KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
GIẢNG GIẢI
Hoà thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Chân Không
Kinh Pháp Hoa ở
Việt Nam đã có nhiều nhà
giảng giải.
Tuy nhiên, hôm nay tôi
giảng kinh Pháp Hoa theo cái nhìn của
Thiền tông. Nếu quí vị nghe, thấy có chỗ dị biệt, chớ lấy làm lạ. Vì, đó là điểm đặc trưng của
tinh thần triển khai kinh điển theo chỗ
thông hội lý kinh của người
giảng giải.
LƯỢC KHẢO LỊCH SỬ KINH:
Kinh Pháp Hoa nguyên chữ Phạn (Sanskrit) tên Saddharmapundarika Sutra, được dịch ra chữ Hán bởi nhiều dịch giả với nhiều bản khác nhau. Hiện nay còn đang
lưu hành ba bản:
1.-
Chánh Pháp Hoa Kinh, do ngài
Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn, niên hiệu Vĩnh Khang tại
Đôn Hoàng, gồm mười quyển.
2.-
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch, vào đời Diêu Tần, niên hiệu Hoằng Thủy và Long An (khoảng 396-397 Tây lịch) tại
Trường An, gồm bảy quyển, sau thêm thành tám quyển.
3.-
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, do hai ngài Xà-na và Cấp-đa dịch vào đời Tùy, niên hiệu Nhân Thọ (khoảng 601 Tây lịch), tại chùa Đại Hưng Thiện, gồm bảy quyển.
Dịch từ Hán văn ra Việt văn có những bản sau đây:
1/
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa do Đoàn Trung Còn dịch, xuất bản vào năm 1936. Bản dịch này, dung hợp bản Hán văn của Cưu-ma-la-thập và bản
Pháp văn của Eugène Bournouf.
2/
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa do
Hòa thượng Thích
Trí Tịnh dịch, xuất bản năm 1948. Bản dịch này căn
cứ theo bản Hán văn của ngài Cưu-ma-la-thập.
3/
Pháp Hoa Huyền Nghĩa do Mai Thọ Truyền tuyển dịch, xuất bản năm 1964, ông dung hợp nhiều bản Hán văn và
Pháp văn để dịch.
4/Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa Diễn Giải Lục do
Hòa thượng Thích
Trí Nghiêm dịch, xuất bản năm 1970, Ngài dịch nguyên bản chữ Hán và
chú giải của
Đại sư Thái Hư.
Về
phẩm loại của những bản dịch Phạn Hán thì bản
Chánh Pháp Hoa của
Trúc Pháp Hộ dịch có hai mươi bảy phẩm, không có phẩm Đề-bà-đạt-đa và phẩm
Chúc Lụy là phẩm sau cùng. Bản
Diệu Pháp Liên Hoa của hai ngài Xà-na và Cấp-đa dịch đủ hai mươi tám phẩm, có phẩm Đề-bà-đạt-đa và phẩm
Chúc Lụy ở vào phẩm thứ hai mươi hai. Bản của ngài Cưu-ma-la-thập dịch, thiếu nửa phần đầu của phẩm
Dược Thảo Dụ, thiếu phần đầu của phẩm
Pháp Sư, thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa, thiếu phần
kệ tụng của
phẩm Phổ Môn và phẩm
Chúc Lụy ở chót. Nhưng sau
y cứ vào bản "bối diệp" do Xà-na, Cấp-đa mang tới, Ngài dịch
bổ khuyết thêm đầy đủ là hai mươi tám phẩm. Do đó mà sau nàyđược đặt tên là
Thiêm Phẩm Pháp Hoa tức là
kinh Pháp Hoa thêm một phẩm. Ba
bản kinh Pháp Hoa dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán đang
lưu hành, thì bản
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh của ngài Cưu-ma-la-thập dịch được coi là định bản. Vì
đa số tu sĩ cũng như
cư sĩ đều dùng bản này để
nghiên cứu tụng đọc, bởi
văn kinh lưu loát sáng sủa đầy đủ
ý nghĩa, lý sâu sắc,
đọc tụng dễ hiểu dễ nhận.
Bốn
bản kinh Pháp Hoa được dịch từ chữ Hán ra chữ Việt mà
chúng tôi vừa nêu, thì bản dịch của
Hòa thượng Thích
Trí Tịnh, được hầu hết người
xuất gia cũng như
tại gia ở
Việt Nam dùng để
nghiên cứu học hỏi, trì tụng. Hôm nay
giảng kinh Pháp Hoa,
chúng tôi cũng dùng bản dịch của
Hòa thượng Thích
Trí Tịnh để cho quí vị dễ
theo dõi,
dễ hiểu.
Hòa thượng Thích
Trí Tịnh là người
dày công nghiên cứu và
phiên dịch kinh điển, nên có đầy đủ
uy tín trên
phương diện giáo dục cũng như dịch thuật. Pháp Phật mà Ngài
phiên dịch và
truyền bá hầu hết
chúng ta đều
tin tưởng, nên bản dịch của Ngài được
mọi người tin cậy nhất.
Tuy nhiên, một bản dịch dày đến năm sáu trăm trang,
việc làm nhiều thì không
tránh khỏi chút ít sơ sót. Nhưng phần
căn bản thì đáng cho
chúng ta tin tưởng để
y theo đó mà
tu học.
Kinh Pháp Hoa chẳng những ở Trung Hoa,
Tăng Ni Phật tử quí trọng, mà khi truyền sang
Việt Nam cũng được các chùa
kính trọng, nên hay tổ chức các
đạo tràng Pháp Hoa hay hội
Pháp Hoa để trì tụng. Ở
Nhật Bản,
kinh Pháp Hoa cũng được
tôn trọng nên có ra đời một phái tên
Nhật Liên Tông, chuyên trì
kinh Pháp Hoa và niệm câu Nam-mô
Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.
Sớ giải
kinh Pháp Hoa thì ở Trung Hoa có cả trăm nhà sớ giải. Nhưng hai bộ sách được quí trọng,
phổ biến rộng rãi là
Pháp Hoa Huyền Nghĩa, do
Thiên Thai Trí Giả đại sư sớ giải và bộ
Pháp Hoa Huyền Tán, do ngài
Khuy Cơ đệ tử ngài
Huyền Trang sớ giải.
TÊN KINH: Tên kinh,bản chữ Hán nói đủ là "Diệu Pháp
Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm", gọi tắt là
Diệu Pháp Liên Hoa, nói gọn nữa là
kinh Pháp Hoa. Tên kinh được
cấu tạo theo đề ghép, thuộc loại
pháp dụ.
Diệu Pháp là pháp,
Liên Hoa là dụ. Theo
kinh Pháp Hoa,
Diệu Pháp là
Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi
chúng sanh, còn gọi là
Pháp thân thanh tịnh hay
Phật tánh... Nếu người
nhận ra Tri kiến Phật thì không còn kẹt trong pháp
đối đãi hai bên của
phàm phu.
Liên Hoa là dụ,
sở dĩ dụ
Tri kiến Phật như
hoa sen, vì
hoa sen có những
đặc điểm như sau:
1/
Nhân quả đồng thời, nghĩa là
hoa sen,
gương sen có đồng một lúc, không giống như những hoa khác khi nở, cánh
hoa tàn rồi mới tượng nụ thành trái.
Gương sen đã có sẵn trong hoa, vì cánh hoa chưa rụng nên gương chưa lộ ra. Nếu cánh hoa rụng hết thì
gương sen lộ ra đầy đặn. Cũng vậy,
Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi
chúng sanh, vì
vô minh phủ che nên nó không hiện. Nếu người biết
tu hành,
công phu viên mãn thì
Tri kiến Phật hiển hiện tròn sáng. Đó là
ý nghĩa nhân quả đồng thời.
2/
Hoa sen mọc trong
bùn lầy nhơ nhớp mà không bị hôi tanh, vẫn đẹp thơm
thanh khiết.
Hoa sen được người ưa quí, không phải ở sắc đẹp,
mùi thơm như những hoa khác, mà quí ở chỗ hoa mọc từ nơi
bùn lầy nhơ nhớp mà vẫn giữ được sắc hương
thanh khiết. Cũng giống như thân
năm uẩn này, nếu nhìn với con mắt
giác ngộ thì nó rất ô uế
bất tịnh. Tuy nó ô uế
bất tịnh, nhưng có cái
hằng thanh tịnh
sáng suốt,
kinh Pháp Hoa gọi đó là
Tri kiến Phật.
3/
Hoa sen có những hoa vượt lên khỏi mặt nước hé nụ, trổ hoa, bày gương hạt; lại có những hoa còn đang ở trong nước, và cũng có những hoa vừa nhú lên khỏi bùn. Tất cả những
hoa sen ấy, trước sau đều nở hoa sắc hương
thanh khiết. Cũng vậy, người, trời,
Thanh văn,
Duyên giác, Bồ-tát
căn cơ tuy có
sai biệt nhưng ai cũng có
Tri kiến Phật, nếu
tu hành viên mãn thì
thành Phật.
4/
Hoa sen không bị ong bướm bu đậu và không bị
phụ nữ dùng để trang điểm. Cũng vậy,
Tri kiến Phật là pháp
vi diệu nhiệm mầu, không bị bất cứ pháp
thế gian nào làm
ô nhiễm.
Sở dĩ gọi
Tri kiến Phật là
Diệu pháp là vì
Tri kiến Phật siêu việt trên tất cả pháp
đối đãi và không thể
so sánh với bất cứ một pháp nào ở
thế gian này được.
Thiền tông gọi là
Bản lai diện mục, là pháp gốc mà tất cả mọi
chúng sanh xưa nay ai cũng có sẵn. Nếu tu, sạch hết
vô minh vọng tưởng thì
Bản lai diện mục hiện tiền.
Bài kệ truyền pháp mà Phật truyền cho
Tôn giả Ma-ha Ca-diếp mở đầu bằng câu: "Pháp bản pháp
vô pháp."
Pháp bản là
Diệu pháp, gọi nó là pháp mà không phải pháp. Tại sao? Vì pháp ấy không phải là một vật
đối đãi theo con mắt
phàm tình thế gian thấy biết, nên nói không phải pháp. Pháp gốc là thể của muôn pháp.
Diệu pháp cũng tương đương nghĩa này. Tương truyền,
ngày xưa Thiên Thai Trí Giả đại sư khi ngộ được
kinh Pháp Hoa, Ngài giảng chữ Diệu suốt một
tuần lễ. Vì
Diệu pháp là thể của muôn pháp nên nói không hết, giảng không cùng,
vì vậy nên gọi
Tri kiến Phật là
Diệu pháp và dụ như
hoa sen. Ở
hội Linh Sơn, Phật giơ cành
hoa sen lên,
đưa mắt nhìn khắp
tứ chúng; cả
hội chúng lặng im, chỉ có
Tôn giả Ma-ha Ca-diếp nhìn thấy liền chúm chím cười.
Phật nhân đó
ấn chứng cho Ngài là người đã ngộ được
lý Thiền, và được
truyền thừa y bát làm Tổ thứ nhất phái
Thiền tông. Như vậy,
kinh Pháp Hoa được Phật nói ở núi Linh Thứu và dùng
hoa sen để dụ cho
Diệu pháp; Tổ Ca-diếp thấy Phật đưa cành
hoa sen, Ngài ngộ được Pháp gốc (
Diệu pháp) cũng ở núi Linh Thứu. Điều đó cho
chúng ta thấy
kinh Pháp Hoa có mối
liên hệ với
Thiền tông rất
mật thiết, nên các
Thiền sư khi hoằng hóa hay dùng
hoa sen để ví dụ, như nói: "Hoa sen ở trong lò lửa mà vẫn tươi nhuần." Lò lửa là chỉ cho thân
vô thường,
hoa sen thanh khiết chỉ cho
Pháp thân thanh tịnh, ý nói từ nơi thân
vô thường của mỗi
chúng sanh có sẵn Thể
bất sanh bất diệt hằng thanh tịnh.
Vì
kinh Pháp Hoa có mối
liên hệ với
Thiền tông, nên hôm nay
chúng tôi giảng kinh Pháp Hoa theo
tinh thần Thiền tông. Với con mắt của
Thiền tông,
chúng ta mới
lãnh hội được những biểu trưng kỳ đặc ở trong kinh. Nếu nhìn theo lý thông thường thì không thấy được những
ý nghĩa đặc biệt đó.