LƯỢC GIẢI KINH HOA NGHIÊM
Tác giả: HT. Thích Trí Quảng
Nhà xuất bản Thành Phố HCM 2013
Chương VI.
Phẩm Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới
Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Kinh Hoa Nghiêm có
vi trần số bài kệ do
Tỳ Lô Giá Na Phật thuyết. Tỳ
Lô Giá Na chỉ cho
Pháp thân Phật thông được tất cả
thật tướng pháp.
Vì vậy có bao nhiêu
tâm tánh,
hành nghiệp,
suy nghĩ của
chúng sanh trong tất cả loài nhiều như
vi trần thì Tỳ
Lô Giá Na đều
tác động đến và
thể hiện thành những
bài kệ tương ưng.
Thấp hơn một nấc là
kinh Hoa Nghiêm bậc trung do
Báo thân Lô Xá Na
Phật thuyết gồm 498.800
bài kệ.
Bồ tát do cảm tâm nên
nghe được, còn
phàm phu và cả hàng
nhị thừa hoàn toàn tuyệt phần.
Và sau cuøng là
bộ kinh Hoa Nghiêm do
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết, có 100.000
bài kệ, được tàng trữ trong cung rồng
Ta Kiệt La và phải đợi đến khi
Bồ tát Long Thọ ra đời, Ngài
nhập định xuống
long cung, mới đọc được. Sau khi
xả định, Ngài ghi lại để
lưu truyền đời sau. Và truyền đến Trung Hoa thì
gồm có tứ thập,
lục thập và
bát thập Hoa Nghiêm. Ở
Việt Nam thì
sử dụng bộ
bát thập Hoa Nghiêm gồm 39 phẩm, 80 quyển.
Kinh Hoa Nghiêm dài và hạnh
Phổ Hiền cũng nhiều, nhưng lược lại có 61
bài kệ.
Tuy nhiên, theo
Phổ Hiền Bồ tát, đây là cửa ngõ để
chúng ta thâm nhập thế giới Hoa Nghiêm.
Vì vậy, tuy ít nhưng là tinh yếu thì mỗi ngày trì tụng 61
bài kệ này đúng
như pháp,
trí tuệ chúng ta phát sanh,
mở rộng tầm nhìn xa, giúp ta
thâm nhập pháp giới Hoa Nghiêm.
Ở đây,
chỉ trích giảng một số
bài kệ trong
Phổ Hiền hạnh nguyện mà
chúng tôi tâm đắc.28
bài kệ đầu tiên chủ yếu nói về
sám hối tội chướng và
tu tập các
hạnh lành. Đó là điều quan trọng của người tu, vì không
sám hối tội lỗi, nên thường luôn gặp
chướng ngại trên bước đường tu.
Phần lớn
chúng ta thường cho rằng
chướng ngại, chống phá đến từ bên ngoài, mà không
nhận ra đó là nghiệp của
chúng ta. Người
thực dạ tu hành cần phát
hiện nghiệp chướng bên trong mình bằng cách nhìn
thái độ đối xử của người, vì đó là tấm
gương tốt nhất
phản chiếu nghiệp ác của
chúng ta.
Theo Phổ Hiền Bồ tát : "Từ xưa đã tạo nhiều
nghiệp ác. Đều vì
ba độc tham, sân, si. Từ
thân khẩu ý mà gây nên. Tất cả nay tôi đều sám hối".
Từ vô lượng kiếp trước đến nay,
chúng ta tạo tội hoặc vô tình hoặc
cố ý. Xét riêng về phần vô tình tạo tội cũng đã nhiều, vì có nghiệp rồi thì nghiệp tự động sanh thêm, dù ta không muốn.
Thí dụ như
chúng ta có bộ mặt khó thương, người nhìn thấy liền có
ác cảm. Dù
chúng ta có muốn
kết thân, họ cũng không cần, phải biết đó là
túc nghiệp đời trước của
chúng ta.
Vì vậy, đã mang nghiệp rồi rất khó tu.
Chúng ta phải siêng năng
sám hối cho tiêu nghiệp mới có thể tiếp cận
mọi người được vì còn nghiệp thì caøng
tiếp xúc nghiệp ta càng tăng. Ngài
Huệ Tư dạy rằng khi người không ưa ta, chính là không ưa cái nghiệp của ta. Nhưng khi tạo được phước rồi, người thương, tức họ thương cái phước của
chúng ta.
Ý thức như vậy,
chúng ta coá gắng tu tạo phước để xóa lần
nghiệp chướng trần lao.
Theo Phật hay
Phổ Hiền Bồ tát,
bồ đề tâm tức
trí tuệ là trên hết. Tu cùng kiếp mà không có
bồ đề tâm chỉ đạo,
công phu cũng thành
vô ích. Muốn có
trí tuệ,
chúng ta phải học, phải
suy nghĩ, phải làm mà kinh thường gọi là
huệ học.
Thể hiện tinh thần này,
chúng ta tụng kinh,
nghe pháp,
suy nghĩ, làm
lợi ích cuộc đời là
sám hối. Không phải cứ
lạy Phật suông, vì dùng thân
vật chất để lạy khối xi măng, muôn đời không được gì.
Như pháp sám hối,
chúng ta nhìn tượng mà
hình dung ra Phật thật, gợi ta nhớ đến
tư tưởng thánh thiện của Phật mà tập
suy nghĩ theo Phật, nhớ đến hạnh đức cao quý của Ngài mà tập làm theo Ngài.
Đối với tôi,
tu huệ là chính trong cuộc sống.
Đọc kinh,
suy nghĩ,
tìm hiểu và
ứng dụng đúng pháp thì nghiệp tiêu và
công đức sanh ra và
tăng trưởng.
Không
sám hối tiêu nghiệp,
việc làm chúng ta cũng thành
vô ích.
Sám hối theo
Phổ Hiền phải tiêu nghiệp, phước mới sanh. Phước lớn mới được làm bạn với
Bồ tát và
tu hành theo
Bồ tát. Điều này
chúng ta dễ thấy, trên
thực tế người ác xấu luôn có bạn ác. Vì thế, khi người xaáu đến với ta, phải tự biết
chúng ta cũng còn ác xấu.
Muốn gần gũi
Thánh Hiền,
chúng ta phải tập
ngôn ngữ, hành động của
Thánh Hiền. Được như vậy,
chúng ta không đến, các Ngài cũng đến với ta. Ý này thường được
diễn tả là những
tâm hồn lớn thường
gặp nhau.
Bài kệ tiếp theo :Khi tôi
tu học đạo
bồ đề,Trong các loài đều biết
túc mạng,Thường được
xuất gia tu
tịnh giới,Không nhơ, không lỗi, cũng không hư.
Tu học đạo
bồ đề tức phát triển
trí tuệ của mình.
Đạo Phật cũng gọi là đạo
bồ đề, lấy
trí tuệ làm
sự nghiệp. Trên bước đường tu, phát huy được
trí tuệ thì phải nhớ
túc mạng, không bao giờ quên. Như tôi luôn nhớ mình
xuất thân từ nhà quê,
chăn trâu, chăn vịt, bé xíu đã phải lao động,
cực khổ. Hoặc nhớ nhiều
kiếp trước mình cũng từng làm gà vịt. Nhớ
túc mạng khổ sở như vậy,
chúng ta nỗ lực tu để đừng rớt xuống cảnh sống khốn cùng ấy nữa và cũng để giúp người cùng
đi lên.
Về
túc mạng,
Đức Phật nhớ thấu suốt
vô lượng kiếp,
A la hán nhớ được vài mươi kiếp. Còn
chúng ta ít nhất cũng phải nhớ được
ba đời mới không đọa.
Chúng ta có thể đoán biết đời trước bằng cách
quan sát đời này.
Thí dụ Đức Phật nói
tiền kiếp của
Kiều Phạm Ba Đề là trâu, nên đời này ăn cứ nhơi. Nhìn tánh người, cách xử thế của họ, tuy mang thân người nhưng không có
nhân tính là biết
tiền nghiệp họ từ loài khác sanh lại. Hoặc
chư Thiên đoạ xuống mang thân người, nhưng
cách sống của họ
sang trọng và quen tánh tiêu xài thì
đời sau lại khổ nữa;
Đức Phật dạy
chư Thiên đoạ sâu khó lên là như vậy.
Biết đời trước và sợ bị tuột xuống thì mới quyết tu; không biết
túc mạng, không
hết lòng thì
suốt đời tu cũng không được gì. Trên bước đường tu,
cố gắng giữ cho
trong sạch, không
lỗi lầm, vì phạm nhiều
sai trái,
đại chúng không chấp nhận, làm sao tu được.
Theo
tinh thần Đại thừa,
chúng ta phải
trải qua nhiều đời
tu tập, không phải chỉ có một kiếp. Trong dòng sinh mạng
tương tục,
chúng ta tái sanh trong các loài. Nhưng sống trong loài nào, cũng nhớ
hạnh nguyện Bồ tát, thường
xuất gia tu
tịnh giới.
Nếu có
nguyện độ người
giàu sang,
quyền uy thì sanh làm đế vương; muốn độ
giai cấp nghèo thì sanh vào nơi
biên địa hạ tiện.
Tuy nhiên, đóng vai tể tướng, vua chúa hay nghèo cùng, ta cũng đều nhớ đó là nguyện của ta, không quên
tịnh hạnh độ sanh và nguyện
đời đời kiếp kiếp tu
Bồ tát đạo để
viên mãn hạnh
Phổ Hiền.
Sau phần sám hối, bài kệ tiếp theo :Những người cùng tôi đồng một hạnh,Cầu được sanh chung các cõi nước,
Thân khẩu ý nghiệp đều đồng nhau,Tất cả hạnh mầu cùng
tu tập.
Trên bước đường tu,
chúng ta biết quả
bồ đề thuộc về
chúng sanh. Rời bỏ
chúng sanh, không thể nào đạt quả
bồ đề.
Vì vậy,
chúng ta phải lấy
hạnh nguyện độ sanh là chính.
Tuy nhiên, muốn
cứu độ người,
một mình ta không thể làm được. Phải cần nhiều người
hợp tác, nhưng nếu số đông mà lại
ô hợp thì không giúp ích gì, càng hại ta hơn. Chín người, mười ý,
chắc chắn ta không thể làm được,
chúng hội phải tan rã.
Muốn
việc làm thành công nhẹ nhàng,
chúng ta theo gót Phổ Hiền Bồ tát, cầu mong có bạn
đồng hành cùng
hạnh nguyện với
chúng ta. Riêng tôi,
tu Pháp Hoa thì
Linh Sơn cốt nhục laø
pháp lữ đồng
hạnh nguyện. Vì
hành giả Pháp Hoa không
tham vọng, thường sống
tri túc,
an phận nghèo
quy củ tu hành, ai sống như vậy, tôi dễ
kết thân và giúp đỡ được. Người
tham vọng quá lớn, ta không thể nào
đáp ứng đòi hỏi của họ, chỉ còn cách tránh xa.
Cầu mong những người đồng
hạnh nguyện cùng sanh chung một nước với ta; hẹp là chung một chùa, rộng là cùng một
Giáo hội,
cho đến cùng một
quốc gia, cùng một
tôn giáo.
Ý nguyện,
suy nghĩ,
việc làm của ta và họ giống nhau. Ý này dễ
nhận ra, khi thầy trò cùng
chí hướng, cùng
việc làm, sống chung an vui
giải thoát. Thầy không bắt buộc làm gì, nhưng tùy
thân phận mà ta đóng góp tâm sức.
Phật tử cũng không bắt ép được Thầy. Thầy trò cùng nương nhau tu,
tăng trưởng phước đức, thăng hoa cuộc sống
tâm linh. Hoặc khi sống chung với bạn cùng hạnh, ta thường
cảm thấy hân hoan,
thanh tịnh. Khác
hạnh nguyện mà
ở chung dễ sanh bưïc bội,
phiền não. Khổ hơn nữa là phải sống chung với người chống đối hay
tiêu cực, không thể nào làm được việc.
Vì vậy, người nào
tu pháp gì thì tìm người cùng pháp ấy mà tu chung.
Vì tầm quan trọng của
pháp lữ đồng hành, theo
Bồ tát Phổ Hiền, thầy trò thường sanh chung một chỗ, ở rời rạc thì khó
hợp tác. Theo
tinh thần này,
đạo tràng hay
học xứ của
Bồ tát là tất cả
Bồ tát tập họp một chỗ để
suy nghĩ lời Phật dạy,
ứng dụng tu hành, làm được việc
lợi ích lớn lao, tức
sức mạnh của sự đoàn kết.
Đức Phật sanh ở Aán Độ,
thành tựu viên mãn việc
giáo hóa độ sanh cũng nhờ các
Bồ tát cùng sanh với Phật, cùng
trợ lực Ngài.
Thực tế,
lịch sử ghi nhận những người
giàu có,
thông minh,
quyền thế cũng theo Phật
tu học. Nếu chỉ toàn những người tầm thường theo Phật thì Ngài không thể tạo
thành quả phi thường. Phẩm 13
kinh Pháp Hoa cho thấy các
Thanh văn phát nguyện rằng Phật
hóa độ ở cõi nào, các Ngài cũng
xuất hiện ở đó để nương theo Phật mà
hành đạo, ngõ hầu dễ dàng
vượt qua ma chướng.
Tâm đắc tinh thần Bồ tát đồng hạnh đồng nguyện sanh chung một chỗ của
Bồ tát Phổ Hiền,
Hòa thượng Trí Thủ lúc
sanh tiền đã có
lời nguyện :
Đời đời kiếp kiếp được làm
quyến thuộc của
từ bi, tức gặp gỡ
Tăng Ni Phật tử, được cùng sống chung trong ngôi nhà
Phật pháp. Nhiều đời
cùng chung lo
Phật sự, tình người theo đoù mà chan hòa, thăng hoa. Không phải bất đắc dĩ gặp đời này để không còn muốn thấy mặt nhau nữa ở
đời sau.
Chúng ta thường thấy tất cả
Phật sự thành tựu khi các vị
thánh Tăng ra đời thì có bao nhiêu người tốt tu theo.
Khi
pháp lữ được
ba nghiệp thanh tịnh và đồng
chí hướng như ta, ta nghĩ gì, nói gì, làm gì, bạn cũng
chấp nhận và ngược lại, cuộc sống của họ, ta cũng bằng lòng. Thầy trò,
pháp lữ, tức
quyến thuộc đồng tu,
cùng chung ý tươûng, chung
việc làm, tất
dễ hiểu nhau, dễ
thành công. Còn nghịch hạnh, dù ta ráng chiều lòng họ, đến một ngày nào cũng không thể chiều nổi.
Ba nghiệp thân khẩu ý của
chúng ta đồng nhau để
suy nghĩ,
trao đổi và tập làm theo Phật,
Bồ tát,
thánh Tăng để cùng
trở thành Như Lai,
Hiền Thánh. Không phải đồng nhau để làm ác, chống phá,
xuyên tạc người. Ta và
pháp lữ cố tìm lý nhiệm mầu, sống với pháp mầu vì nhận chân
cuộc đời là giả tạm, cùng đi tìm vĩnh hằng. Ta và họ cùng tu, cùng học được
với nhau nên cùng thăng tiến trên đường đạo. Còn ta hướng lên, mà họ hướng xuống, thì phải chỏi nhau thôi.
Khi
quan sát đạo tràng, nếu thấy
ba nghiệp của
chúng hội thanh tịnh đồng nhau,
chúng ta biết
con đường tiến đến
quả vị Phật gần. Được như thế, không phải
tự nhiên, cũng không phải một kiếp mà có; vì thực sự hiểu được lòng nhau không
đơn giản. Nhìn
chúng hội đạo tràng của Phật,
Bồ tát,
Thanh văn và của người
sơ phát tâm,
chúng ta thấy rõ
hoàn toàn khác nhau. Chúng
sơ phát tâm còn nhiều
phiền não, thường luôn
giao động, tánh tình họ
chao đảo liên tục, sống với
đại chúng dễ đụng chạm nhau.
Các
thiện tri thức lợi ích tôi,
Vì tôi chỉ bày hạnh
Phổ Hiền,
Nguyện cùng tôi thường chung hội họp,
Đối với tôi lòng luôn
hoan hỷ.
Chúng ta tu rất cần
thiện tri thức nhắc nhở. Người
Việt Nam có câu nói
dễ thương để
diễn tả ý này : "Aên cơm có canh,
tu hành có bạn".
Thiện Tài đồng tử trên đường
tham vấn đã cầu học với 53
thiện tri thức, mỗi vị chỉ dạy một pháp. Nhờ họ chỉ cách tu,
nhận ra hạnh nào đúng để theo và
sửa đổi những việc
sai lầm. Không có
thiện tri thức chỉ bảo, khó lòng
đắc đạo.
Chúng ta sai, nhưng gặp người tâng bốc,
chắc chắn ta thất bại. Còn ta đúng, nhưng họ
ganh tỵ, cản ngăn ta thì cũng hỏng.
Theo tôi, các
thiện tri thức làm
lợi ích cho ta có hai hạng.
Thiện tri thức mà
chúng ta nương theo
tu học và
thiện tri thức giúp
chúng ta trong thế
mâu thuẫn.
Ban đầu ta thường vấp phải khuyết điểm, ai nói theo hoặc giúp đỡ, ta liền nở mũi, thích chơi với họ. Người nào gây khó khăn làm ruột
chúng ta quặn lại, không thích gần gũi. Nghĩ cho cùng, cả hai đều cần cho việc quân bằng cuộc sống, cứ
vậy mà ta đi lần lên
con đường Hiền Thánh, bỏ lại phía sau những thương ghét của trần gian.
Thật vậy, có người giúp đỡ
vỗ về chúng ta qua
cơn hoạn nạn,
nếu không chúng ta dễ thối chuyển hoặc dễ làm điều
sai trái.
Tuy nhiên, chỉ toàn người
lo lắng, giúp đỡ, cũng dễ sanh tâm
ỷ lại,
tăng thượng mạn, cứ tự cho mình là nhất, không ai được nói động đến. Nhờ có
thiện tri thức đối lập,
chúng ta phát hiện tánh xấu ác còn tồn đọng, tự khắc phục
sai lầm và dần phát huy
đạo hạnh.
Cuộc đời tu hành của tôi nhờ hai
thiện tri thức thuận nghịch này,
ví như hai chân cho tôi đi tới. Có người giúp đỡ, cũng có người gây khó khăn, tạo cho tôi biết bao
thử thách gian truân. Nhưng càng tiến xa trên đường hành
Bồ tát đạo, tôi thấy càng cần người gây khó khaên hơn, vì có khó mới có khôn,
hiểu rõ ý nghĩa cuộc sống và
trưởng thành trên đường đạo.
Đức Phật cũng dạy nhờ
Đề Bà Đạt Đa chống phá mà Ngài mau đạt
Vô thượng đẳng giác. Không có người ác, khó
nổi bật vai người hiền.
Chúng ta cám ơn người giúp đỡ và đối với người gây khó khăn,
chúng ta thầm cám ơn hơn, nhờ đó ta thực sự tròn hạnh
Phổ Hiền và thốt lên
lời nguyện "Đối với tôi, lòng luôn hoan hỷ". Người chọc phá hay
tùy thuận, giúp đỡ,
chúng ta đều
hoan hỷ.
Không
hoan hỷ, không
tha thứ, làm sao người dám làm bạn với ta hoặc chỉ lỗi cho ta. Theo tôi, sợ nhất là người nịnh bợ. Thực sự ta sai, không tốt; nhưng muốn
lấy lòng ta, nên họ khen hay. Ta nghe theo, nở mũi nhưng vì ta làm bậy, thọ
quả báo, rồi họ lại khinh chê. Không nên gần gũi những người như thế.
Thiện tri thức vì thương, giúp ta
trưởng thành, mới
ngăn cản việc
sai trái. Ta cần
trân trọng,
mang ơn họ. Rieâng tôi, đã từng gặp nhiều
thiện tri thức này. Họ
nói một lời như sét đánh ngang tai, nghe nhói tim. Nhưng
suy nghĩ lại, ta
giựt mình, thay đổi
việc làm, thì không thọ
quả báo. Đó là
thiện tri thức gợi ý cho ta thấy được hươùng đi đúng. Đối với những người này, dù có nặng lời,
chúng ta cũng không giận họ, mà luôn
hoan hỷ vì tự nghĩ họ
xây dựng mình. Nhưng có lúc họ cũng phê phán sai,
chúng ta vẫn
hoan hỷ để chọn được điều
tốt đẹp nhất cho hướng ta tu.
Nguyện thân khẩu ý
hằng thanh tịnh,
Công hạnh cõi nước cũng không nhơ,
Trí huệ hạnh đức gọi
Phổ Hiền,
Nguyện tôi cùng Ngài đều đồng đẳng.
Trên bước đường tu,
ba nghiệp thân khẩu ý thanhtịnh là điều quan trọng tất yếu phải có
trước tiên để
chúng ta tu hạnh Phổ Hiền. Thật vậy,
thân nghiệp thanh tịnh nên người thấy ta thì họ hết
phiền muộn, được an vui, nghe ta nói thì họ mát lòng,
ý kiến của ta đều hợp tình
hợp lý, được người
chấp nhận dễ dàng.
Trái lại, nếu ở chùa mà
ba nghiệp không
thanh tịnh, khi gặp người đời vốn dĩ đầy
phiền não, tất nhiên
phiền não của ta và người
gặp nhau,
tác động hỗ tương, tạo thành
phiền phức không thể tưởng nổi.
Thực tế ở những
tu viện chỉ toàn những vị
chân tu thật học sống chung
với nhau, bước chân vào đó,
chắc chắn chúng ta cảm nhận được ngay không khí
giải thoát,
an lành.
Khi
thân khẩu ý của
chúng ta luôn luôn
thanh tịnh, thì gặp ai họ cũng
cư xử tốt với ta. Họ chưa
quý mến,
kính trọng, phải biết là ta chưa
thanh tịnh, vì
chúng ta còn
hiện tướng khó coi, giọng nói khó thương,
ý nghĩ khó
chấp nhận.
Ý thức sâu sắc
nghiệp ác tràn đầy như vậy,
chúng ta cầu mong sao có
thân tướng dễ coi, giọng nói làm mát lòng người,
ý nghĩ đều
đúng đắn. Có thể nói, người được
ba nghiệp thanh tịnh,
việc làm nào của họ cũng thành tốt,
lợi lạc cho người. Thậm chí họ có rầy mắng, ta cũng
cảm thấy thương và
mang ơn họ.
Ngoài ra,
bài kệ này cũng nhắc nhở
chúng ta trên bước đường tu, cần có
ý hướng thượng, nhìn lên mẫu người
tài đức để
so sánh,
tiến tu. Đừng hướng xuống sẽ không
tiến bộ.
Chúng ta hướng tâm đến hàng
Duyên giác,
Bồ tát, nhất là
Bồ tát Phổ Hiền, vì
ba nghiệp của các Ngài lúc nào cũng
thanh tịnh. Riêng
chúng ta, trên bước đường tu phần phá
vô minh,
phần chứng Pháp thân, có lúc
thanh tịnh, lúc
phiền não.
Thí dụ như
sát nghiệp ta không còn, nhưng còn
ý muốn giết. Thấy vật đẹp,
chúng ta vẫn
khởi tâm ham muốn, dù không lấy cắp; nghĩa là ý không
thanh tịnh. Khó tìm được một lúc cả
ba nghiệp của
chúng ta đều
thanh tịnh.
Phổ Hiền dạy
chúng ta ráng giữ
niệm niệm thanh tịnh, không
gián đoạn; đó là
bí yếu để
tu hành theo
Phổ Hiền. Khi
ba nghiệp của ta
hằng thanh tịnh rồi, hạt nhân
trong sạch ấy sẽ
tác động cho người
xung quanh và
cảnh giới ta sống cũng
thanh tịnh theo.
Tu hành tạo được
chánh báo như thế nào thì
y báo cũng thế. Khi
chúng ta trang nghiêm thân tâm bằng
phước đức,
trí tuệ, tất nhiên
cảm hóa được người
tốt lành theo. Có người hiền giỏi, cõi nước
chúng ta xây dựng cũng tự động
tốt đẹp.
"Trí huệ hạnh đức gọi Phổ Hiền", nghĩa là
Bồ tát Phổ Hiền thành tựu 4 điều : Trí, huệ, hạnh, đức. Trí tức
hiểu biết theo sách vở, do học mà có. Người
học rộng nghe nhiều thì biết nhiều. Huệ khác với trí, vì đó là
hiểu biết đặc thù, nhìn xa thấy rộng bằng
trực giác, không phải nhờ sách vở hay
suy nghĩ. Huệ hay
trực giác có được là do
tu hành, tuy không
suy nghĩ nhưng phải
vượt trội hơn
suy nghĩ.
Người có học,
hiểu biết kinh điển, nhưng không có huệ, họ thường lập lại y khuôn sáo, không còn
phù hợp với
thực tế.
Vì vậy, nói hay nhưng không ai nghe. Trong khi người có huệ, nhìn thấy đúng thực trạng của
xã hội,
nhận xét của họ thường
chính xác, được người nghe theo. Phải học, phải tập
quan sát, tu cho có
trực giác; vì
việc đời luôn thay đổi, không bao giờ lập lại,
chúng ta đổi mới không kịp là bị tụt hậu.
Ngài
Phổ Hiền dạy
chúng ta phải học để có trí, phải tu để có huệ, phải làm để thành hạnh và
cuối cùng là làm lâu ngày, hạnh
biến thành đức. Có đức thì không cần làm
hay nói khác, được người
kính trọng đức độ, nên
việc làm chúng ta trở nên
đơn giản. Mặc dù không nhờ người, nhưng họ tự nguyện làm và việc
thành tựu nhẹ nhàng. Trong
sinh hoạt Phật sự,
chúng ta cũng dễ
nhận ra ý này. Khi vị
chân tu có
đức độ lãnh đạo, người người đều phục tùng, việc tưï tốt. Nhưng người giỏi mà thiếu đức, họ
điều hành thường bị nhiều người chống đối, khó
thành công.
Trên bước đường
tự hành hóa tha,
chúng ta phải
kết hợp bốn phần : trí, huệ, hạnh, đức. Có việc
chúng ta phải làm là
thể hiện hạnh, nhưng có việc không làm cũng được, tức
sử dụng đức để điều động việc
thành tựu. Có lúc
chúng ta không thể biết bằng
trực giác, thì phải dùng
suy nghĩ.
Phổ Hiền Bồ tát đầy đủ
trí huệ hạnh đức,
chúng ta cũng
quyết tâm nuôi lớn bốn điều ấy. Đời này không được,
đời sau cũng có
trí huệ hạnh
đức bằng với
Phổ Hiền Bồ tát để
trang nghiêm thân tâm.
Vì khắp
thanh tịnh hạnh
Phổ Hiền,
Trí huệ rộng lớn của
Văn Thù,
Trọn
sự nghiệp kia không hề sót,
Đến kiếp
vị lai hằng không mỏi.
Văn Thù tiêu biểu cho vị
Bồ tát có
trí huệ rộng lớn và
Phổ Hiền chủ về hạnh. Hội
Hoa Nghiêm nhấn mạnh đến sự
kết hợp trí rộng lớn của
Văn Thù và huệ hạnh cuûa
Phổ Hiền.
Trí Văn Thù và hạnh
Phổ Hiền là hai điều tối quan trọng trên bước đường
tự hành hóa tha. Thật vậy, khi tu
Thanh văn, chủ yếu phát triển
trí huệ.
Tuy nhiên, vì không hành động nên
hiểu biết cũng chỉ trên
lý thuyết, chưa có kết quả
thực chứng.
Tuy nhiên, nếu hành động mà thiếu
trí tuệ chỉ đạo, dễ dẫn đến
sai lầm và thất bại.
Muốn có đủ hai phần trí và hạnh,
chúng ta phải trồng căn lành ở các
Đức Phật. Nghĩa là tu theo Phật, làm việc cho Phật để
chúng ta trở thành quyến thuộc của Ngài, mới
hành đạo Bồ tát được.
Có căn lành và
sử dụng căn lành ấy để
chúng ta theo
Văn Thù phát triển
trí huệ, theo
Phổ Hiền phát triển hạnh đức. Thiếu hai phần này không thể nào tu theo
Văn Thù và
Phổ Hiền được.
Đối với
chúng ta, hai
vấn đề trí và hạnh được
thể hiện trong cuộc sống một cách
liên tục, không hề biết mỏi mệt.
Chúng ta lập chí phát huy
trí hạnh cho đến bao giờ bằng với hai vị
Bồ tát Văn Thù và
Phổ Hiền, mới yên tâm.
Theo
kinh nghiệm riêng tôi,
lập chí phấn đấu vươn lên là điều tối quan trọng giúp ta
vượt qua khó khăn,
chướng ngại trên đường hành
Bồ tát đạo. Từ thuở nhỏ, khi
tu học, tôi
nỗ lực lập hạnh, tiếc từng giờ, từng phút
trôi qua, ráng giữ từng
niệm tâm thanh tịnh. Tôi thường tự nghĩ làm việc đến 50 tuổi là có thể nghỉ ngơi. Nhưng nay, so với đoạn đường tu trước kia,
mọi việc có phần dễ dàng hơn nhiều, vì đã tu tạo được
phước huệ,
tích lũy được
công đức, đã
vượt qua những khó khăn. Với
uy tín và
thành quả ấy dùng làm thềm thang,
tiếp tục làm thêm, việc cũng
thành tựu nhẹ nhàng,
đơn giản.
Tôi tu các hạnh đều
vô lượng,
Được các
công đức bất tư nghì,An trụ những hạnh rộng lớn này,
Suốt thấu tất cả
thần thông lực.
Theo
Phổ Hiền Bồ tát,
việc làm không có
giới hạn, việc gì cũng làm và làm bất cứ lúc nào, không nề hà.
Chúng ta không cố định một ngày phải tụng bao nhiêu thời, bất cứ lúc nào có việc quan trọng hơn, người cần giúp sức thì ta sẵn lòng làm.
Chúng ta luôn
ý thức tu
vô lượng kiếp,
thể hiện vô lượng hạnh.
Lúc tốt nghiệp ở Nhật,
trở về nước, nhiều người lớn tuổi đến với tôi để tìm
an lành cho tháng ngày còn lại của họ. Tôi thấy rõ đó là duyên
hành đạo lúc ấy như vậy, không thể khác hơn. Thấy được việc
trước mắt phải làm, còn
quyết định mình phải làm gì, rồi chờ đợi, chê bỏ việc khác, e rằng việc ta mong muốn không đến thì sao.
Vì tu
vô lượng hạnh nên được các
công đức bất tư nghì. Những người dù lớn hay nhỏ ở trong
pháp giới đều nhờ ta giúp đỡ. Đã từng
ban ơn cho nhiều người, việc của ta tất nhiên
thành tựu dễ dàng. Điển hình như một bà người
Nhật bản chuyên ra nghĩa địa
tụng kinh Pháp Hoa và lau rửa mồ mả. Một
thời gian sau, bà có đến 3 triệu
tín đồ. Điều này có thể hiểu là những người
quá cố đã
thọ ơn tế độ của bà, nên
tái sanh làm
đệ tử,
trung thành một cách lạ lùng và mặc dù bà không học, nhưng
đệ tử lại là những người có học vị
Tiến sĩ hoặc giáo sư
Đại học.
Thiết nghĩ, khi thấy rõ
nhân duyên hành đạo,
chúng ta sử dụng giáo pháp đúng chỗ, đúng đối tượng đều có kết quả
lợi lạc.
Độ người giàu không được,
chúng ta độ người nghèo, dạy người sống không được,
chúng ta cứu người
quá vãng.
Được
công đức vô lượng rồi,
chúng ta an trụ
công đức đó để
hành đạo; đừng bỏ chạy khỏi môi trường ấy.
Công đức và
nhân duyên tu tạo được, ta nương theo
thành quả ấy mà
đi lên. Nếu khởi
tham vọng, nghĩ đến việc cao xa ngoài tầm tay, sẽ mất hết. Riêng tôi, trên bước đường tu, luôn an trụ
công đức và
đạo tràng đã
dày công xây dựng, vì biết giỏi dở gì cũng là
quyến thuộc của tôi;
từ bỏ để kiếm cái khác không bao giờ có.
Trí huệ rộng lớn của
Văn Thù,
Huệ hạnh
Phổ Hiền cũng dường ấy,
Tôi nay
hồi hướng các căn lành,
Thường theo các Ngài mà
tu học.
Tấm
gương sáng của
Bồ tát Phổ Hiền và
Văn Thù,
chúng ta nguyện học theo. Các Ngài kề cận với
Đức Phật, đã
thành tựu những
hạnh lành ấy,
chúng ta nối gót theo, xem các Ngài làm gì và so với việc của mình để
điều chỉnh,
chắc chắn cũng
thành công. Chư Phật
ba đời luôn khen ngợi,
Những nguyện rộng lớn khó
sánh bằng,
Tôi nay
hồi hướng các căn lành,
Để được
Phổ Hiền hạnh
thù thắng.
Ba đời các
Đức Phật đều khen ngợi hạnh
Phổ Hiền, đều chọn Ngài làm
trưởng tử, nên
chúng ta biết đó là hạnh tốt.
Chúng ta nguyện đem tất cả
phước đức,
nhân duyên đã tu tạo để
hồi hướng cho
chúng ta có được hạnh
Phổ Hiền thù thắng.
Chúng ta nguyện như vậy vì
tu hành cần có định hướng
rõ ràng, không
mục tiêu khó đi đến nơi, đến chốn. Vạch ra
mục tiêu xong,
chúng ta bắt đầu
tích lũy. Như tôi lập hạnh tu rồi, bằng mọi cách tạo nên phước và dồn phước này thành hạnh
thù thắng. Tạo được
công đức,
chúng ta không dám hưởng, phải dùng phước ấy để tạo các coâng đức khác, vì biết rằng tạo rồi hưởng thì
đời đời kiếp kiếp, cũng chẳng được gì.
Hồi hướng tức
để dành, nhưng
để dành ở đâu ?
Đầu tiên,
chúng ta tạo
phước báo hữu lậu và sau đó, đổi sang
vô lậu phước báo, hay
hồi hướng về Phật, cúng cho Phật. Nhưng
cúng Phật nghĩa là lo cho
chúng sanh. Lo cho
chúng sanh càng nhiều,
công đức càng lớn.
Đức Phật thường dạy
thành tựu chúng sanh là
tối thượng cúng dường.
Lo cho
chúng sanh, tức gieo vào lòng họ mối
thiện cảm, kế đến
chúng ta mới đưa
giáo lý vào
nhận thức của họ, để cải tạo tâm ác xấu thành
tốt đẹp. Thật vậy, người có
cảm tình rồi mới có thể nghe ta.
Lúc ấy mới đem
phải trái dạy họ. Trái laïi, không làm
chúng sanh cảm tình, mà
chúng ta cứ răn đe cũng
vô ích, người không nghe, thậm chí họ nghĩ ta không ra gì mà còn
lên mặt dạy đời. Khi người nghe, mới dạy
giáo lý khó tin, khó làm.
Giáo pháp đưa vào tâm người,
tiêu diệt nghiệp chướng phiền não của họ. Đầu tư
thiện cảm và
tri thức cho người, cả hai đều vô hình, vô ảnh, được chứa đựng trong
hư không tạng, có một sức chứa
kỳ diệu. Người cảm nhận được sự
gắn bó mật thiết, khoâng thể nào
giải thích, giữa ta và họ, giữa họ và Phật.
Chúng ta hồi hướng căn lành theo
Phổ Hiền, mặc dù không giữ tiền, nhưng có đủ tiền làm
lợi ích chúng sanh,
đủ trí khôn giải quyết được
mọi việc,
đủ sức làm được tất cả như Ngài. Nay
chúng ta chưa làm được như Ngài, phải tự biết
kiến thức ta còn kém,
sức lực yếu, nên phải làm nhỏ và tiền ít thì phải
để dành.
Tôi cảm nhận sâu sắc hạnh
Phổ Hiền,
hồi hướng Phật đạo, nghĩa là sưû dụng
tiền của,
hiểu biết của tôi đầu tư cho
Tăng Ni Phật tử, giúp họ
tiếp thu đạo đức và
tri thức,
thể hiện trong cuộc sống. Ta đã biến
việc làm này
thành công đức và gởi cho
chúng sanh trong
vô tận tạng, không ai coù thể lấy cắp
phước báo vô lậu Thánh tài này.
Trong
sinh hoạt đời thường,
chúng ta thấy rõ
phước báo tuy vô hình, nhưng nó
thể hiện rõ trong cuộc sống, trong
thân tướng của người có phước. Họ
hiện hữu ở nơi nào, cảnh quang nơi đó cũng thành
tốt đẹp,
tiện nghi cũng đầy đủ. Người không phước làm rất
vất vả, phải bòn từng đồng, cái gì cũng ham, mà có được thì cũng bị mất cắp, không giữ nổi.
Chư Phật
ba đời luôn khen ngợi
việc làm của
Phổ Hiền, không có nguyện nào, hạnh nào so được với
Phổ Hiền.
Hòa thượng Trí Thủ, lúc
sanh tiền, cảm hạnh này, tặng cho Ban
Hoằng pháp bài kệ :
Phần hương nhứt
niệm pháp không vương.
Đại hạnh đồng tham biến
kiết tường.
Sát hải trần thân thi
diệu lực. Trầm kha
chướng nghiệp tổng an khương.
Nguyện lớn của
Phổ Hiền là luôn tìm việc khó làm, luôn tìm người khó độ để tiếp độ. Ngài thường sanh vào
quốc độ có
hoàn cảnh khó khăn để
gánh vác việc
lợi ích chúng hữu tình, nguyện của Ngài khó có gì
sánh bằng là vậy.
Hàng
Thanh văn thì
nguyện Phật sanh nơi đâu, các Ngài sanh nơi đó và chỉ làm việc với Phật thôi. Điều này
dễ hiểu vì ai cũng thích gần gũi người hiền, giỏi, tốt; chẳng ai thích chơi với người xấu ác.
Bồ tát sơ phát tâm cũng nguyện tu ở
thế giới Phật, không
hành đạo ở
Ta bà, nơi toàn người hung ác,
ngang bướng.
Riêng
chúng ta cũng vậy, thích về
Tịnh độ vì có toàn thượng
thiện nhân, còn ở đây, khó lòng kiếm được người
tin cậy để cùng làm việc.
Sơ phát tâm hành đạo,
chúng ta không sợ cực, nhưng phải có
bạn đồng tu hiểu ta, cùng
hợp tác, ta mới làm. Tất cả cùng làm thì vui, còn
một mình ta làm mà tất cả hưởng thụ, chẳng mấy chốc ta sẽ chán nản, bỏ cuộc.
Bồ tát Phổ Hiền thì khác, Ngài
tâm niệm ở cõi này không ai làm, Ngài mới có cơ hội
hành đạo. Đối tượng của
Bồ tát Phổ Hiền là
chúng sanh cang cường,
nghiệp chướng sâu dày mà
Phổ Hiền nguyện chữa lành bịnh họ, nên Phật nói khó có
Bồ tát nào so với Ngài được. Hạnh
Phổ Hiền thù thắng, Ngài không cần nói, không
dụ dỗ, không mua chuộc mà người tự
quy phục; trong khi người khác nói hay, nhưng
việc làm của họ không đúng với
lời nói, nên không có sức
thuyết phục chúng ta.
Phổ Hiền chủ về hạnh,
thể hiện bằng
việc làm thành tưụ
tốt đẹp hơn người.
Trên bước đường tu, nối gót theo hạnh
Phổ Hiền,
chúng ta nguyện vượt khó, làm việc khó.
Tuy nhiên,
chúng ta muốn
đạt được hạnh
thù thắng như
Phổ Hiền, cần
sử dụng căn lành để tu, nghĩa là phải
triệt tiêu tánh ác và
tăng trưởng tánh lành. Vì tạo được căn lành trước rồi, nên ta khởi tu, làm được những việc
thù thắng mà người không làm nổi.
Bình thường, người hay tránh nặng, tìm nhẹ; nhưng
tu hạnh Phổ Hiền hồi hướng các căn lành, tức
dùng sức khỏe,
trí khôn, tiền bạc, khả năng dồn lại để
gánh vác Phật sự.
Ngoài ra,
chúng ta tạo
điều kiện cho người khác làm.
Thí dụ ta
thể hiện lời Phật dạy hành
bố thí cúng dường được hưởng
quả báo giàu có. Người thấy ta được phước như vậy, họ bắt chước làm theo và ta sẵn lòng nhường cho họ, vì có nhiều người làm việc tốt càng lợi cho đời.
Đức Phật diệt độ, nhiều người sợ khó khăn hiểm nguy ở
thế giới hung ác này thì
Phổ Hiền Bồ tát xuất hiện trong phẩm cuối
kinh Pháp Hoa. Ngài khuyến khích
mọi người cứ lo tu, Ngài sẵn sàng
ủng hộ. Nói suông thì không ai nghe, đi
một mình họ cũng không nghe,
Phổ Hiền đi với
vô số Bồ tát,
bát bộ thiên long, đến đâu cũng
rải hoa trời. Ngài
biểu dương thế lực mạnh như vậy cho
chúng ta yên tâm
tu hành.
Bản thân tôi tu được cũng nhờ
niềm tin vững chắc nơi
Phổ Hiền và cảm nhận được lực
gia bị của Ngài giúp tôi
vượt qua nhiều
chướng nạn trên đường hành đạo.
Phổ Hiền cho biết ai tu bị ma phá, Ngài sẽ dùng
thần thông lực bắt ma
hộ trì Phật pháp. Thay vì chống ta, lực
Phổ Hiền buộc họ phải theo ta, định
nói xấu thì có lực
Phổ Hiền ngăn cản.
Chúng ta cũng
tu tập hồi hướng cho có đủ
thần thông lực như
Phổ Hiền Bồ tát, làm được những việc khó làm như Ngài mới thực sự là
trưởng tử của
Như Lai, được chư Phật
ba đời khen ngợi.
Kinh Hoa Nghiêm diễn tả Bồ tát đạo, lấy hạnh
Văn Thù và
Phổ Hiền làm hạnh
tu chính để vào đời
độ sanh. Nhưng
cuối cùng,
Phổ Hiền lại dạy
chúng ta vãng sanh cõi
Cực lạc:
Nguyện tôi lúc mạng sắp
lâm chung,
Trừ hết tất cả các
chướng ngại,
Tận mặt gặp Phật
A Di Đà,
Liền được
vãng sanh cõi
Cực lạc.
Nghĩa là
Phổ Hiền nhắc nhở
chúng ta gần gũi
chúng sanh ở
Ta bà, làm tất cả cho
chúng sanh, nhưng lúc nhắm mắt từ giã cõi đời, không thể có
bóng dáng chúng sanh nào lảng vảng, mà
chúng ta phải
diện kiến Phật
Di Đà. Trên đường hành
Bồ tát đạo, lăn xả vào
trần ai, sợ nhất là bị hư lúc nào không hay vì
nghiệp chướng trần lao đổ ra,
chúng ta quay lại không được. Tôi thường
cân nhắc điều này trên bước đường tu. Khi
sanh tiền, làm tất cả không từ chối. Nhưng lúc
lâm chung,
đáng sợ nhất là
cận tử nghiệp nổi lên do hành
Bồ tát đạo trước kia còn tồn đọng trong tâm
chúng ta. Ta thương người này, thích việc nọ, làm không sá kể gì, nhưng
vô thường đến mà việc còn
dở dang thì sao.
Cần phải chuẩn bị, lúc sắp chết, việc nào cũng xong, không bận tâm, đừng để ai lôi kéo, vì nếu nợ
oan gia đến đòi, làm sao trả được, phải đọa thôi.
Chúng ta cầu mong lúc
lâm chung, tất cả
chướng nghiệp đều
tiêu tan, việc gì trở ngại khiến ta không bằng lòng thì mất hết, điều gì làm ta mất
chánh niệm không bao giờ đến. Việc đâu vào đó, ta hướng tâm về Phật và những người
xung quanh chỉ có taâm niệm
duy nhất đồng
hộ niệm cho ta
vãng sanh, còn họ
thương nhớ khóc than làm ta
quyến luyến trở lại.
Tuy ở
thế giới này,
chúng ta thường ghi nhớ trần gian là cõi tạm bợ,
chắc chắn phải rời bỏ. Muốn tu cần luôn ý thưùc như vậy và tập xả ly.
Thực tế chúng ta thấy người tu có
phước báo,
quyền uy,
của cải,
sự nghiệp, nhưng họ tập bỏ bằng cách ẩn tu, thử xem lòng có nặng không. Như vua Trầøn Thái Tông,
Trần Nhân Tông ở núi tu, ăn hạt dẻ, uống nước lã cũng không thấy khác gì với cuộc sống ở triều đình.
Tâm hồn thanh thản như thế
chắc chắn vãng sanh được.
Trái lại,
chạy theo vật dục, nhiều
ham muốn quá, dù tu gì cũng luẩn quẩn trong
sanh tử.
Không nghĩ đến phú quý
vinh hoa hay không còn
tâm trần thế, thì
nghiệp trần cấu hết,
chúng ta tự duyên được
thế giới Phật.
Tịnh độ tự hiện,
tinh thần chúng ta an vui, nhắm mắt là thấy Phật,
Bồ tát, không thấy
chúng sanh đáng ghét, người ấy có
điều kiện vãng sanh. Thấy được
thế giới Phật trong
chiêm bao, thấy do tưởng tượng
cho đến thấy
thế giới thật của Phật, được Phật,
Bồ tát khen ngợi, báo
cho biết chúng ta mãn duyên sẽ về
thế giới nào đó. Nhờ vậy,
chúng ta sống trên
cuộc đời mà lòng nhẹ tênh, kinh gọi là tâm
khinh an. Đến lúc mạng sắp
lâm chung, được Phật xoa đảnh
thọ ký,
tiếp rước,
chúng ta theo ánh quang Phật đi về
Tây phương.
Qua
đoạn kết của phẩm
Phổ Hiền hạnh nguyện, cho thấy rõ tu theo
Hoa Nghiêm cũng là tu
Tịnh độ. Nhưng để về
Tịnh độ được,
chúng ta phải
tu hạnh Phổ Hiền, trồng căn lành, gieo nhân
Tịnh độ. Đó là ba điều tất yếu mà người muốn về
Tịnh độ cần trang bị theo
tinh thần Hoa Nghiêm.
Căn lành phải trồng với Phật, vì không có căn lành, muốn tu cũng không được. Không phải bất cứ ai cũng được phép tu chung với
đại chúng ở chùa. Có căn lành thì người mời đón
chúng ta đến ở, không căn lành thì họ sợ ta vô
ăn cắp. Không căn lành mà phải
ăn chay, ta thở không nổi, cũng phải ra. Người có căn lành, ai thấy cũng thương và càng
phục vụ đạo, càng khỏe thêm.
Kế đến là hạt nhân
Tịnh độ phải có, nghĩa là tâm
chúng ta lúc nào cũng an vui,
thanh tịnh, không ai có khả năng
tác động,
não hại được tâm ta. Còn dễ bực, dễ nóng, dễ gây, phải biết ta đang
chất chứa hạt giống ác. Chỉ có
hạt giống lành,
tâm thanh tịnh mới là
tư lương đưa ta về
thế giới Phật
Di Đà.
Chúng ta tự
kiểm tra nếu thấy việc đáng giận mà không giận, đáng ham mà không ham, khi chạm trán với khó khăn vẫn giữ được
tâm hồn bình ổn,
trong sáng, là biết ta có
tịnh nhân.
Nuôi dưỡng hạt giống tịnh là việc quan trọng của người biết tu.
Kết hợp tịnh nhân với căn lành để
tu hạnh Phổ Hiền, tức ta
gánh vác công việc khó nhọc, làm thay cho người, không
phiền hà,
không tính toan.
Xả thân lo cho đạo như vậy,
dần dần tích lũy được
công đức,
chắc chắn chúng ta sẽ đạt
quả vị Vô thượng đẳng giác.
Hội đủ ba điều : Căn lành,
tịnh nhân và hạnh
Phổ Hiền, lúc
lâm chung, các
chướng nghiệp không hiện, ánh quang Phật chiếu đến thân ta và chân linh
chúng ta theo Phật về
thế giới Ngài. Ở
thế giới Ta bà tu trầy trật,
cực khổ lắm. Nhưng về
Tịnh độ,
chúng ta tự đầy đủ hạnh
Phổ Hiền một cách nhẹ nhàng,
đơn giản.
Ở
Ta bà,
chúng ta thử tu một hạnh
sám hối như
Phổ Hiền dạy cũng thấy
vô số vấn đề nan giải.
Chúng ta sám hối được một
nghiệp chướng đã khó, dằn được một việc thì liền có ác xấu khác quay
chúng ta liền. Hoặc tu hạnh
lễ kính chư Phật, lạy đươïc một
Đức Phật thật không phải dễ. Nhưng
Phổ Hiền Bồ tát bảo
chúng ta nhứt thân phục hiện
sát trần thân, nhứt nhứt biến lễ
sát trần Phật. Nghĩa là
Đức Phật nhiều như
bụi trần trong
mười phương pháp giới, đã ra đời thaønh
Vô thượng đẳng giác hay chưa ra đời, còn trong
tâm niệm chúng ta, đồng một lúc Ngài nhìn thấy hết và hiện đủ thân trước tất cả người đó
đảnh lễ không sót. Tất nhiên,
Bồ tát Phổ Hiền không dùng
thân tứ đại để lạy, Ngài
sử dụng lực của
bản tâm thanh tịnh đi vào pháp giới để
đảnh lễ ba đời chư Phật, trong đó có
Pháp thân của
chúng ta.
Thiết nghĩ pháp này quá khó đối với
chúng ta. Theo tôi, khi
lễ Phật, nếu nghĩ Phật xi-măng thì không lạy được, nhưng không
lạy Phật này thì
chúng ta lễ Phật nào ? Phật thật theo
Phổ Hiền thì làm sao
chúng ta có mà lạy được. Nếu đọc
danh hiệu Phật rồi lạy, mà cứ thấy tượng xi-măng là biết
chúng ta mơi tu vòng ngoài.
Đức Phật dạy rằng
chúng ta vãng sanh về
thế giới Ngài thì việc
lễ kính chư Phật của
chúng ta tự thành. Vì
lúc ấy,
tứ đại ngũ uẩn mất, nó không thể
chi phối ta được. Khi còn mang thân
vật chất, ta dễ bị
tứ đại ngũ uẩn của
chúng sanh luôn
tác động; vì thế nhắm mắt lại, cứ thấy
chúng sanh, không thể thấy Phật. Nhưng
vãng sanh về Phật,
ngũ uẩn mất, nó không
tác hại ta được nữa, chỉ còn
chơn tâm.
Chơn tâm này
thông suốt với
Phật tánh, nên
ba đời các
Đức Phật đều hiện
trước mặt chúng ta.
Lúc ấy,
Phật hiện hữu bằng tâm và
chúng ta cũng tu bằng
Bồ đề tâm, không tu trên
hiện tượng giới nữa. Và từ đó,
thành tựu nguyện lớn của
Bồ tát Phổ Hiền dễ dàng. Vì thế,
Phổ Hiền cho biết :
Tôi đã
vãng sanh cõi kia rồi,
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này,
Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu,
Lợi lạc tất cả loài
hàm thức.
Hiện tại,
chúng ta còn
thân tứ đại, tu ở
hiện tượng, nhưng phải mượn cho được
phương tiện này để
thâm nhập vào
vô tướng đạo tràng,
phát Bồ đề tâm và tu trên
bản tâm. Đó là cả quá trình tu không
đơn giản. Tuy khó, nhưng việc
tu hành trên
bản tâm là pháp
cốt lõi rất quan trọng, vì nếu còn kẹt trong
ngũ uẩn thì tu muôn kiếp ngàn đời
cũng thế thôi. Có thể khẳng định rằng
vãng sanh Cực lạc theo
tinh thần Hoa Nghiêm là
chơn tâm chúng ta hiện ra, tất
nhiên không còn
hiện diện thế giới phàm phu, chỉ có
thế giới Phật hiện hữu mà thôi.
Phổ Hiền dạy
chúng ta làm đạo với
chúng sanh ở
Ta bà, nhưng phải luôn
ý thức không để cho
nghiệp cấu trần lao làm
ô nhiễm. Làm việc, sống với
chúng sanh, nhưng
chấm dứt cuộc đời, phải
diện kiến Phật
Di Đà, sống trong
thế giới Ngài và từ
hoa sen sanh ra. Đó là
ước nguyện của
chúng ta trên bước đường tu :
Chúng hội Di Đà đều
thanh tịnh,
Tôi từ
hoa sen nở sanh ra,
Thân thấy
đức Phật vô lượng quang,
Liền
thọ ký tôi đạo
Bồ đề.
Chúng sanh,
chúng sanh nghiệp,
chúng sanh phiền não là đối tượng tu của
chúng ta lúc
sanh tiền. Nhưng nhắm mắt lìa đời,
dứt khoát chúng ta phải thấy
Đức Phật Vô lượng quang.
Lúc ấy mà thấy
chúng sanh là đọa.
Sống ở
Tịnh độ dễ
tiến tu, vì trên có Phật
Di Đà hoàn toàn sáng suốt, dưới là
Bồ tát nhất sanh bổ xứ làm
thượng thủ, người thấp nhất cũng là
A la hán. Môi trường sống ở đó
thanh tịnh tuyệt đối,
chúng ta nương theo tu
chắc chắn tâm cũng
yên tịnh.
Tôi
tâm đắc cảnh giới của Phật
Di Đà và
hình dung ra sự
lợi lạc nếu được sống ở đó, có thể tạm
so sánh giống như
thời gian tôi
tu học ở
Nhật Bản. Nhờ luôn gần gũi học tập với những người
kiến thức rộng, có học vị cao, chỉ trong một
thời gian ngắn, tôi đã phát triển được
tri thức. Với tương lai
tốt đẹp ấy, tôi
trở về quê nhà, mới có thể
phục vụ đạo pháp hữu hiệu.
Cũng vậy,
vãng sanh về
Tịnh độ,
chúng ta sống chung với các bậc thượng
thiện nhân tài đức,
chúng ta cũng
thanh tịnh theo, tài giỏi thêm. Được sở học ấy,
chúng ta trở về Ta bà làm đạo dễ dàng.
Nếu không,
chúng ta còn là
chúng sanh nhieãm ô mà gặp toàn
phiền não thì chẳng thể tự độ, nói chi đến
độ người.
Khi làm nhiều việc tốt rồi,
chấm dứt mạng sống, thân thấy Phật
Vô lượng quang thọ ký cho ta, tức Phật
cho biết tương lai, chỉ hướng đi và
việc làm cho
chúng ta. Sợ nhất là chết mà không thấy Phật
chỉ đường, đành để
nghiệp báo mặc sức lôi kéo, dẫn dắt ta vào
ba đường ác. Mê mờ
đáng sợ ấy được kinh
diễn tả rằng : Tiền lộ
mang mang, vị tri hà vãng.
Đã được Phật coâng nhận và giao
trách nhiệm,
chúng ta làm đạo ở bất cứ nơi nào,
Đức Phật Di Đà cũng
phóng quang gia bị, gặp việc khó, ta tự
hiểu biết và
giải quyết đúng.Nương theo luồng ánh sáng của Phật
Vô lượng quang mà ra khỏi
sanh tử, về
thế giới Phật,
chúng ta từ
hoa sen nở sanh ra.
Cha mẹ là
hoa sen, hay mầm sống của
chúng ta được
nuôi dưỡng hoàn toàn bằng chất liệu
tinh khiết,
thanh tịnh,
chúng ta không có
thân tâm khổ đau như trước kia
kết hợp do
ái nghiệp của cha
vô minh và mẹ
phiền não.
Phổ Hiền cho biết :
Nhờ
Đức Phật kia
thọ ký rồi,Tôi hóa
vô số vạn ức thân,
Trí huệ rộng lớn khắp
mười phương,
Lợi lạc tất cả
chúng sanh giới.
Nghĩa là khi
chúng ta mang
thân hình kết cấu từ thai sen sanh ra, thì thấy
đức Phật Vô lượng quang và
trở thành con người vạn năng.
Lúc ấy có thể
phân thân giáo hóa chúng sanh khắp
mười phương, bất cứ nơi nào
chúng sanh cần, ta đều
đồng loạt đáp ứng đầy đủ.
Nhẫn đến
hư không thế giới tận,
Chúng sanh phiền não nghiệp không còn,
Nhưng bốn pháp ấy vẫn
vô cùng,
Nguyện tôi
rốt ráo hằng
vô tận.
Phổ Hiền nói rằng nguyện của Ngài
vô tận vì luôn
gắn liền với boán pháp
vô cùng là
thế giới,
chúng sanh,
chúng sanh nghiệp,
chúng sanh phiền não.
Nếu có người nơi nguyện vương này,
Một phen nghe liền sanh tín kính,
Mong cầu
khát ngưỡng quả
Bồ đề,
Được
công đức nhiều hơn
tài thí.
Tất cả việc
bố thí tiền của trước kia của
chúng ta ở trên
cuộc đời, dù có
tích lũy lại thì
công đức ấy cũng không bằng
một lần nghe được hạnh
Phổ Hiền và kính tin,
thọ trì, ngộ quả
Bồ đề.
Ngộ được quả Bồ đề rồi thì :Nhờ đây thường xa các bạn ác,
Thoát khỏi tất cả
ba đường dữ,
Mau thấy
đức Phật Vô lượng quang,
Đầy đủ
Phổ Hiền nguyện
tối thắng.
Bọn ác hay người xấu không đến với
chúng ta được, vì họ mất môi trường để
sinh hoạt. Và cao hơn một nấc nữa là người ác có đến cũng
trở thành hiền lành. Trên bước đường tu, hàng
Thanh văn xa bạn ác bằng cách tránh né họ.
Bồ tát thì khác hẳn,
Bồ tát xa lìa bạn ác nghĩa là người ác đến không thể khởi lên tâm ác, việc ác. Vì
Bồ tát đã ngộ
Bồ đề, biết rõ ác xấu của họ và còn hóa giải được ác xấu ấy, biến được
ác ma thành người hỗ trợ cho
Bồ tát.
Tu hành quan trọng ở điểm bạn ác xấu không quấy phá được,
chúng ta khóa kín cửa
ba đường ác, không vào
cảnh giới tối tăm, trí thường
sáng suốt,
vĩnh biệt luân hồi và luôn được Phật
Di Đà phóng quang gia bị, đủ hạnh
Phổ Hiền để
phân thân giáo hóa chúng sanh.
Người này
thọ mạng đươïc
lâu dài,
Trong
loài người ở bậc tôn quý,
Người này không lâu sẽ trọn nên,
Công hạnh đồng với
đức Phổ Hiền.
Ai
tu hạnh Phổ Hiền nhận được lực
gia trì của Phật
Di Đà, họ sanh lại có
thọ mạng lâu dài. Sống lâu,
tinh thần sáng suốt, cơ thể khỏe mạnh, đó là
điều kiện tốt giúp cho
chúng ta đắc đạo và khiến cho người trông thấy
phát tâm tu theo.
Thuở đó,
chúng ta tu thật
vất vả, nhưng
trưởng thành, việc
tu hành trở nên dễ lần và càng lớn tuổi, càng dễ hơn nữa. Vì mới tu, nghiệp dày phước mỏng, ta phải
nỗ lực khắc phục khó khăn.
Tiến tu một
thời gian, nghiệp nhẹ dần,
công đức sanh, ta không cần khắc phục xấu ác, mà tự động nó không có nữa. Vaø đến 60, 70 tuổi,
vô tâm, vô cầu mà
phước đức tự đến, tự
tăng trưởng.
Ngoài ra, người
tu hạnh Phổ Hiền,
tái sanh vô
loài người ở
dòng họ có huyết thống tốt,
thông minh, học giỏi,
đạo đức. Người được như vậy, chắc chaén không bao lâu sẽ đầy đủ hạnh
Phổ Hiền, tức có
điều kiện để làm những việc khó làm. Điển hình như
tiền thân Phật
Thích Ca thường sanh làm hoàng tử, đầy
quyền lực,
sang trọng, tài giỏi mới có
điều kiện hành
Bồ tát đạo,
thể hiện lực bất tư nghì.
Chúng ta sanh vào hàng
thứ dân, nghèo hèn, dở, xấu thì không thể nào
tu hạnh Phổ Hiền.
Hoặc những vị
tu hành đạo cao đức trọng, tài trí
siêu phàm, cũng được xem là bậc tôn quý trong
loài người. Cảm nghĩ này đã được vua Tống
Nhân Tôn nhắc đến trong bài phú:
Phù thế gian tối quý giả, bất như xả tục
xuất gia. Nghĩa là trong
thế gian, người
xuất gia là cao quý hơn cả.
Thiết nghĩ cao quý có
hai mặt : mặt
thực chất và mặt ăn theo.
Thực chất chúng ta tu chưa tới
vị trí cao quý, chưa xứng đáng được
cúng dường, nhưng nhờ tu chung với bậc
trưởng thượng đạo đức, tài giỏi nên ta cũng được hưởng theo.
Ý thức rằng mình
thừa hưởng công đưùc của Phật và các bậc Thầy Tổ,
danh Tăng cao đức,
chúng ta nỗ lực tu. Đến khi
đạt được công đức thật thì
đảo lộn lại là
đạo yếu Tăng hoằng, tức
đạo pháp lớn mạnh là nhờ ở
công lao hoằng hóa của
chư Tăng. Không làm sáng danh Phật, mà chỉ ăn nhờ cơm Phật
suốt đời thì
Duy Ma xếp vào hạng chuột uống dầu.
Phổ Hiền thù thắng nguyện của tôi,
Phước đức vô biên đều
hồi hướng,
Nguyện cho
chúng sanh đang
chìm đắm,
Mau sanh
cõi Phật Vô lượng quang.
Tu theo hạnh
Phổ Hiền,
chúng ta được sanh về
thế giới Phật
Vô lượng quang, được
thọ ký và có những
năng lực bất tư nghì.
Chúng ta cũng
cầu nguyện cho
chúng sanh đang bị
nghiệp chướng,
phiền não dày vò khổ đau, tất cả cũng đều được
vãng sanh về
thế giới Phật
Di Đà, cũng từ
hoa sen sanh ra,
tiến tu được
thành quả tốt đẹp giống như
chúng ta vậy.