LƯỢC GIẢI KINH HOA NGHIÊM
Tác giả: HT. Thích Trí Quảng
Nhà xuất bản Thành Phố HCM 2013
Chương I.
Lịch Sử Kinh Hoa Nghiêm
I - KHÁI NIỆM VỀ LỊCH SỬ KINH HOA NGHIÊM
Về mặt
học thuật,
chúng ta học
lịch sử phần lớn
căn cứ vào dữ liệu mà người trước đã ghi lại để
đánh giá. Nhưng đứng ở
lãnh vực tôn giáo để
quan sát,
chúng ta lại có
nhận thức về
lịch sử khác hơn là nhưõng điều được các nhà
học thuật ghi nhận.
Thật vậy, muốn học
lịch sử của
kinh Hoa Nghiêm hay
lịch sử Phật giáo Đại thừa,
chúng ta phải có
tinh thần Đại thừa.
Tâm hồn Đại thừa mới có thể
tiếp thu giáo nghĩa Đại thừa.
Phàm phu thì
say đắm ngũ dục thế gian,
an phận trong
sanh tử luân hồi.
Chúng ta tự khẳng định là
nhà tôn giáo thì phải có
tâm hồn thoát tục, tìm
lẽ sống cao thượng
theo như Phật dạy.
Chúng ta cũng không giống nhà
học thuật, vì họ chỉ
nghiên cứu Phật học, còn cuộc sống không
dính líu gì đến pháp Phật mà họ
am tường. Trong đạo
thường dùng câu : "Người uống nước, tự biết
mùi vị của nó như thế nào". Cũng vậy, người an trụ trong pháp mầu của
Như Lai,
tụng niệm,
tham thiền,
lễ bái với tất cả tấm lòng, mới hiểu được
thế giới Phật.
Điều tôi muốn
truyền đạt, hướng dẫn các anh em
trở thành nhà tôn giáo thật trong tương lai, mới hiểu được thế nào là
lịch sử Phaät giáo
Đại thừa.
Từ
hiểu biết theo
học thuật thông thường, tiến lên một bước nữa để hiểu
lịch sử Đại thừa Phật giáo theo
tinh thần của người tu có
niềm tin, có
trí tuệ. Và bước sang
lịch sử kinh Hoa Nghiêm,
chúng ta phaûi
phát bồ đề tâm. Có thể nói
chúng ta học
Đại thừa bằng
bồ đề tâm của chính mình, không học bằng
vọng thức. Tôi nói và các anh em
tiếp nhận tinh ba của
giáo nghĩa bằng
tâm hồn thanh tịnh, không phải chỉ dừng lại ở phaân tích, học hiểu theo
văn tự,
ngữ ngôn.
Kinh Hoa Nghiêm có 3 bộ : Bộ thứ nhất gọi là đại
Hoa Nghiêm do
Pháp thân Tỳ
Lô Giá Na chuyển. Bộ thứ hai là trung
Hoa Nghiêm do
Báo thân Lô Xá Na chuyển và bộ thứ ba do
ứng thân Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết. Như vậy,
kinh Hoa Nghiêm có cái nhìn về
Đức Phật khác hơn các hệ
tư tưởng khác và đương nhiên cũng khác với
lịch sử thông thường mà
chúng ta học.
Cả 3
bộ kinh này đều ở cung rồng
Ta Kiệt La. Nhưng hai bộ
đại kinh và trung kinh quá đồ sộ, không thể mang về, nên Ngài
Long Thọ Bồ tát chỉ thỉnh được bộ tiểu
Hoa Nghiêm gồm có 100.000
bài kệ. Và mang về
nhân gian, Ngài lọc lại, chỉ còn một nửa là 45.000
bài kệ.
Bộ tiểu
Hoa Nghiêm mà Ngài
Long Thọ đem về, rồi truyền sang Trung Hoa, được dịch ra tiếng Trung Hoa, còn lại ngày nay 2 bộ. Bộ
Hoa Nghiêm 60 quyển do Ngài
Giác Hiền dịch đời Tấn và bộ 80 quyển dịch ở đời Đường, dưới sự
bảo trợ của Tắc
Thiên Hoàng Đế, quen gọi là Võ Hậu.
Bộ kinh Hoa Nghiêm chúng ta học chủ yếu nương theo
bộ kinh đời Đường.
Kinh Hoa Nghiêm do
Báo thân viên mãn Lô Xá Na và kinh do
Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật chuyển thì
chúng ta khoâng thấy được
Báo thân và
Pháp thân Phật, nên không thể nghe, không thể đọc và không hiểu được.
Điều này gợi cho
chúng ta khi học
Phật pháp, nhất là học
Đại thừa, đòi hỏi ta học, hiểu và sống
hoàn toàn mang
tính chất Đại thừa. Việc này không
đơn giản, vì
chúng ta phải có quá trình thiết
thân thể nghiệm pháp trong cuộc sống.
Chúng ta có thể học
văn hóa,
lịch sử dễ dàng, nhưng học
Phật giáo thì phải học bằng
niềm tin của chính mình. Và
niềm tin cũng không thể nhồi nhét hay
cưỡng bức mà có được. Có thể có bằng cấp
Phật học, nhưng thiếu
niềm tin, không thể
trở thành nhà
truyền giáo, chỉ là
học giả.
Điều
tiên quyết đối với người tu là
bước đầu học Phật bằng
niềm tin. Học, hiểu và sống được với pháp Phật. Và
niềm tin phát xuất từ việc
chúng ta tiếp xúc với bên ngoài, tức
phương tiện hay học được pháp của Phật
ứng hóa thân thuyết.
Đối với người theo
tinh thần Đại thừa Phật giáo, nhất là học
kinh Hoa Nghiêm hay
Pháp Hoa, Phật là Phật đã thành
hiện thân lại làm người ở
nhân gian và từ thân người này, Ngài tu
thành Phật để hướng dẫn
chúng ta đi theo lộ trình của Ngài, đó là
ứng thân Phật.
Nhờ nghe Phật
ứng thân Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp,
chúng ta lần
thâm nhập, thấy được
Báo thân Phật, mới phát hiện được
con người thật của chính mình, gọi là
Báo thân. Bằng
bồ đề tâm của
con người thật của chính mình nghe
Báo thân Phật thuyết pháp,
tự giác ngộ; ta
trở thành Pháp thân Phật, biết được
Pháp thân Phật thuyết cho ta nghe.
Như vậy,
chúng ta học Phật
trải qua ba giai đoạn.
Trước tiên, ta học pháp của
ứng thân Phật thuyết là 12
bộ kinh Phật đều là
phương tiện. Đến đây, chưa đủ, vì chỉ mới thông qua
hình thức. Cần bước sang giai đoạn hai quan trọng hơn,
phát bồ đề tâm.
Bồ đề tâm là trí giác,
từ trí giác quán sát điểm
cuối cùng của 12 phần giáo theo
Đại thừa là
Phương Đẳng hay
Phương Quảng.
Phương Đẳng chỉ cho Phật
Báo thân và
Phương Quảng chỉ cho
Phật Pháp thân, không thể vói tới bằng
vọng thức.
Những điều ta học,
suy nghĩ,
lãnh hội, nói hay chưa phải là đạo. Đó chỉ là
phương tiện ban đầu để ta bước vào
hành trình tâm linh, thấy theo
Hoa Nghiêm. Theo đó,
chúng ta thấy sự đa dạng của phần bên trong mỗi người, mỗi loài, tạo thành
lục đạo,
tứ sanh,
cho đến thế giới của Hieàn thánh,
Bồ tát,
Như Lai. Những điều này
chúng ta học được từ Phật
Thích Ca Mâu Ni, từ những lời dạy của Ngài còn lưu lại.
Nhưng tiến hơn, những điều
chúng ta học từ
Báo thân Phật thuyết pháp là những gì Phật đã làm và để lại cho
loài người, giữ cho
Phật pháp tồn tại lâu dài,
lợi lạc cho nhơn thiên. Và cao hơn là
Pháp thân Phật chuyển,
gồm có vi trần bài kệ.
Mọi việc, mọi sự sống, mọi hành động của
chúng ta đều
thể hiện Pháp thân Phật. Những gì
chúng ta làm,
tư duy và có kết quả là
Pháp thân Phật thuyết. Không phải
Pháp thân là cái vô hình nào thuyết.
Hiểu
kinh Hoa Nghiêm là từ
văn tự đi vào tư duy, vào
thiền định, phát sinh được
trí tuệ và dùng
trí tuệ quán sát mọi sự,
mọi vật.
Kinh Hoa Nghiêm dẫn
chúng ta vào
pháp giới hay nhìn
thế giới chân thật. Và biết được việc ở dạng
chân thật, thì ta không còn
lỗi lầm trên
sinh hoạt hiện tượng của
cuộc đời.
Kinh Hoa Nghiêm muốn dạy ta
cốt lõi ấy.
Theo
phán giáo của Ngài
Trí Giả,
Đức Phật nói
kinh Hoa Nghiêm 21 ngày. Chỉ có 21 ngày ngắn ngủi, làm sao Phật nói được
vô lượng bài kệ gọi là
vi trần ? Trong khi các
bộ kinh khác,
Đức Phật noùi trong
thời gian dài hơn mà lại không nhiều.
Phật nói
Hoa Nghiêm 21 ngày trong
thiền định. 21 ngày của cuộc sống
vật chất theo đời thường tất nhiên quá ngắn ngủi. Nhưng 21 ngày
tư duy thiền định thiết nghĩ thật lớn lao không
thể tính được. Ai không
hành đạo, không
công phu tu tập, không thể nào biết được điều này.
Một
niệm tâm trong
thiền định,
Bồ tát cứu độ được
vô số chúng sanh. Ngài
Thiên Thai chứng được 3.000 pháp
biến dịch trong một niệm tâm. Và 3000 pháp này
tác động lẫn nhau, tạo thành
trùng trùng duyên khởi theo
Hoa Nghiêm.
21 ngày Phật
tư duy dưới cội
bồ đề lại càng lớn không thể tưởng, vì
hoạt động dưới dạng
Pháp thân,
trở thành đại tự nhiên.
Tư duy bằng
vọng niệm chẳng là bao. Nhưng
tư duy dưới cội
bồ đề nghĩa là ở dạng
bản thể của sự vật, ở
chơn như tâm thì Phật,
chúng sanh và tâm, tuy ba nhưng thông làm một.
Từ
Bồ đề đạo tràng,
Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm 21 ngày, nhưng thuyết được tất cả. Thuyết tất cả, nghĩa là thuyết những gì xảy ra từ khi Ngài
phát tâm bồ đề và
giáo hóa chúng sanh cho đến ngày
thành Phật. Và
hiện giờ, Ngài đang
tiếp tục giáo hóa. Tất cả
mọi người trên khắp năm châu bốn biển vẫn đang
tiếp tục học pháp với
Tỳ Lô Giá Na Phật, là
ý nghĩa quan trọng nhất của
lịch sử kinh Hoa Nghiêm theo
tinh thần Đại thừa.
Thật vậy,
Đức Phật vẫn còn
giáo hóa và
hộ niệm cho
chúng ta,
chúng ta mới
tu học được.
Nếu không có lực
gia trì đó,
Phật pháp không thể
tồn tại đến ngày nay.
Thái độ của người học
Phật giáo Đại thừa nói chung và
lịch sử kinh Hoa Nghiêm nói riêng, là phải thấy cái
bao la vô cuøng tận, cái
chúng ta hiểu được giống như con muỗi uống nước biển. Tôi thấm thía ý này trong
kinh Pháp Hoa dạy rằng khi nào tu tròn hạnh
Bồ tát,
thành Phật mới hiểu được Phật.
Vì vậy, cho rằng học hết
giáo lý là xong, quaû là
sai lầm lớn.
Trên
tinh thần bao la vô tận của
Phật pháp,
chúng ta phải
nhận ra thọ mạng Phật pháp tồn tại thường hằng miên viễn ở dạng
Pháp thân vĩnh hằng
bất tử.
Đức Phật chỉ
phương tiện hiện Niết bàn, nhưng kỳ thật Ngài vẫn
hiện hữu ở khắp
mọi nơi, ở bên cạnh
chúng ta trong từng
niệm tâm .
II - LỊCH SỬ TRUYỀN THỪA VÀ PHÁT TRIỂN KINH HOA NGHIÊM
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ
Ấn Độ, nhưng được phát triển mạnh ở
Trung Quốc,
Nhật Bản. Thật vậy, theo sự
nghiên cứu,
kinh Hoa Nghiêm chỉ còn
tìm thấy rải rác trong vài
tác phẩm ở
Ấn Độ. Đó là Bộ
Đại Trí Độ luận của Ngài
Long Thọ có dẫn dụng
kinh Hoa Nghiêm và những
tác phẩm chú sớ như
Thập Trụ Tỳ Bà Sa luận, hoặc
Thập địa kinh luận giải thích về hai phẩm :
thập trụ,
thập địa của kinh. Như vậy, chỉ có
một phần nhỏ của kinh được
truyền thừa. Còn
toàn bộ kinh Hoa Nghiêm không có.
Tuy nhiên, về sau,
kinh Hoa Nghiêm được truyền sang
Trung Quốc có 3 bộ, nhưng đều phát xuất từ nước
Vu Điền của Trung Á (Ngày nay thuộc khu tự trị của
Trung Quốc).
Kinh Hoa Nghiêm mang về
Trường An, đến đời Tấn thì Ngài
Phật Đà Bạt Đà La (
Giác Hiền) là người đầu tiên dịch sang tiếng
Trung Quốc bộ
lục thập Hoa Nghiêm,
gồm có 60 quyển, thường gọi là bộ
cựu dịch.
Cách 200 năm sau, đến đời Đường, Ngài Thập Sa
Nan Đà dịch, chia thành 80 quyển, gọi là
bát thập Hoa Nghiêm hay bộ
tân dịch.
Và cũng ở đời Đường, Ngài
Bát Nhã dịch riêng phẩm
Nhập pháp giới, gọi là
tứ thập Hoa Nghiêm gồm 40 quyển.
Kinh Hoa Nghiêm phát triển mạnh ở
Trung Quốc, tiến đến
thành lập tông
Hoa Nghiêm.
Sơ Tổ của tông này laø Ngài
Đỗ Thuận (557- 640), nhưng đến Ngài
Trí Nghiêm (602-668) là nhị Tổ mới
chính thức thành lập tông
Hoa Nghiêm.
Và Tổ thứ ba của tông này rất
nổi tiếng, đó là Ngài
Pháp Tạng (
Hiền Thủ, 643-712). Phải nói là đến thời của Ngài
Pháp Tạng mới
luận giải kinh Hoa Nghiêm và
giảng kinh này cho Tắc
Thiên hoàng hậu.
Ngài
Đỗ Thuận và
Trí Nghiêm cùng
giảng giải kinh theo bộ
lục thập Hoa Nghiêm. Nhưng Ngài
Đỗ Thuận chịu
ảnh hưởng của hệ Bát Nhaõ, vì
lúc ấy pháp tánh học
thịnh hành. Còn Ngài
Trí Nghiêm chịu
ảnh hưởng của
Duy Thức, tức
pháp tướng học do Ngài
Huyền Trang xương minh và theo đó mà phát triển
Hoa Nghiêm.
Ngài
Pháp Tạng lý giải theo bộ
bát thập Hoa Nghiêm. Ngài
giảng giải đầy đủ hơn, vì đã tổng hợp được hai hệ
tư tưởng Bát Nhã và
Duy thức của
sơ Tổ và nhị Tổ,
kết hợp thành bộ
Hoa Nghiêm sớ. Đây là
cốt lõi của tông
Hoa Nghiêm, làm cho
Phật pháp thịnh hành ở thời này.
Hai vị Tổ
Đỗ Thuận và
Trí Nghiêm đều là người Hán. Riêng Ngài
Pháp Tạng sanh ở
Trung Quốc mà gốc người Trung Á.
Vì vậy, Ngài
thừa hưởng được
tư tưởng triết học Aán Độ và
văn minh Trung Quốc;
đồng thời tổng hợp được tinh ba của hai luồng
tư tưởng vĩ đại này, tạo thành nét đặc thù
nổi bật của tông
Hoa Nghiêm, khiến cho giới
trí thức đời Đường bấy giờ phải
thán phục.
Có thể nói tông
Hoa Nghiêm phát triển mạnh ở
Trung Quốc vì
tư tưởng kinh Hoa Nghiêm thích hợp với người
Trung Quốc. Trước khi kinh này được truyền sang,
tư tưởng Lão Trang
thịnh hành ở
Trung Quốc, có cái nhìn về
vũ trụ gần giống với
tinh thần Hoa Nghiêm, nên người
trí thức đương thời dễ
tiếp thu được
tư tưởng Hoa Nghiêm.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng,
kinh Hoa Nghiêm phát triển được là nhờ các vị cao đức
thông suốt được áo nghĩa
Hoa Nghiêm và biết
kết hợp với
tinh thần Lão Trang để
triển khai thành
tư tưởng chỉ đạo của tông
Hoa Nghiêm.
Tư tưởng Lão Trang
quan niệm mọi
sinh hoạt của
vũ trụ vận hành theo lý "Tự nhiên",
tự nhiên là "Vô", và
tính chất của "Vô" là
bản thể của
vũ trụ. Và theo
Trang Tử :"Đạo không chỗ nào không có, ở chỗ con kiến, con dế, ở chỗ cỏ Đế cỏ Bại, ở chỗ gạch gói, ở chỗ phân tiểu ..."
Người
trí thức chịu
ảnh hưởng Lão Trang có thể thấy
vấn đề nói trên của họ sáng hơn khi
tiếp thu tư tưởng Hoa Nghiêm do các vị
cao Tăng lý giải; theo đó, mọi sự ,
mọi vật đều
bình đẳng, trong tốt có xấu, trong xấu có tốt. Tất cả
sinh hoạt tương quan tương duyên chằng chịt trong
pháp giới.
Người
chứng đạo thấy rõ sự
tác động của mối tương quan
sâu xa ấy, mà
thuật ngữ gọi là
lý sự vô ngại pháp giới, thì sẽ hóa giải được tất cả. Còn
chướng ngại,
vướng mắc, không
dung thông thì
trở thành đối nghịch,
đối đầu, từ đó
phiền não trùng trùng duyên khởi.
Thực chất của sự
hành trì theo yếu nghĩa
Hoa Nghiêm là
thiện ác đều do chính ta tạo nên, kinh gọi là muôn pháp
duy tâm tạo.
Liễu ngộ Hoa Nghiêm thì tất cả
viên dung vô ngại vì mọi loài trong
pháp giới cho đến con ong, cái kiến, cỏ cây, hoa lá đều là
pháp âm của
Tỳ Lô Giá Na Phật.
Kinh Hoa Nghiêm chuyên chở một
tư tưởng quá lớn lao, người
bình thường không
tiếp thu nổi, không hiểu thì làm sao
ứng dụng được. Vì thế, dù là
tư tưởng siêu tuyệt như vậy, vẫn bị
mai một.
Phải có những bậc
danh đức ngộ đạo hiện hữu, như Ngài
Đỗ Thuận,
Trí Nghiêm,
Pháp Tạng nắm trọn được tinh yếu của
Hoa Nghiêm và lý giải cũng như
thể hiện trong cuộc sống, mới có thể phát triển
tư tưởng này sáng chói lên. Nhưng về sau, không có người
thừa kế đủ khả năng tiếp nối đạo nghiệp,
ngọn đèn Hoa Nghiêm cũng phải tàn lụn.
Tiếp theo,
kinh Hoa Nghiêm được một
nhà sư Trung Hoa mang sang
Nhật Bản, nhưng không
thuyết giảng. Đến đời
Thánh Vũ thiên hoàng, Ngài
Thẩm Tường là
nhà sư Triều Tiên sang
Nhật Bản, kinh này mới được Ngài
giảng giải và tông
Hoa Nghiêm ra đời.
Đặc biệt là nhờ
công đức thuyết pháp của Ngài
Thẩm Tường khiến cho
Thánh Vũ thiên hoàng phát tâm xây dựng ở Nara tượng Tỳ
Lô Giá Na bằng đồng lớn
nhất thế giới. Có điều kỳ lạ cần nhắc lại, theo
truyền thuyết, người ta chỉ đúc được pho tượng này tới cổ, vì phần đầu của tượng quá lớn, đường kính của mặt tượng Tỳ
Lô Giá Na rộng đến 5 thước, nên rót đồng vô chảy xuống đến cổ là bị rã.
Sau đó,
nhà sư Phật Triết, từ Giao Châu,
Việt Nam đóng bè tre sang Nhât Bản. Ngài Hạnh Cơ
Bồ tát ra đón Ngài
Phật Triết ở bờ biển về để chỉ dạy
phương cách đúc tượng.Pho tượng được
hoàn thành một cách
hoàn hảo, nên
Thánh Vũ thiên hoàng thỉnh Ngài
Phật Triết về
chủ lễ điểm nhãn tượng. Và Ngài soạn ra
nghi thức cúng dường khai quang, còn
truyền tụng đến ngày nay.
Như đã nói,
tư tưởng Hoa Nghiêm quá
trác tuyệt, khó
tiếp thu.
Vì vậy,
công đức hoằng
truyền kinh Hoa Nghiêm mà Ngài
Thẩm Tường đã tu tạo, không có người
tiếp nối đạo mạch. Những gì
tiêu biểu còn lưu lại dấu vết như tông
Hoa Nghiêm, chùa Đông Đại và tượng Tỳ
Lô Giá Na, thì chỉ còn
hiện hữu như một kỷ niệm mà thôi.
Tóm lại,
kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Aán Độ, nhưng vì quá cao siêu, hiếm người
tiếp thu được và tất nhiên việc phát triển càng khó hơn nữa. Phải đợi đến khi truyền sang
Trung Quốc hay
Nhật Bản và phải gặp những vị vua chúa có
phước báo và
quyền thế phát tâm mới đủ
điều kiện hỗ trợ cho công việc
phiên dịch,
truyền bá kinh, cũng như
xây dựng chùa chiền,
đúc tượng được
thành công.
Riêng ở
Việt Nam,
Phật giáo đương nhiên cũng có phần
ảnh hưởng tinh thần Hoa Nghiêm. Một số vị
cao Tăng cũng
thọ trì kinh này,
ứng dụng được phần nào tinh ba của kinh trong cuộc sống.
Tuy nhiên, nói chung,
bộ kinh này không phát triển mạnh được ở
Việt Nam.
III - NỘI DUNG KINH HOA NGHIÊM
Theo
phán giáo của
Thiên Thai Trí Giả đại sư, sau khi
Đức Phật thành đạo, Ngài
thuyết kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày và sau đó Ngài đến
Lộc Uyển độ 5 anh em
Kiều Trần Như, bắt đầu
lập giáo khai tông. Trên đường hoằng truyền
chánh pháp,
Đức Phật giảng kinh Phương Đẳng,
Bát Nhã,
Pháp Hoa,
Niết Bàn.
Cách
phán giáo của
Trí Giả đại sư được
Phật giáo Đại thừa tán đồng.
Phật giáo nguyên thủy cũng
ghi nhận giống ở điểm sau khi
thành đạo, Phật ngồi
tư duy ở
Bồ đề đạo tràng trong 21 ngày. Theo
kiến giải của
Phật giáo Đại thừa, trong 21 ngày
tư duy ấy, Ngài
thuyết kinh Hoa Nghiêm trong
thiền định.
Thiết lập pháp hội Hoa Nghiêm với
hội chúng, hội trường có điểm khác lạ. Theo
kinh Hoa Nghiêm lục thập quyển thì có 8 hội, nhưng
kinh Hoa Nghiêm bát thập quyển
ghi nhận có 9 hội. Đến phần kết của hội
Hoa Nghiêm vẫn có mặt
Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên,
A Nan, nhưng các Ngài không
nghe được. Ý này được kinh
diễn tả rằng chúng
Thanh văn như người mù, người điếc dự hội.
Vì khó hiểu như vậy, một số người cho
kinh Hoa Nghiêm có
tính cách giả tưởng. Ngày nay,
chúng ta có thể
hiểu ý này qua
thực tế như
vấn đề trình bày trong cuộc hội thảo dành cho các nhà
bác học thì người có
trình độ Đại học trở xuống có
tham dự cũng không thể nào hiểu được.
Pháp Phật nói cho
Bồ tát, hàng
nhị thừa không thể biết, huống chi là
phàm phu. Cần hiểu rằng không riêng gì
Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên... mà kể cả
chúng ta cũng
hiện diện trong hội
Hoa Nghiêm, nhưng không thấy, không nghe vì bị
ngũ ấm ngăn che,
vướng mắc sắc ấm.
Đức Phật nói
kinh Hoa Nghiêm, tức
hành đạo trong
thiền định, dùng tâm
chuyển vật.
Chúng ta chưa thấy tâm, làm sao thấy được sự
chuyển vật.
Thực tế cho thấy các vị
chân tu hành đạo dưới dạng tâm, tâm họ
thanh tịnh, an vui,
tác động cho người trông thấy họ liền
phát tâm bồ đề và an vui theo.
Trái lại, người dùng
lời nói ngọt ngào, nhưng phát xuất
từ tâm gian ác bên trong, nên
chúng ta cảm nhận
ghê sợ và không tin được.
Từ đó,
hành đạo của
Đại thừa đặt nền tảng trên
sinh hoạt của tâm là chính. Nếu tâm thực sự tốt sẽ kết
thành quả tốt, dù cho hành động
bề ngoài không tốt.
Sức mạnh phi thường của tâm
chi phối, khiến việc
thành tựu, không
cần phải cử thân động niệm, kinh gọi là
vô tác diệu lực. Đó là ý chính mà
kinh Hoa Nghiêm muốn đeà cập đến.
Khi
Đức Phật đắc quả Vô thượng giác ở
Bồ đề đạo tràng, không còn
lệ thuộc ngũ ấm thân, phát
hiện ra con người thật bên trong, tức chân linh, thấy được
quyến thuộc là
Bồ tát vây quanh.
Riêng
chúng ta chưa đaéc đạo, còn bị
ngũ ấm bao vây,
phiền não khống chế, không thể thấy
con người chân thật và
thế giới thật.
Thí dụ khi thức,
chúng ta có
quyến thuộc là người bằng xương thịt, mang
ngũ ấm thân như ta. Khi ngủ,
thế giới ấy kheùp lại và
chúng ta sinh hoạt với
thế giới chiêm bao, tức
thế giới của
thần thức, của nghiệp. Bấy giờ dù phú quý,
quyền uy ở trên
cuộc đời cao tột đến đâu chăng nữa, nhưng đã tạo
ác nghiệp thì trong giấc
chiêm bao hay luùc lìa đời, bị những cảnh ác xấu ấy
hiện ra lôi kéo,
hành hạ.
Như vua Đường, vua
Tần Thủy Hoàng đủ quyền
sinh sát thiên hạ trong tay, có hàng rào gươm mác, hầu cận
che chở an lành; nhưng nhắm mắt ngủ, vòng rào
an toàn này chẳng còn
tác dụng gì.
Trái lại, họ phải gánh chịu những cảnh
ác độc, nợ máu hoành hành
dữ dội đến mức ngã bệnh, phải nhờ Ngài
Huyền Trang cầu nguyện. Đó chính là
thế giới của
nghiệp thức chủ động
toàn bộ mọi
sinh hoạt sau khi
chúng ta chết.
Người tu
thanh tịnh, cuộc sống
thực tế dù
hẩm hiu, nhưng đến khi ngủ hay nhập
thiền định, trần gian tạm bợ khép lại, mở ra cho họ
thế giới an lành của Phật,
Bồ tát,
thần tiên. Đây vẫn còn thuộc
thế giới của
thần thức, chưa phải
chơn tâm, chưa thật.
Tuy nhiên,
vọng thức này thiện cũng
tốt hơn là ác, vì còn giúp được ta tiến bước thêm vào
cảnh giới thần tiên.
Bước đầu thuộc vòng
tương đối, bỏ ác để
thiện pháp sanh ra, làm cho ta được
an lạc. Trên nền tảng ấy, bước chân vào đạo,
trước tiên cần
an tâm, chỉ cần bình yên để tu là đủ. Không được
an lạc tối thiểu, có tu cùng kiếp cũng đọa. Dù cuộc sống bên ngoài có khó khăn, maø lòng an vui, vẫn
tiến tu đạo nghiệp được.
Thế giới của
thức biến thuộc vọng,
chúng ta chỉ nhờ nó để thấy
cảnh giới Cực lạc hay dạo chơi lên Đâu Xuất,
đảnh lễ Bồ tát Di Lặc, cảm nhận
an lành. Đến khi
thức giấc lại chạm trán với cuộc sống khác hẳn, nghĩa là
kinh Hoa Nghiêm muốn nhắc nhở
chúng ta tu như vậy vẫn còn ở trong quỹ đạo của
nghiệp thức.
Bắt đầu
Đức Phật nhập định,
ma quân đến quấy phá, nhằm chỉ cho tất cả
liên hệ trong vòng thức ấm, tất cả
nghiệp chướng trần lao tiêu tan, mới được bình yên.
Thế giới thứ nhất có
ác ma hiện, dẹp tan được chúng, không còn gì có thể
quấy rầy. Trời trong mây tạnh mới tạo thành
Bồ đề đạo tràng.
Chơn tâm hay Tỳ
Lô Giá Na Pháp thân hiện, mới thấy
Bồ tát vi trần. Và
Phật Pháp thân ấy nói với các vị
Bồ tát trong
thiền định, không phải người bằng xương thịt nói và cũng không nói cho người
nhân gian.
Vì vậy, người
nhân gian làm thế nào biết được và
tạng kinh Hoa Nghiêm phải đợi đến
Long Thọ Bồ tát kiết tập.
Đến
pháp hội thứ hai,
đi vào thế giới Quang Minh điện của Phật, nghĩa là ánh quang
Phật thuyết pháp. Aùnh quang này chiếu đến
Trời Phạm Thiên, vị
Đại Phạm Thiên vương xuống
Bồ đề đạo tràng thỉnh Phật thuyết pháp.
Ở
pháp hội một, thuyết bằng
thiền định dành cho người
trụ định mới
nghe được. Đến
pháp hội thứ hai,
Phật thuyết bằng ánh quang, đòi hỏi người có
trí tuệ, nghe bằng
bồ đề tâm,
huệ giải thoát mới
thâm nhập được.
Lúc ấy, người tu
ngộ đạo nhìn sông núi, cá chim đều là
Phật thuyết pháp.
Sau đó,
Phật thuyết ở
Trời Đao Lợi, đến
Dạ Ma thiên,
Đâu Suất thiên, Tha Hoá
Tự Tại. Đến đây, Ngài giảng
thập hồi hướng,
thập địa của
Bồ tát. Có thể hiểu rằng
đạt đến trình độ tu chứng ở
Tha Hóa Tự Tại mới có khả
năng hành Bồ tát đạo. An trụ
cảnh giới Tha Hóa Tự Tại, việc
giáo hóa chúng sanh của
hành giả hoàn toàn tự tại, không ai
ngăn cản, phá rối được, đến nơi nào việc đều
thành tựu viên mãn.
Trái lại, ta còn bị
chướng ngại nhiều, phải tự biết chưa
nghe được pháp
Bồ tát, chưa làm được việc của
Bồ tát. Tốt nhất
chúng ta chỉ là
quyến thuộc, nương theo
Bồ tát làm việc để tu tạo
công đức. Thật vậy,
chúng ta tu ở
nhân gian có đồng nguyện, đồng hạnh với Phật,
Bồ tát. Các Ngài muốn
thực hiện việc
cứu khổ độ sanh, phải mượn
chúng ta làm thay,
hộ niệm cho việc ta
thành công và ta được chia nửa phần
công đức.
Phật nói
kinh Hoa Nghiêm ở Trời Tha Hoá
Tự Tại nhằm chỉ
cho biết đối tượng của pháp cao sâu này phải là
Bồ tát, là người có đầy đủ
phương tiện giáo hoá chúng sanh. Trên
tinh thần ấy,
kinh Hoa Nghiêm thích hợp với các bậc vua chúa. Sang
Trung Quốc,
bộ kinh này hình thành nhờ Tắc
Thiên hoàng hậu
bảo trợ công tác
phiên dịch và chú sớ kinh.
Đến
Nhật Bản,
Thánh Vũ thiên hoàng chịu
ảnh hưởng tinh thần Hoa Nghiêm đã ra lệnh cho toàn dân phải nộp đồng để
đúc tượng Tỳ
Lô Giá Na lớn
nhất thế giới,
đến nay vẫn còn ở Nara. Tượng này phải
trải qua mấy đời vua mới
hoàn thành.
Nếu không phải là người có
thế lực nhất nước
đề xướng thì không thể nào
thực hiện được những
kỳ tích như vậy. Kinh
diễn tả sức mạnh hành đạo ấy dưới dạng Trời Tha Hoá
Tự Tại, còn đối với người
nghèo đói mà khuyeân điều đó thật khó nghe.
Bồ tát pháp trong
kinh Hoa Nghiêm rất cao sâu. Hàng thấp nhất là
Bồ tát sơ địa cũng phải có khả năng làm vua một cõi, tức
tiểu vương mới có thể
hành đạo tự tại.
Bồ tát nhị địa phải là
Chuyển luân Thánh vương cai quản bốn phương
thiên hạ, ai nghe đến danh cũng phải kính nể.
Bồ tát đệ
tam địa phải làm
vua Trời Đao Lợi, cai quản 33 tầng trời. Cứ như vậy lần lên
cõi Trời Dục cao nhất là Tha Hoá
Tự Tại.
Đức Phật giảng cho các vị trời,
đồng nghĩa với nhắc nhở những người có
phước báo,
quyền uy ở trần gian nên
phát tâm làm Phật sự, dễ tu tạo
công đức lớn lao.
Nếu không, hưởng hết phước rồi đọa, lúc đó không còn
điều kiện tạo coâng đức, như
vua Tần Bà Sa La bị
A Xà Thế nhốt vô ngục rồi mới
phát tâm.
Từ
cõi Trời Tha Hóa Tự Tại,
Đức Phật trở lại Phổ Quang đường thuyết
thập nhẫn,
thập định.
Cuối cùng, Ngài
trở lại thực tế cuộc sống ở rừng
Thệ Đa nói phẩm
Nhập Pháp giới.