay tội
bất cộng trụ, là tội mất gốc, không thể
sám hối xuất tội với bất cứ
hình thức gì.
Tội tăng tàng cần được xuất tội bằng cách thọ phạt biệt trú trước tăng hội.
Ngoài hai tội trên đây, các tội khác đều có thể xuất tội bằng cách
sám hối (paṭidesanā).
Sám hối là đối mặt với một vị Tỳ-kheo
thanh tịnh khác rồi bày tỏ
lỗi lầm mình đã phạm và nguyện hứa chừa cãi sau nầy.
Có ba cách
sám hối:
- Cách
sám hối phổ thông, đối với các tội thullaccaya, pācittiya, dukkata, dubbhāsita.
- Cách
sám hối tội ưng
phát lộ- Cách
sám hối tội ưng xả
đối trị.
1) Cách
sám hối phổ thông.
*
Sám hối đích tội danh đã phạm từng điều luật.
Vị
sám hối nói: Ahaṃ bhante [1] ekaṃ thul-laccayaṃ [2] āpattiṃ āpanno taṃ paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm một tội thô suất, tôi xin
sám hối tội ấy.
Vị chứng tội hỏi: Passasi āvuso [3] taṃ āpattim.
Hiền giả, ông có thấy rõ tội ấy chăng?
Vị sám: Āma bhante passāmi.
Bạch ngài, tôi thấy rõ.
Vị chứng: Āyatiṃ āvuso saṃvareyyāsi [4].
Hiền giả, ông hãy nên thu thúc sau nầy.
Vị sám: Sādhu suṭṭhu bhante saṃvarissāmi sādhu suṭṭhu bhante saṃvarissāmi. Sādhu suṭṭhu bhante saṃvarissāmi.
Lành thay, bạch Ngài, tôi sẽ thu thúc
tốt đẹp, tôi sẽ thu thúc
tốt đẹp, tôi sẽ thu thúc
tốt đẹp.
*
Sám hối đích tội danh đã phạm hai điều luật:
Vị Sám: Ahaṃ bhante [5] dve thullaccayāyo [6] āpattiyo āpanno tā paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm hai tội thô suất, tôi xin
sám hối những tội ấy.
Vị chứng: Passasi āvuso tā āpattiyo.
Hiền giả, ông thấy rõ những tội ấy chăng?
...
tiếp theo có cách thức như trước.
*
Sám hối đích tội danh đã phạm nhiều điều luật:
Vị sám: Ahaṃ bhante [7] sambahulā nānā-vatthukāyo thullaccayāyo [8] āpattiyo āpanno tā paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm nhiều tội thô suất có điều học khác biệt, tôi xin
sám hối những tội ấy.
Vị chứng: Passasi āvuso tā āpattiyo?
Hiền giả, ông thấy rõ những tội ấy chăng?
...
Tiếp theo có cách thức như trước.
*
Sám hối tổng quát nhiều tội danh:
Vị sám: Ahaṃ bhante sambahulā nānāvat-thukāyo thullaccayāyo ca pācittiyāyo ca dukkatāyo ca dubbhāsitāyo ca āpattiyo āpanno tā paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm nhiều tội thô suất, tội ưng
đối trị, tội
tác ác và
tội ác khẩu có điều học khác biệt; tôi xin
sám hối những tội ấy.
Vị chứng: Passasi āvuso tā āpattiyo?
Hiền giả, ông thấy rõ những tội ấy chăng?
...
tiếp theo có cách thức như trước.
*
Sám hối tổng quát không nêu tội danh:
Vị sám: Sabbā tā āpattiyo ārocemi. Sabbā garu-lahutā āpattiyo ārocemi. Ahaṃ bhante sambahulā nānāvatthukāyo āpattiyo āpajjiṃ tā tumha mūle paṭidesemi.
Tôi xin khai ra tất cả tội ấy, Tôi xin khai ra tất cả tội nặng nhẹ. Bạch ngài, tôi đã phạm nhiều tội có những điều học khác nhau, tôi xin
sám hối với Ngài những tội ấy.
Vị chứng: Passasi āvuso tā āpattiyo?
Hiền giả, ông thấy rõ những tội ấy chăng?
...
tiếp theo có cách thức như trước.
2) Cách
sám hối tội ưng
phát lộ (pāṭide-sanīya).
Tội ưng
phát lộ là tội do phạm trong bốn điều học ưng
phát lộ (pāṭidesanīyasikkhāpada); cách xuất tội này cũng bằng cách đối mặt
sám hối, có cách thức tương tợ như trước nhưng lời trình tội có khác đôi chút như sau:
Vị sám: Gārayhaṃ bhante [9] dhammaṃ āpajjiṃ [10] asappāyaṃ pāṭidesanīyaṃ taṃ paṭidesemi.
Bạch ngài, tôi đã phạm một điều đáng
quở trách, không
thích hợp, cần được
phát lộ, tôi xin
sám hối điều ấy.
Vị chứng: Passasi āvuso?
Hiền giả, ông thấy rõ chăng?
v.v...
3) Cách
sám hối tội ưng xả
đối trị (nissag-giya)
Tội ưng xả
đối trị là tội do phạm trong ba mươi điều học ưng xả (nissaggiya).
Tội ưng xả
đối trị cần được
sám hối bằng cách là trước phải giao ra vật sanh tội đáng xả bỏ rồi
sám hối ưng
đối trị sau.
Vật sanh tội tức là vật ưng xả, như là y tích trử, y rời xa đêm,
bình bát dư,
vàng bạc ...v.v...
Vật ưng xả phải xả bỏ trước Tăng, hay trước nhóm Tỳ-kheo,
hoặc trước một vị Tỳ-kheo khác.
Tội ưng xả
đối trị có nhiều
trường hợp như sau:
*
Sám hối tội giữ y dư
quá hạn.
Sám hối với Tăng; Tỳ-kheo
phạm tội ấy cầm lấy y ưng xả đi đến Tăng rồi
tuyên bố xả bỏ như sau:
Idaṃ [11] me bhante [12] cīvaraṃ dasāhātikkan-taṃ nissaggiyaṃ imā' haṃ saṅghassa nissajjāmi.
Bạch
đại đức Tăng, y nầy của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả, tôi xin xả bỏ y nầy đến Tăng.
Một vị trong tăng sẽ tự nhận
đại diện Tăng để chứng tội
sám hối của vị Tỳ-kheo ấy; tự nhận bằng lời trình Tăng như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu āpattiṃ sarati vivarati uttānīkaroti deseti. Yadi saṅghassa pattakallaṃ ahaṃ Itthannāmassa bhikkhuno āpattiṃ paṭiggaṇheyyaṃ [13].
Bạch
đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy nhớ ra tội,
nhận tội, khai tội,
thú tội. Nếu đã hợp thời với tăng, tôi xin được
chứng nhận tội cho Tỳ-kheo Itthannāma.
Tiếp đến Tỳ-kheo can phạm sẽ
sám hối với vị
đại diện Tăng:
Sám - Ahaṃ bhante [14] ekaṃ nissaggiyaṃ pācittiyaṃ āpanno taṃ [15] paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm một điều ưng xả
đối trị, tôi xin
sám hối điều ấy.
Chứng - Passasi āvuso taṃ āpattiṃ?
Hiền giả, ông thấy rõ tội ấy chăng?
Sám - Āma bhante passāmi.
Bạch Ngài, tôi thấy rõ.
Chứng - Āyatiṃ āvuso saṃvareyyāsi.
Hiền giả, ông nên thu thúc sau nầy.
Sám - Sādhu suṭṭhu bhante saṃvarissāmi.
Lành thay, bạch ngài, tôi sẽ thu thúc
tốt đẹp.
Sau khi Tỳ-kheo ấy xả vật sanh tội và
sám hối như vậy xong, vị
đại diện Tăng phải
tuyên ngôn trình tăng để cho y lại Tỳ-kheo ấy, như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho, idaṃ[16] cīvaraṃ it-thannāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ saṅghassa nissaṭṭhaṃ. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho imaṃ cīvaraṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya.
Bạch
đại đức tăng, hãy nghe tôi, đây là y ưng xả của Tỳ-kheo Itthannāma, đã xả bỏ đến Tăng. Nếu đã hợp thời với tăng, Tăng hãy nên cho lại Tỳ-kheo Itthannāma y nầy.
Tỳ-kheo khi được cho lại y ưng xả phải làm theo luật để hợp thức hoá
sử dụng y dư, bằng cách ký gởi (xem phần ký gởi
y bát).
Trường hợp sám hối ưng xả với nhóm Tỳ-kheo 2, 3 vị. Tỳ-kheo nói lời xả bỏ y dư đến nhóm Tỳ-kheo như sau:
Idaṃ me bhante cīvaraṃ dasāhātikkantaṃ nissaggiyaṃ imā' haṃ āyasmantānaṃ nissajjāmi.
Bạch quí ngài, y nầy của tôi đã giữ
quá hạn mười ngày, thành vật ưng xả; tôi xin xả bỏ y này đến các
Tôn giả.
Một vị trong nhóm sẽ nhận
đại diện để chứng tội cho Tỳ-kheo
sám hối, bằng
tuyên ngôn như sau:
Suṇantu me āyasmantā ayaṃ itthannāmo bhikkhu āpattiṃ sarati vivarati uttānīkaroti deseti. Yad' āyasmantānaṃ pattakallaṃ ahaṃ Itthannāmas-sa bhikkhuno āpattiṃ paṭiggaṇheyyaṃ.
Bạch
chư Tôn giả, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy nhớ ra tội,
nhận tội, khai tội,
thú tội. Nếu đã hợp thời với
chư Tôn giả, tôi xin được
chứng nhận tội cho Tỳ-kheo Itthannāma.
Tiếp đến là
nghi thức sám hối, giống như phần trước.
Nhóm Tỳ-kheo cho lại vị ấy y đã xả bằng cách,
tuyên ngôn như sau:
Suṇantu me āysmantā idaṃ cīvaraṃ it-than-nāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ āyasmantānaṃ nis-saṭṭhaṃ. Yad' āysmantānaṃ pattakallaṃ āyasmantā imaṃ cīvaraṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyyuṃ.
Bạch
chư Tôn giả, hãy nghe tôi, đây là y ưng xả của Tỳ-kheo Itthannāma, đã xả bỏ đến các Tôn giảṆếu hợp thời với các
Tôn giả, các
Tôn giả hãy nên cho lại Tỳ-kheo Itthannāma y nầy.
*
Chú ý những thay đổi
cần thiết, xem phần trước.
Y dư phạm ưng xả,
nếu không có dịp xả với tăng hay nhóm Tỳ-kheo, thì xả bỏ và
sám hối với một vị Tỳ-kheo khác cũng được. Lời xả bỏ y dư như sau:
Idaṃ me bhante cīvaraṃ dasāhātikkantaṃ nissaggiyaṃ imā' haṃ āyasmato nissajjāmi.
Bạch Ngài, y nầy của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả; tôi xả bỏ y nầy đến Ngài.
Tiếp theo áp dụng nghi
sám hối, như phần trước.
Vị kia phải nói cho lại y xả, như sau:
Imaṃ cīvaraṃ āyasmato dammi.
Tôi cho lại
Tôn giả y nầy.
Chú ý các thay đổi
cần thiết .
*
Sám hối tội rời bỏ y cách đêm
Tỳ-kheo ngoài
thời hạn quả báo Kaṭhina lại để rời khỏi hắc tay cách đêm một trong
tam y (
y nội,
y vai trái, y Tăng-già-lê) thì phạm ưng xả
đối trị.
Y đã rời xa ấy thành vật phải xả bỏ xả trước Tăng hay nhóm Tỳ-kheo hoặc một vị nào khác cũng được, rồi
sám hối.
Nếu
sám hối với Tăng, xả bỏ y
phạm tội như sau:
Ayaṃ me bhante [17] saṅghāti [18] ekarattiṃ vippavuṭṭhā [19] aññatra bhikkhusammatiyā nis-saggiyā [20] imā' haṃ saṅghassa nissajjāmi.
Bạch quí ngài, y Tăng-già-lê nầy của tôi đã rời
xa cách đêm, thành vật ưng xả,
trừ phi Tỳ-kheo được
cho phép; Tôi xin xả bỏ y nầy đến tăng.
Tiếp đến, Tăng cử
đại diện để chứng tội, Tỳ-kheo
sám hối, và Tăng cho lại y xả, mọi
nghi thức tuyên ngôn và
sám hối đều
áp dụng giống như trong cách "sám hối tội giữ y dư quá hạn", phần Tăng xử lý.
Nếu
sám hối với nhóm 2 hay 3 vị Tỳ-kheo thì lời xả bỏ y
phạm tội như sau:
Ayaṃ me bhante saṅghāṭi ekarattiṃ vippa-vuṭṭhā aññatra bhikkhusammatiyā nissaggiyā imā' haṃ āyasmantānaṃ nissajjāmi.
Bạch các
Tôn giả, y Tăng-già-lê nầy của tôi đã rời
xa cách đêm, thành vật ưng xả,
trừ phi Tỳ-kheo được
cho phép; tôi xả bỏ y nầy đến các
Tôn giả.
Tiếp theo, nhóm cử
đại diện chứng tội, Tỳ-kheo
sám hối, và nhóm cho lại y xả, mọi
nghi thức đều
áp dụng như cách "sám hối tội giữ y dư quá hạn" phần do nhóm xử lý.
Nếu là
trường hợp sám hối với một vị Tỳ-kheo khác, thì lời xả bỏ y
phạm tội như sau:
Ayaṃ me bhante saṅghāṭi ekarattiṃ vippa-vuṭṭhā aññatra bhikkhusammatiyā nissaggiyā imā ' haṃ āyasmato nissajjāmi.
Thưa
Tôn giả, y Tăng-già-lê nầy của tôi đã rời
xa cách đêm, thành vật ưng xả,
trừ phi Tỳ-kheo được
cho phép; tôi xin xả bỏ y nầy đến
Tôn giả.
Tiếp theo mọi
nghi thức khác hãy
áp dụng như trong tội giữ y
quá hạn, do một vị xử lý.
*
Sám hối tội giữ
bình bát dư.
Vị Tỳ-kheo có bát dư, cất giữ bát dư quá mười ngày
phạm tội ưng xả
đối trị,
bình bát ấy phải xả bỏ.
Có thể xả bỏ bát dư ấy đến tăng hoặc nhóm Tỳ-kheo hoặc một vị cũng được.
Xả bỏ
bình bát dư đến Tăng, nói như sau:
Ayaṃ me bhante patto dasāhātikkanto nissag-giyo imā' haṃ saṅghassa nissajjāmi.
Bạch
đại đức Tăng, đây là
bình bát của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả; tôi xin xả bỏ bát nầy đến Tăng.
Tiếp theo, Tăng cử
đại diện chứng tội và Tỳ-kheo đương sự hãy
sám hối với vị ấy, mọi
nghi thức như trước.
Sau cùng Tăng cho lại Tỳ-kheo ấy
bình bát bằng
tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ patto itthan-nāmassa bhikkhuno nissaggiyo saṅghassa nisaṭṭho. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho imaṃ pattaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya [21].
Bạch
đại đức tăng, hãy nghe tôi, đây là
bình bát của Tỳ-kheo Itthannāma, thành vật ưng xả, đã được xả bỏ đến Tăng. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho lại
bình bát nầy đến Tỳ-kheo itthannàma.
Tỳ-kheo đã được lại bát phải ký gởi theo luật mới nên cất giữ hoặc
sử dụng.
*
Trường hợp xả bỏ
bình bát dư đến nhóm vài ba vị Tỳ-kheo thì lời xả bỏ như sau:
Ayaṃ me bhante patto dasāhātikkanto nissag-giyo imā' haṃ āyasmantānaṃ nissajjāmi.
Thưa các
Tôn giả,
bình bát nầy của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả; tôi xin xả bỏ
bình bát nầy đến các
Tôn giả.
Tiếp theo cử một vị
đại diện cho nhóm để chứng tội cho Tỳ-kheo ấy, và vị ấy
sám hối;
nghi thức giống như cách
sám hối tội giữ y dư, với nhóm Tỳ-kheo thụ lý.
Rồi sau đó nhóm Tỳ-kheo cho lại
bình bát xả, bằng
tuyên ngôn như vầy:
Suṇantu me āyasmantā ayaṃ patto itthannā-massa bhikkhuno nissaggiyo āyasmantānaṃ nisaṭ-ṭho. Yad' āyasmantānaṃ pattakallaṃ āyasmantā imaṃ pattaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyyuṃ.
Thưa các
Tôn giả, hãy nghe tôi, đây là
bình bát của Tỳ-kheo Itthannāma, thành vật ưng xả, đã được xả bỏ đến các Tôn giảṆếu đã hợp thời với các
Tôn giả, các
Tôn giả hãy cho lại Tỳ-kheo Itthannāma
bình bát nầy.
Khi Tỳ-kheo được cho lại
bình bát, hãy theo luật ký gởi mới nên
sử dụng hoặc cất giữ.
Trường hợp xả bỏ
bình bát dư đến một vị, thì nói như sau:
Ayaṃ me bhante patto dasāhātikkanto nissag-giyo imā'haṃ āyasmato nissajjāmi .
Bạch Ngài, đây là
bình bát của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả, tôi xin xả bỏ
bình bát nầy đến Ngài.
Tiếp đó làm
nghi thức sám hối, vị Tỳ-kheo kia hãy nói cho lại
bình bát:
Imaṃ pattaṃ āyasmato dammi.
Tôi cho lại
Tôn giả bình bát nầy.
Được lại
bình bát Tỳ-kheo hãy làm theo luật ký gởi.
*
Sám hối tội tìm
bình bát trái phép.
Tỳ-kheo
sử dụng bình bát chưa hư cũ, chưa bị lủng bể hơn năm dấu, bèn đi
tìm kiếm bình bát mới,
phạm tội ưng xả
đối trị.
Bình bát mới ấy phải xả bỏ.
Trường hợp này chỉ được làm
nghi thức xuất tội với Tăng (saṅgha) thôi, chớ không thể
sám hối xả bát với nhóm hay với một vị được.
Bình bát mới ấy cần được xả bỏ đến Tăng, nói như sau:
Ayaṃ me bhante patto ūnapañcabandhanena pattena cetāpito nissaggiyo imā' haṃ saṅghassa nisajjāmi.
Bạch
đại đức Tăng, đây là
bình bát của tôi, đã
tìm kiếm khi
bình bát cũ chưa hư bể được năm vết, thành vật ưng xả. Tôi xin xả bỏ
bình bát nầy đến Tăng.
Tiếp đến, Tăng chứng tội cho Tỳ-kheo ấy
sám hối. Tăng cử
đại diện chứng tội
sám hối bằng
cách thông qua
tuyên ngôn,
nghi thức giống ở trước trong phần Tăng xử lý tội giữ y dư.
Sau khi Tỳ-kheo ấy
sám hối ưng
đối trị xong, Tăng hãy cho lại Tỳ-kheo ấy
bình bát, nhưng không phải cho
bình bát vừa xả đó mà cho bằng cách chuyễn đổi.
Việc
chuyển đổi, Tăng sẽ cử ra một vị
thực hiện, đề cử bằng
tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho. Yadi saṅghassa pat-takallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ pattag-gāhāpakaṃ sammanneyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho. Saṅgho itthan-nāmaṃ bhikkhuṃ pattaggāhāpakaṃ sammannati. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno pattaggāhāpakassa sammati so tuṇh' assa yassa nak-khamati so so bhāseyya. Sammato saṅghena itthan-nāmo bhikkhu pattaggāhāpako khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch
đại đức Tăng, hãy nghe tôi. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cử Tỳ-kheo Itthannāma làm người trao bát. Đó là lời bố cáo.
Bạch
đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tăng cử Tỳ-kheo Itthannāma làm người trao bát. Nếu việc cử Tỳ-kheo Itthannāma làm người trao bát, vị
Tôn giả nào
chấp nhận thì
im lặng, như vị nào
không chấp nhận thì nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng cử làm người trao bát,
Tăng chấp nhận mới
im lặng. Tôi xin
ghi nhận việc đó như vậy.
Vị Tỳ-kheo được Tăng cử, hãy
thực hiện việc chuyễn đổi
bình bát,
trước tiên cầm bát ưng xả đó trao cho vị lớn nhất rồi lấy
bình bát của
trưởng lão trao cho vị kế, lấy
bình bát vị ấy trao cho vị kế nữa, cứ thế
chuyển đổi đến vị
cuối cùng trong tăng, mới lấy
bình bát của vị
cuối cùng ấy trao lại cho Tỳ-kheo đương sự và nói:
Ayante bhikkhu patto yāva bhedanāya dhāre-tabbo.
Nầy Tỳ-kheo, đây là
bình bát của Ngài phải nên giữ
cho đến khi bể hư.
Vị Tỳ-kheo ấy phải
hoan hỷ nhận bát. Đó là cách
hợp thức hóa trong việc này.
*
Sám hối tội thu giữ
vàng bạc.
Tỳ-kheo tự mình
thọ lãnh hoặc bảo người
thọ lãnh hoặc bảo người
thọ lãnh hoặc
vui thích kho tàng
sở hữu, phạm ưng xả
đối trị.
Vàng bạc châu báu ấy phải xả bỏ giữa Tăng rồi
sám hối mới xuất tội được.
Tỳ-kheo đem
vàng bạc ấy đến Tăng và nói xả bỏ như sau:
Ahaṃ bhante rūpiyaṃ paṭiggahesiṃ, idaṃ me bhante nissaggiyaṃ imā' haṃ saṅghassa nissajjāmi.
Bạch
đại đức Tăng, Tôi đã thọ nhận
vàng bạc; bạch
đại đức Tăng,
vàng bạc nầy thành vật ưng xả, tôi xin xả bỏ đến Tăng.
Sau khi xả bỏ vật sanh tội, Tỳ-kheo ấy hãy làm
lễ sám hối, Tăng cử
đại diện chứng tội bằng
tuyên ngôn, cách thức giống như ở phần Tăng xử lý "tội giữ y dư".
Trường hợp vật ưng xả là
vàng bạc, Tăng phải cử người ném bỏ mất đi chớ không nên cho lại Tỳ-kheo.
Nếu tại đấy có người
cư sĩ đứng gần, Tăng nên bảo họ rằng: "Ngươi hãy biết xử lý vật nầy" người ấy hỏi lại: "với vật này phải đem vật chi đến?", Tăng chỉ nên nói là hãy đem vật
cần dùng. Sau đó nếu
cư sĩ mang lại nhu yếu phẩm cho chư Tỳ-kheo, Tăng chia nhau dùng ngoại trừ Tỳ-kheo đương sự.
*
Cũng có thể bảo người
cư sĩ ấy đem liệng bỏ
vàng bạc, không cần gợi ý cho họ đổi thành nhu yếu phẩm. Nếu người
cư sĩ ấy không chịu lấy liệng bỏ, Tăng nên cử một vị đủ đức tính hiền thiện để đem liệng bỏ
vàng bạc ấy. Tăng cử bằng
tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ rūpiya-chaḍḍakaṃ sammanneyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho saṅgho itthan-nāmaṃ bhikkhuṃ rūpiyachaḍḍakaṃ sammannati. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno rūpiyachaḍḍakassa sammati so tuṇh' assa yassa nak-khamati so bhāseyya. Sammato saṅghena itthan-nāmo bhikkhu rūpiyachaḍḍako khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch
đại đức Tăng, hãy nghe tôi. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cử Tỳ-kheo Itthannāma làm người liệng bỏ
vàng bạc. Đó là lời bố cáo.
Bạch
đại đức Tăng, Tăng cử Tỳ-kheo itthan-nāma làm người liệng bỏ
vàng bạc. Việc cử Tỳ-kheo itthannàma làm người liệng bỏ
vàng bạc, nếu vị
Tôn giả nào
chấp nhận thì hãy
im lặng, như vị nào
không chấp nhận thì nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng cử làm người liệng bỏ
vàng bạc,
Tăng chấp nhận nên mới
im lặng. Tôi xin
ghi nhận việc đó như vậy.
Tỳ-kheo được Tăng cử, hãy đem
vàng bạc liệng bỏ cho mất biệt, Tăng chẳng nên
chỉ định chỗ liệng bỏ. Đó là cách
hợp thức hóa trong việc nầy.
*
Sám hối tội kinh doanh tiền tệ.
Tỳ-kheo kinh doanh
mua bán bằng tiền bạc dưới nhiều
hình thức,
phạm tội ưng xả
đối trị. Tiền bạc ấy phải xả bỏ. Tiền bạc ấy gồm tiền giấy, tiền đồng, tiền vàng ...
Tiền bạc do kinh doanh, phải xả bỏ trước Tăng và
sám hối, Tăng ném bỏ tiền bạc ấy.
Phải xả bỏ như sau:
Ahaṃ bhante nānappakārakaṃ rūpiyasaṃvo-hāraṃ samāpajjiṃ idaṃ me nissaggiyaṃ. Imā' haṃ saṅghassa nissajjāmi.
Bạch
đại đức Tăng, tôi đã kinh doanh tiền bạc dưới nhiều
hình thức, tiền bạc nầy thành vật ưng xả. Tôi xin xả bỏ tiền nầy đến Tăng.
Sau khi xả bỏ tiền bạc, Tỳ-kheo hãy
sám hối tội lỗi, và Tăng nên cử
đại diện chứng tội bằng
tuyên ngôn, mọi
nghi thức đều giống như trước ở phần Tăng xử lý tội giữ y dư.
Tiền bạc đã được xả đến Tăng, Tăng nên cử người đem ném bỏ.
Tuyên ngôn cử người ném bỏ tiền bạc,
áp dụng giống như ở phần xử lý tội nhận lãnh
vàng bạc vậy.
*
Sám hối tội mậu dịch hàng hóa.
Tỳ-kheo làm mậu dịch
trao đổi hàng hóa, dùng vật này
trao đổi vật kia, thậm chí
trao đổi y bát để lấy đồ dùng khác ... đó gọi là
hình thức mậu dịch, Tỳ-kheo
phạm tội ưng xả
đối trị. Hàng phẩm mậu dịch phải xả bỏ.
Có thể xả bỏ đến Tăng hoặc nhóm Tỳ-kheo hoặc một vị khác.
Xả bỏ với Tăng, nói như sau:
Ahaṃ bhante nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajjiṃ idaṃ me nissaggiyaṃ. Imā' haṃ saṅ-ghassa nissajjāmi.
Bạch
đại đức Tăng tôi đã mậu dịch hay hóa dưới nhiều
hình thức, hàng này của tôi thành vật ưng xả. Tôi xin xả bỏ vật này đến Tăng.
Xả bỏ vật rồi Tỳ-kheo hãy
sám hối tội, Tăng nên cử
đại diện để chứng tội
sám hối, mọi
nghi thức giống như ở phần Tăng xử lý tội giữ y dư.
Sau khi Tỳ-kheo đã
sám hối, Tăng nên cho lại vật ấy, bằng
tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajji idaṃ Itthannāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ saṅ-ghassa nisaṭṭhaṃ. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅ-gho imaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya.
Bạch
đại đức Tăng, hãy nghe tôi. Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã mậu dịch hàng hóa dưới nhiều
hình thức, vật này của Tỳ-kheo Itthannāma thành vật ưng xả, đã được xả bỏ đến Tăng. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho lại Tỳ-kheo Itthannāma vật này.
Trường hợp xả bỏ hàng hóa đến nhóm hai, ba, vị Tỳ-kheo thì nói như sau:
Ahaṃ bhante nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajjiṃ idaṃ me nissaggiyaṃ imā' haṃ āyas-mantānaṃ nissajjāmi.
Bạch các
Tôn giả, tôi đã mậu dịch hàng hóa dưới nhiều
hình thức, vật này của tôi thành vật ưng xả; tôi xin xả bỏ vật này đến các
Tôn giả.
Tiếp đến là
nghi thức sám hối, và một vị
đại diện nhóm do
tuyên ngôn đề cử sẽ chứng tội cho Tỳ-kheo
sám hối, mọi cách thức làm giống như ở phần nhóm Tỳ-kheo xử lý tội giữ y dư.
Sau cùng nhóm Tỳ-kheo hãy
tuyên ngôn cho lại Tỳ-kheo ấy vật đã xả, như sau:
Suṇantu me āyamantā ayaṃ itthannāmo bhik-khu nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajji idaṃ Itthannāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ āyasman-tānaṃ nisaṭṭhaṃ. Yad'āyasmantānaṃ pattakallaṃ āyasmantā imaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadey-yuṃ.
Bạch
chư Tôn giả, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma đã mậu dịch hàng hóa dưới nhiều
hình thức, vật này của Tỳ-kheo Itthannāma thành vật ưng xả đã xả bỏ đến
chư Tôn giả. Nếu đã hợp thời với
chư Tôn giả,
chư Tôn giả hãy nên cho lại Tỳ-kheo Itthannāma vật nầy.
Trường hợp xả bỏ vật
phạm tội đến một vị Tỳ-kheo khác, hãy nói như sau:
Ahaṃ bhante nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajjiṃ idaṃ me nissaggiyaṃ imā'haṃ āyas-mato nissajjāmi.
Bạch
Tôn giả, tôi đã mậu dịch hàng hóa dưới nhiều
hình thức, vật này của tôi thành vật ưng xả, tôi xả bỏ vật này đến
Tôn giả.
Tiếp đến Tỳ-kheo ấy
sám hối với vị đó. Xong rồi vị đó sẽ cho lại Tỳ-kheo ấy vật đã xả, nói như sau:
Imaṃ āyasmato dammi.
Tôi cho lại
Tôn giả vật này.
DỨT PHÉP SÁM HỐI TỘI
-ooOoo-
PHÉP TRỊ PHẠT PHẠM ĐÀN
(BRAHMADAṆḌAKAMMA)
Phạm-đàn (brahmadaṇḍa) là
hình thức trị phatï vị Tỳ-kheo tánh tình không tốt,
ngang ngạnh,
công kích chư Tỳ-kheo, khó
giáo dục xây dựng. Phạm-đàn là hình phạt ngưng
giao thiệp với đối tượng, và được xem là hình phạt nặng nề đối với vị Tỳ-kheo, sẽ khiến vị ấy
cảm thấy khó chịu, bị
cô lập, bị
bỏ rơi ngoài hàng ngũ
tăng chúng để rồi phải tự
sửa chữa tự hối cãi.
Khi có một vị Tỳ-kheo
lỗi lầm xúc phạm đến
chư Tăng mà vị ấy
ngoan cố không biết
nhận lỗi,
chư Tăng hãy xử phạm-đàn đối với vị ấy. Cách thức xử
phạm đàn không cần
tuyên ngôn (ñatti), chỉ là tăng sự
nghị quyết (apalokana) được rồi.
Họp Tăng lại, một vị
thông hiểu luật hãy trình bày để tăng
nghị quyết, như sau:
Bhante itthannāmo bhikkhu mukharo bhikkhū duruttavacanehi ghaṭento viharati, So bhikkhu yaṃ iccheyya taṃ vadeyya bhikkhūhi itthannāmo bhik-khu n' eva vattabbo na ovāditabbo na anusāsitabbo. Saṅghaṃ bhante pucchāmi Itthannāmassa bhikkhuno brahmadaṇḍassa dānaṃ ruccati saṅghassa. Dutiyampi pucchāmi Itthannāmassa bhante bhikkhuno brahmadaṇḍassa dānaṃ ruccati saṅghassa. Tatiyampi pucchāmi Itthannāmassa bhante bhikkhuno brah-madaṇḍassa dānaṃ ruccati saṅghassa.
Bạch
đại đức Tăng, Tỳ-kheo Itthannāma là người xảo ngôn,
xúc phạm chư Tỳ-kheo với những lời bất nhã. Tỳ-kheo ấy muốn nói gì thì nói; Tỳ-kheo Itthannāma không đáng cho chư Tỳ-kheo nói đến, không đáng
giáo huấn, không đáng chỉ dạy. Bạch
đại đức Tăng, tôi xin hỏi Tăng, Tăng có bằng lòng cho phạt
phạm đàn đối với Tỳ-kheo Itthannāma chăng? Lần thứ hai, tôi xin hỏi, Tăng có bằng lòng cho phạt
phạm đàn đối với Tỳ-kheo Itthannāma chăng? Lần thứ ba, tôi xin hỏi, Tăng có bằng lòng cho phạt
phạm đàn đối với Tỳ-kheo Itthannāma chăng?
Tăng
biểu quyết chấp nhận bằng cách
im lặng. Từ đây chư Tỳ-kheo sẽ ngưng
giao thiệp với Tỳ-kheo ấy,
cho đến khi vị ấy biết
hối lỗi,
sám hối với Tăng thì chư Tỳ-kheo mới
giao thiệp lại.
Khi Tỳ-kheo ấy đã biết
phục thiện sám hối với chư Tỳ-kheo, thì Tăng nên làm Tăng sự
nghị quyết (apalokana) để giải tỏa hình phạt. Một vị
thông hiểu hãy trình bày như sau:
Bhante bhikkhusaṅgho asukassa bhikkhuno brahmadaṇḍaṃ adāsi. So bhikkhu soratto virato nivātavutti lajjidhammaṃ okkanto hirottappe patiṭ-ṭhito paṭisaṅkhā āyatiṃ saṃvare tiṭṭhati. Saṅghaṃ bhante pucchāmi tassa bhikkhuno brahmadaṇḍassa paṭippas-saddhi ruccati saṅghassa. Dutiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi tassa bhikkhuno brahmadaṇ-ḍassa paṭippassaddhi ruccati saṅghassa. Tatiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi tassa bhikkhuno brah-madaṇḍassa paṭippassaddhi ruccati saṅghassa.
Bạch
đại đức Tăng, Tăng Tỳ-kheo đã cho hình phạt phạm-đàn đối với Tỳ-kheo kia. Tỳ-kheo ấy đã nghiêm túc, cởi mở, hài hòa, có liêm sỉ, sống
tàm quý,
nhận thức sẽ thu thúc về sau. Bạch
đại đức Tăng, tôi xin hỏi Tăng, Tăng có bằng lòng giải tỏa hình phạt
phạm đàn đối với Tỳ-kheo ấy chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi Tăng, Tăng có bằng lòng giải tỏa hình phạt phạm-đàn đối với Tỳ-kheo ấy chăng? lần thứ thứ ba tôi xin hỏi Tăng, Tăng có bằng lòng giải tỏa hình phạt
phạm đàn đối với Tỳ-kheo ấy chăng?
Tăng
biểu quyết chấp nhận bằng cách
im lặng.
DỨT PHÉP TRỊ PHẠT PHẠM ĐÀN.
-ooOoo-
PHÉP ĐƯA THỎA HIỆP TĂNG SỰ
(CHANDADĀNA)
Tỳ-kheo Tăng đồng trú trong một cương giới (sīma) phải
hòa hợp làm tăng sự, không có vị Tỳ-kheo nào ở ngoài Tăng khoảng cách quá hắc tay; như vậy tăng sự mới thành, và tỳ-kheo không phạm lỗi
tác ác do gây trở ngại tăng sự của chư Tỳ-kheo.
Trường hợp vị tỳ-kheo
hữu sự thích đáng như bị bệnh chẳng hạn, không thể vào họp tăng để làm tăng sự thì phải đưa lời đến Tăng hội bày tỏ sự
đồng ý và
hoan hỷ của mình với việc Tăng làm.
Sự đưa
thỏa hiệp tăng sự, có 3
trường hợp:
a) Đối với tăng sự
phổ thông.
b) Đối với tăng sự bố-tát.
c) Đối với tăng sự
tự tứ.
Đối với tăng sự
phổ thông, là những tăng sự ngoài việc bố-tát (uposatha) và việc
tự tứ (pavāra-ṇā), vị Tỳ-kheo không vào ngồi dự với tăng được, thì thỉnh một vị Tỳ-kheo nào đó đến và nói như sau:
Chandaṃ dammi chandaṃ me hara chandaṃ me ārocehi (ba lần)
Nếu nhờ vị cao hạ hơn thì nói:
Chandaṃ dammi chandaṃ me haratha chan-daṃ me ārocetha (ba lần).
Tôi xin gởi
thỏa hiệp, Ngài hãy đem đi và trình lời
thỏa hiệp của tôi.
Phần vị Tỳ-kheo lãnh lời, khi đến nơi tăng trước lúc làm tăng sự, hãy trình bạch cho tăng biết sự
thỏa hiệp của Tỳ-kheo
vắng mặt, như sau:
Āyasmā bhante itthannāmo mayhaṃ chandaṃ adāsi tassa chando mayā āhato sādhu bhante saṅgho dhāretu.
Bạch
đại đức tăng,
Tôn giả Itthannāma đã trao lời
thỏa hiệp cho tôi, lời
thỏa hiệp của vị ấy tôi đã
mang đến rồi, kính mong
chư tăng ghi nhận.
Nếu trình tăng lời
thỏa hiệp của Tỳ-kheo thấp hạ hơn mình thì nói:
Itthannāmo bhante bhikkhu mayhaṃ chandaṃ adāsi tassa chando mayā āhaṭo sādhu bhante saṅgho dhāretu .
Bạch
đại đức Tăng, Tỳ-kheo Itthannāma đã đưa lời
thỏa hiệp cho tôi, lời
thỏa hiệp của vị ấy tôi đã
mang đến rồi, kính mong
chư Tăng ghi nhận.
*
Đối với Tăng sự bố-tát, là tăng sự tụng
giới bổn và
sám hối thanh tịnh của chư Tỳ-kheo trong ngày bố-tát (uposatha).
Vào ngày
chư tăng làm lễ bố-tát, nếu vị Tỳ-kheo nào trong chùa vì
hữu sự không thể vào
chánh điện dự tăng sự bố-tát, thì phải đưa lời
thỏa hiệp và tỏ sự
thanh tịnh (gọi chung là chandaparisuddhi) để nhờ vị Tỳ-kheo khác đem trình Tăng.
Cách đưa lời
thỏa hiệp tăng sự (chanda) giống như cách đã trình bày; cách tỏ sự
thanh tịnh (parisuddhi) như sau:
Pārisuddhiṃ dammi pārisuddhiṃ me hara pārisuddhiṃ me ārocehi [22] .
Tôi tỏ sự
thanh tịnh, ông hãy đem đi và trình sự
thanh tịnh của tôi.
Phần vị Tỳ-kheo nhận chuyển lời, sau khi đến chỗ Tăng hội trước lúc làm tăng sự tụng giới, hãy trình tăng lời
thỏa hiệp của Tỳ-kheo bệnh rồi trình tăng sự tỏ
thanh tịnh của vị ấy
như vầy:
Āyasmā bhante itthannāmo [23] gilāno pari-suddho' ti paṭijāni parisuddho' ti taṃ saṅgho dhāretu.
Bạch
đại đức Tăng,
Tôn giả Itthannāma bị bệnh, vị ấy đã tự nhận
thanh tịnh, xin
chư Tăng nhận biết vị ấy là người
thanh tịnh.
Hoặc có thể trình
một lần cả hai việc, lời
thỏa hiệp và sự
thanh tịnh của Tỳ-kheo bệnh, như sau:
Āyasmā bhante itthannāmo gilāno mayhaṃ chandañca pārisuddhiñca adāsi tassa chando ca pa-risuddhi ca mayā āhaṭā sādhu bhante saṅgho dhā-retu.
Bạch
đại đức Tăng,
Tôn giả Itthannāma bị bệnh, vị ấy đã đưa lời
thỏa hiệp và sự
thanh tịnh với tôi; lời
thỏa hiệp và sự
thanh tịnh của vị ấy tôi đã đem đến đây, kính mong
chư tăng ghi nhận.
*
Đối với Tăng sự
tự tứ, là tăng sự
yêu cầu chỉ lỗi làm trong ngày mãn thời
an cư tức là ngày
tự tứ (pavāraṇā).
Vào ngày
chư Tăng làm
lễ tự tứ, nếu vị Tỳ-kheo nào trong chùa bị bệnh không thể vào họp tăng làm lễ được thì hãy đưa lời
thỏa hiệp và lời
tự tứ (gọi chung là chandappavāranā) nhờ vị Tỳ-kheo bạn đem trình tăng.
Cách đưa lời
thỏa hiệp tăng sự (chanda) cũng giống như cách đã trình bày ở trước; cách đưa lời
tự tứ (pavāraṇā) như sau:
Pavāraṇaṃ dammi pavāraṇaṃ me hara pavā-raṇaṃ me ārocehi.
Tôi đưa lời
tự tứ, ông hãy đem đi và trình lời
tự tứ của tôi.
Có nói cách khác cũng được:
Pavāraṇaṃ dammi pavāraṇaṃ me hara mam atthāya pavārehi.
Tôi đưa lời
tự tứ, ông hãy đem đi và hãy làm
tự tứ cho tôi.
Phần vị Tỳ-kheo nhận chuyển lời, hãy đi đến Tăng, trước khi Tăng làm
tự tứ hãy trình lời
thỏa hiệp và lời
tự tứ của Tỳ-kheo bệnh, như sau:
Āyasmā bhante itthannāmo gilāno mayhaṃ chandañca pavāraṇañca adāsi tassa chando ca pavā-raṇā ca mayā āhaṭā sādhu bhante saṅgho dhāretu.
Bạch
đại đức Tăng,
Tôn giả Itthannāma bị bệnh, vị ấy đã đưa lời
thỏa hiệp và lời
tự tứ cho tôi; lời
thỏa hiệp và lời
tự tứ của vị ấy tôi đã đem đến, kính mong
chư Tăng ghi nhận.
DỨT PHÉP ĐƯA THOẢ HIỆP TĂNG SỰ.
-ooOoo-
PHÉP NHẬP HẠ
(VASSŪPAGATA)
Mùa mưa (vassāna-utu) là thời
an cư cấm túc của chư Tỳ-kheo. Theo phật lịch thì mùa mưa
chính thức bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 âl
cho đến rằm tháng 10 (4 tháng), nhưng luật có qui định thời
an cư chỉ 3 tháng. Do đó việc
nhập hạ của chư Tỳ-kheo có hai thời, thời tiền
an cư (purimikā vassū-panāyikā) và thời hậu
an cư (pacchimikā vassūpa-nāyikā) .
Thời tiền-an-cư từ ngày 16 tháng 6 đến rằm tháng 9 âl. Thời hậu-an-cư ngày 16 tháng 7 đến rằm tháng 10 âl.
Tỳ kheo thường
nhập hạ trong thời tiền-an-cư, chỉ khi nào có việc không kịp thời tiền-an-cư mới theo thời hậu-an-cư.
Đến thời
an cư mà vị Tỳ-kheo
cố ý không
nhập hạ thời nào thì phạm
tác ác (dukkata).
Cách thức
nhập hạ là đến ngày
an cư, sau khi
quyết định nơi chỗ, hãy quét
dọn sạch sẽ và tích chứa nước dùng đầy đủ (nếu chỗ ở hiếm nước). Chỗ
an cư có thể là một ngôi chùa (ārāma), ngôi
tịnh thất (vihāra), một cư xá (āvāsa), hoặc một liêu cốc riêng (senāsana);định
nhập hạ ở đâu thì nguyện ở đó. Có thể
phát nguyện một mình, hoặc có nhiều vị cùng
nhập hạ thì
phát nguyện đồng loạt.
Lời
phát nguyện nhập hạ như sau:
Imasmiṃ ārāme [24] imaṃ temāsaṃvassaṃ upemi [25].
Tôi nguyện
an cư mùa mưa tại chùa nầy hết ba tháng.
Trong
thời gian an cư nếu rời khỏi chỗ qua đêm thì đứt hạ, trừ khi có nguyện
giải giới. Tỳ-kheo có việc cần làm như biết tin cha, mẹ, thầy, bạn đau bệnh, hoặc Tăng sự, hoặc
cư sĩ thỉnh mời thì được phép nguyện
giải giới ra đi nhưng hạn trong bảy ngày phải về trước khi
mặt trời mọc ngày thứ bảy.
Cách nguyện
giải giới an cư như sau:
Sace me antarāyo natthi sattāhabbhantare ahaṃ puna nivattissāmi.
Nếu không có sự trở ngại cho tôi, tôi sẽ
trở về trong vòng bảy ngày.
Nguyện ra lời hoặc nghĩ trong tâm cũng được, hoặc báo với vị khác
mục đích đi đó cũng được. Cần chú ý là ngày đầu mới nguyện
nhập hạ chưa được một đêm thì không được phép
giải giới an cư để đi; mặc khác, khi chỉ còn vài ngày nữa là mãn hạ thì dù có đi luôn cũng phải nguyện
giải giới bằng không sẽ đứt hạ.
DỨT PHÉP NHẬP HẠ.
-ooOoo-
PHÉP SỬ DỤNG Y BÁT
*
Sử dụng y (Cīvara)
Y là trang phục của vị Tỳ-kheo.
Y phục chính có 3 thứ, gọi là
tam y (ticīvara):
- saṅghāti (y tăng-già-lê hay y kép),
- uttarāsaṅga (y uất-đà-la-tăng hay
y vai trái),
- antarāvāsaka (y an-đà-hội hay
y nội).
Ngoài
tam y còn có 6 thứ
phụ thuộc khác:
- vassi-kasāṭika (y tắm mưa),
- nisīdana (
tọa cụ),
- paccat-tharaṇā (
ngọa cụ),
- kaṇḍuppaṭicchādi (vải băng ghẻ),
- mukhapuñchanacoḷa (khăn lau mặt),
- parikkhāracoḷa (y phụ tùng).
Y phụ tùng
gồm có:
- kāyabandhana (giây buộc lưng),
- urabandhana (giây buộc ngực),
- ṭhavika (dèm hay túi nải),
- aṃsaka (hằng sắc hay y lót mồ hôi).
Tất cả các trang phục trên, Tỳ-kheo đều phải nguyện thành tên; riêng về
tam y phải làm dấu
hoại sắc trước khi nguyện tên.
* Cách làm dấu
tam yDùng mực một trong 3 màu là màu xanh hoặc màu xám hay màu đen khuyên tròn ở bốn góc y, điểm nhỏ cỡ mắt gà hay mút đũa, vừa
đánh dấu vừa nguyện:
Imaṃ bindukappaṃ karomi (3 lần).
Tôi làm dấu y này.
* Cách nguyện đặt tên y.
Chú tâm đến lá y rồi
chú nguyện :
Imaṃ [26] saṅghāṭiṃ [27] adhiṭṭhāmi (3 lần).
Tôi nguyện đây là y Tăng-già-lê.
* Xả bỏ y cũ.
Khi đổi thay y mới hoặc không dùng xài nữa thì phải xả bỏ y cũ.
Chú tâm đến y đó và nói:
Imaṃ [28] saṅghātiṃ [29] paccuddharāmi (3 lần).
Tôi xả bỏ y Tăng-già-lê nầy.
*
Sử dụng bát (patta)
Bình bát có 2 thứ là ayopatta (bát sắt) và mattikapatta (bát đất). Tỳ-kheo
sử dụng bình bát cũng phải nguyện đặt tên;
bình bát không cần làm dấu (bindu).
* Cách nguyện bát.
Chú tâm đến cái bát và nguyện rằng:
Imaṃ [30] ayopattaṃ [31] adhiṭṭhāmi. (3 lần)
Tôi
chú nguyện bát sắt nầy.
* Cách xả bỏ
bình bát.
Khi không dùng
bình bát đó nữa thì phải xả bỏ,
chú tâm như sau:
Imaṃ [32] pattaṃ paccuddharāmi. (3 lần)
Tôi xả bỏ
bình bát nầy.
*
Y bát dù chưa nguyện xả bỏ nhưng khi bị rách, lủng lổ thì
xem như đã đứt tên nguyện. Y bị rách thân vải trong cách đường biên quá 8 cm (4 ngón tay), chỗ rách lổ vừa đầu ngón tay, như vậy là hỏng.
Bình bát bị rò rỉ lủng bể phần dưới đáy, lỗ vừa lọt hạt cơm, như vậy là hỏng.
Y có thể đổi thay tìm y mới, dù y cũ chưa rách; riêng
bình bát nếu chưa lủng bể quá năm dấu thì không được tìm đổi
bình bát mới.
DỨT PHÉP SỬ DỤNG Y BÁT
-ooOoo-
PHÉP KÝ GỞI Y BÁT
(VIKAPPA)
Sự ký gởi giống như ký thác cái gì cho ai, để không bận tâm với cái đó nữa.
Y dư (atirekacīvara) và bát dư (atirekapatta), Tỳ-kheo giữ lâu lắm là mười ngày, nếu
quá hạn sẽ
phạm luật ưng xả
đối trị.
Trường hợp giữ không
phạm tội là
y bát dư đã ký gởi (vikappa) cho người khác rồi.
Có thể ký gởi đến vị Tỳ-kheo khác hoặc vị sa-di nào đó cũng được; sự ký gởi có hai cách: Trực tiếp và
gián tiếp.
* Cách ký gởi trực tiếp.
Gởi ngay vị ấy, gọi là ký gởi trực tiếp. Tỳ-kheo muốn ký gởi
y bát cho vị nào thì đem
y bát đến tìm vị ấy và nói như sau:
Imaṃ [33] cīvaraṃ [34] āyasmato vikappemi.
Tôi ký gởi y này đến
Tôn giả.
Vị nhận ký gởi ấy nên
ủy quyền cho Tỳ-kheo người gởi, như sau:
Imaṃ cīvaraṃ mayhaṃ santakaṃ paribhuñja vā visajjehi vā yathāpaccayaṃ vā karohi.
Y nầy là sở thuộc của tôi, Ngài hãy dùng xài hoặc phân phát hoặc
sử dụng tuỳ duyên.
* Cách ký gởi
gián tiếp.
Ký gởi cho người
vắng mặt, gọi là gởi
gián tiếp.
Tỳ-kheo muốn ký gởi cho vị sư bạn nhưng không được giáp mặt thì hãy nói với một vị khác thay mặt, nói như sau:
Imaṃ cīvaraṃ [35] Itthannāmassa bhikkhuno [36] vikappemi.
Tôi ký gởi y nầy đến Tỳ-kheo Itthannāma.
Vị được nhờ ký gởi cũng nên
đại diện để
ủy quyền lại Tỳ-kheo người gởi, như sau:
Imaṃ cīvaraṃ Itthannāmassa bhikkhuno san-takaṃ paribhuñja vā vissajjehi vā yathāpaccayaṃ vā karohi.
Y nầy là sở thuộc của Tỳ-kheo Itthannāma, Ngài hãy dùng xài hoặc phân phát hoặc
sử dụng tùy duyên.
DỨT PHÉP KÝ GỞI Y BÁT
-ooOoo-
Luật nghi tổng quát, chỉ trình bày những
nghi thức tăng sự và các phận sự
phổ thông của vị Tỳ-kheo, không thể gọi là đầy đủ. Các lý giải cần được bậc Tăng
trí thức tham khảo riêng.
CHUNG
-ooOoo-
TRI ÂN
Chúng tôi xin
chân thành cảm niệm
công đức các vị đã
phát tâm hùn phước
tịnh tài để in ấn quyển
Luật Nghi Tổng Quát:
1. Tu nữ Diệu Từ (Vĩnh Long)
2. Tu nữ Huệ Phúc (TP Hồ
Chí Minh)
3.
Tín nữ Ngọc Thủy (Vĩnh Long)
4.
Tín nữ Ngọc Tâm (Vĩnh Long)
5.
Gia đình Đại đức Tuệ Ngạn (TP Hồ
Chí Minh)
6.
Tín nữ Phan Huệ Cúc (Hoa Kỳ)
Cùng
chư tăng và
thiện tín đã hỗ trợ
tinh thần trong khi
chúng tôi soạn thảo quyển sách này.
Nguyện cho tất cả quí vị ấy đều được
thành tựu tuệ giải thoát, và
trong vòng luân hồi luôn đắc kỳ
sở nguyện.
Soạn giả
Tỳ-kheo Giác Giới
2547 - TL 2003
[1] Nếu
sám hối với vị nhỏ hạ hơn mình thì đổi tiếng
xưng hô là āvuso (
hiền giả).
[2] Nếu
sám hối tội ưng
đối trị thì nói: ekaṃ pācittiyaṃ; tội
tác ác thì nói: ekaṃ dukkataṃ;
tội ác khẩu thì nói: ekaṃ dubbhāsitaṃ .
[3] Chứng cho vị lớn hạ hơn mình thì hỏi là: passatha bhante taṃ āpattiṃ .
[4] Nhắc nhở vị lớn hạ hơn thì nói là: āyatiṃ bhante saṃvareyyātha.
[5] Cần thay đổi tiếng
xưng hô theo
hạ lạp.
[6] Nếu là tội khác thì đổi dve pācittiyāyo, hay dve dukkatāyo, hay dve dubbhāsitāyo.
[7] Cần thay đổi tiếng
xưng hô theo
hạ lạp.
[8] Thay đổi tội danh
nếu cần, như pācittiyāyo hay dukkatāyo hay dubbhāsitāyo.
[9] Cần đổi tiếng
xưng hô theo
hạ lạp .
[10] Tội ưng
phát lộ có thể có nhiều vị đồng phạm trong 1 điều luật, và như thế các vị có thể cùng
sám hối, phải đổi āpajjiṃ ra là āpajjimhā, và paṭidesemi ra là paṭidesema.
[11] Xả nhiều y dư thì nói imāni ... cīvarāni dasāhātikkantāni nissaggiyāni imān' āhaṃ ...
[12] Nếu Tỳ-kheo chủ y là vị
trưởng lão cao hạ hơn tất cả các Tỳ-kheo tăng hội, thì dùng tiếng āvuso thay thế bhante .
[13] Lời
tuyên ngôn trình tăng để tự nhận
đại diện Tăng chứng tội cho Tỳ-kheo
sám hối ưng xả
đối trị, sẽ được
áp dụng giống nhau trong mọi
trường hợp khác.
[14]
Tùy theo hạ lạp của vị sám và vị chứng phải biết dùng tiếng āvuso hay bhante cho hợp lẽ như các
trường hợp lễ sám hối đã
nói trước.
[15] Nếu
sám hối hai tội ưng xả thì nói dve nissaggiyāyo pācittiyāyo āpanno tā ...; nếu nhiều tội thì nói sambahulā nissaggiyāyo pācittiyāyo āpanno tā ...
[16] Với nhiều y thì cần thay đổi
văn tự thích hợp, đổi imāni cīvarāni thay idaṃ cīvaraṃ, đổi nissaggiyāni thay nissaggiyaṃ, đổi nissaṭṭhāni thay nissaṭṭhaṃ.
[17]
Tùy theo hạ lạp mà dùng tiếng bhante hay āvuso .
[18] Nếu là
y vai trái thì nói là uttarāsaṅgo; nếu là
y nội thì nói là antaravāsako.
[19] Đối với y uttarāsaṅgo hay y antaravāsako thì phải đổi là vippavuṭṭho.
[20] Nếu là y uttarāsaṅgo hay y antaravāsako thì chỗ nầy phải là nissaggiyo .
[21]
Lưu ý sắp
văn tự trong lời khai tội với các
nghi thức tuyên ngôn chứng tội ... cho hợp nhau.
[22] Nếu nói với vị cao hạ hơn mình thì nói là haratha ... ārocetha.
[23] Nếu chuyển lời trình tăng giúp vị Tỳ-kheo nhỏ hạ hơn mình, thì nói Itthannāmo bhante bhikkhu gilāno v.v...
[24] Thay đổi
tùy theo chỗ
an cư .
[25] Nếu nhiều vị đồng nguyện hạ thì nói upema .
[26] Nếu nguyện y trong tầm tay thì nói imaṃ nếu ở ngoài tầm tay thì nói etaṃ.
[27] Thay đổi tên trang phục một trong chín thứ đã kể trên: uttarāsaṅgaṃ, antaravāsakaṃ ... v. v...
[28] Nếu vật ngoài tầm tay thì nói etaṃ.
[29] Xả bỏ thứ y nào thì nói tên y đó.
[30] Nếu
bình bát để ngoài tầm tay thì nguyện là etaṃ.
[31] Nếu nguyện bát đất thì đổi là mattikapattaṃ. Hoặc nguyện là pattaṃ cho cả bát sắt và bát đất cũng được.
[32] Nếu ngoài tầm tay thì nói etaṃ.
[33] Nếu gởi
y bát để ngoài tầm tay thì nói etaṃ .
[34] Nếu gởi
bình bát thì nói pattaṃ .
[35] Chú ý thay đổi
cần thiết tùy theo vật trong tầm tay hoặc ngoài tầm. Thay đổi
tùy theo y (cīvaraṃ) hay bát (pattaṃ). Thay đổi số lượng
tùy theo ít hay nhiều.
[36] Nếu là sa-di thì nói Itthannāmassa sāmaṇerassa; nếu là Tỳ-kheo cao hạ hơn thì nói Itthannāmassa āyasmato .
Source: http://www.buddhanet.net/