KIM CANG TỨ TƯỚNG
hay Nơi Tâm Không Mở Bày Cõi Diệu Hữu
Thanh Hòa
Phật Giáo nói đến cái
Không không phải để thu mình trong tư thái
tiêu cực mà chính là để mở ra chân trời hoạt dụng của cái
Diệu Hữu, để Bồ-tát đi lại trong
sáu nẻo luân hồi thực hiện sự nghiệp độ sinh.
Trung Luận nói: “Nhất thiết pháp không”, lại nói: “Dĩ
hữu không nghĩa cố,
nhất thiết pháp đắc thành.”
Nhất thiết pháp không là hết thảy các pháp vốn không có
tự tánh. Chính bởi các pháp vốn không có
tự tánh nên mới có sự
chuyển y, mới có
Niết bàn -
nhất thiết pháp đắc thành.
Kinh Kim Cang như lưỡi tầm sét của thần Indra giáng xuống
quan niệm hữu ngã, đập vỡ
thế giới ngã ái, ngã dục,
hiển bày thế giới phi hữu,
vô trụ.
Thế giới được nhìn dưới
nhận thức vô ngã là
quan điểm chủ đạo của
Kinh Kim Cang.
Vô ngã luận hay
tâm không là nơi Bồ-tát
trụ tâm, là điểm để từ đó Bồ-tát phóng chiếu thành
con đường vạn hạnh.
Thực hành vạn hạnh với tâm
vô trụ là diễn bày cõi
Diệu Hữu qua
con đường Bồ-tát
hàng phục tâm. Nhưng vì,
ngã chấp là
kiến chấp cố
hữu nhất của
chúng sinh,
đặc biệt đối với người
Ấn Độ,
quan niệm về tự ngã được phân chiết một cách
hết sức sâu xa, cho nên
Kinh Kim Cang đưa ra 4 khái niệm về tự ngã (sau này các
Luận sư gọi là
tứ tướng) và phủ định chúng một cách
triệt để. Triệt phá
ngã chấp cũng là để
hiển bày không - tự - tánh đó.
Kinh văn nói: “Bồ tát thì phải
sửa chữa tâm mình bằng
tuệ giác này: Bao nhiêu
chúng sinh hoặc sinh bằng trứng, hoặc sinh bằng thai, sinh bằng
ẩm thấp, sinh bằng
biến hóa, hoặc có
hình sắc hoặc không
hình sắc, hoặc có
tư tưởng, hoặc không
tư tưởng, có không
tư tưởng, ta làm hết thảy đều được nhập vào
niết bàn hoàn toàn mà
giải thoát cả. Làm cho
vô lượng vô số chúng sinh niết bàn như vậy, mà
thật không thấy có
chúng sinh nào được
niết bàn cả. Tại sao như vậy?
Trưởng lão Thiện hiện, vì nếu
Bồ tát mà vẫn còn có
ý tưởng ngã, nhân,
chúng sinh,
thọ giả thì
Bồ tát ấy không phải
Bồ tát.” (Kinh
Kim Cương, HT
Trí Quang dịch).
Nghĩa là, Bồ-tát
hóa đạo giữa
cuộc đời, muốn bước chân đến những
cảnh giới siêu thoát, phải
diệt trừ bất kỳ
ý tưởng chấp thủ nào về một
chủ tể (ngã).
Ngã tướng,
nhân tướng,
chúng sinh tướng,
thọ giả tướng;
tứ tướng này chỉ là 4 cách gọi khác nhau về
ý tưởng (
quan niệm) một
chủ tể đang ẩn nấp dưới cái
thân tứ đại thô phù của
chúng ta.
Tuy nhiên, trước khi
đi vào tìm hiểu tứ tướng đúng theo
tinh thần của
Kinh Kim Cang,
chúng ta cũng cần
lưu ý đến một hướng
giải thích khác rất
thịnh hành về
tứ tướng. Đó là, dưới
ảnh hưởng Trung Quốc tính,
tứ tướng của
Kinh Kim Cang được
giải thích theo chiều hướng
Đạo đức luận. Hướng
giải thích này rất
phổ biến đến nỗi
Vô ngã luận của
tứ tướng dường như bị lãng quên. Theo hướng
Đạo đức luận,
tứ tướng đại khái được
giải thích như sau: Người mê ỷ có tiền tài, học vấn,
dòng họ,
coi thường hết thảy
mọi người; đó gọi là
ngã tướng. Tuy
thực hành nhân nghĩa lễ trí tín, nhưng ý cao tự phụ, đó gọi là
nhân tướng. Việc tốt quy về mình, việc xấu đẩy cho người, đó gọi là
chúng sinh tướng. Đối cảnh
phân biệt yêu ghét, đó là
thọ giả tướng. Như vậy gọi là
tứ tướng của hạng
phàm phu. Người
tu hành cũng có 4 tướng. Tâm giữ chặt năng - sở,
coi thường chúng sinh, gọi là
ngã tướng. Ỷ mình là người
giữ giới,
coi thường kẻ
phá giới, đó là
nhân tướng.
Chán ghét cái khổ trong 3 đường,
nguyện sinh các
cõi trời, đó là
chúng sinh tướng. Lòng muốn sống lâu nên siêng
tu phước nghiệp,
chấp trước không bỏ, đó là
thọ giả tướng. (
Kim Cang Kinh Giải Nghĩa, Tục tạng 24, p519c).
Xét kỹ, hướng
giải thích đó đã đi quá xa khi
đối chiếu lại từ nguyên từ Phạn bản.
Kinh Kim Cang không phải là
bản kinh hướng đến
vấn đề luân lý hay
đạo đức mà nó hướng đến
con đường giải thoát, hướng đến những người sống u tịch trong
thế giới A lan nhã (
vô tránh) mà
đại diện là ngài
Tu bồ đề. Khái niệm ngã
Kinh Kim Cang nói đến không phải là cái ngã
tâm lý mà là cái ngã mang tính
triết học. Nó thường
trở thành đối tượng suy ngẫm của những
hành giả tịch cư. Tướng (相) trong
tứ tướng không phải là
hình dáng, tướng trạng mà nó được chuyển dịch từ chữ saṃjñā trong
Phạn ngữ với
ý nghĩa là khái niệm,
ý tưởng. Các Ngài Huyền Tráng,
Chân Đế,
Nghĩa Tịnh, Cấp Đa đều dùng chữ tưởng (想) để dịch chữ này.
Tứ tướng / tưởng
cần phải được hiểu từ Phạn bản dưới giác độ
vô ngã luận.
Ý tưởng về ngã (我相:
ngã tướng / tưởng),
Phạn ngữ là ātmasaṃjñā, là
ý tưởng / khái niệm về một
thật ngã (ātman)
tiềm ẩn dưới cái thân thô phù (sthūla śarīra).
Đặc biệt trong
thời kỳ Sâm lâm thư và
Áo nghĩa thư, Ātman được
xem như sinh khí (prāṇā) và
tồn tại không chỉ trong
con người mà còn trong bất kỳ dạng sự sống nào. Vì thế, ātman được đồng nhất với Brahman, nó là cái ngã tiên nghiệm. Ātman trôi lăn trong
luân hồi và chỉ
đạt được sự giải thoát tối hậu (mokṣa) một khi nó
nhận ra nó chính là nó, là Brahman, từ vô thỉ
đến nay: tat tvam asi – ngươi là cái đó!
Thọ giả tướng / tưởng (壽者相),
Phạn ngữ là jīvasaṃjñā, là
ý tưởng / khái niệm về một
linh hồn tồn tại nơi mỗi
chúng ta. Jīva, Hán thường dịch là
mạng căn,
nghĩa đen là sự sống, cho nên ở đây nó được dịch là
thọ giả. Đây là một khái niệm
trừu tượng và
phức tạp khác về cái tôi đang
chế ngự trong mỗi
chúng sinh. Jīva khác với ātman ở chỗ nó là cái ngã thật nghiệm, nó tạo nghiệp
thiện ác, tạo thành
nguyên nhân dẫn đến sự
thăng trầm của
chúng sinh trong
luân hồi. Ātman là tiên nghiệm, là kẻ đứng nhìn quá trình jīva tạo nghiệp. Trong
văn học Veda, ātman và jīva được
ví như hai con chim
gắn bó với nhau cùng sống trên một cây đầy trái, một con không ăn trái mà chỉ đứng nhìn con chim còn lại
thưởng thức hương vị của trái trên cây. Con ăn trái đó chính là jīva.
Theo
Kỳ na giáo (Jainism),
vạn vật được tạo thành từ hai
yếu tố linh hồn (jīva) và phi
linh hồn (ajīva).
Linh hồn (jīva) vốn là
toàn tri và
hỷ lạc, nhưng do
tiếp xúc với
yếu tố phi
linh hồn và
tác động của nghiệp nên nó phải chịu sự
trói buộc trong
luân hồi.
Chúng sinh tướng / tưởng (衆生相) là chuyển dịch từ sattvasaṃjñā trong
Phạn ngữ. Sattva có các nghĩa như: hữu,
hữu thể,
tồn tại, sinh vật,
linh hồn. Trong Hán tạng nó thường được dịch là: nhân,
chúng sinh (các ngài như:
Cưu ma la thập,
Chân Đế,
Nghĩa Tịnh),
hữu tình (ngài Huyền Tráng). Sattva phái sinh từ động từ √as (là,
tồn tại), nó
gồm có sat và tiếp vĩ ngữ tva
biểu thị tính chất trừu tượng, vì thế nó có nghĩa là sự
tồn tại có tính
trừu tượng.
Trong
triết học Ấn Độ, sattva là một trong 3 đức (guṇa) – 3 yếu tính của
Tự tính (Prakṛti): sattva – tamas – rajas, theo thứ tự chỉ cho:
thuần khiết –
năng động –
ám độn, hoặc: hỷ – ưu – ám. Rộng hơn nữa, sattva chỉ cho tính
hiện hữu chân thật, minh triết, xán lạn,
hoan hỷ.
Trong
Phật Giáo, sattva chỉ cho
chúng sinh,
hữu tình. Đó là
hình ảnh một hiện thể /
tồn tại tuyệt đối bất biến trong suốt 3 thời quá,
hiện tại,
vị lai. Chính
từ ý nghĩa này, sattva hàm chỉ một chủ thể
luân hồi không ngừng trong
lục đạo.
Tổng hợp những phân tích trên,
chúng sinh tưởng là
ý tưởng / khái niệm về một chủ thể
bất biến trong
sinh tử luân hồi. Đó chính là hiện thể đang là, là cái ngã mang tính
bản năng nơi mỗi sinh thể.
Nhân tướng / tưởng (人相),
Phạn ngữ là pudgalasaṃjñā, là
ý tưởng / khái niệm về một
thực thể được gọi là pudgala. Pudgala có các nghĩa như:
thân thể,
vật chất, ngã,
linh hồn,
cá nhân ...; Hán phiên âm là
bổ đặc già la, và dịch nghĩa là: nhân,
sĩ phu,
hữu tình,
chúng sinh, ngã ... . Các Luận như
Duy thức thuật ký,
Huyền ứng âm nghĩa, định nghĩa:
bổ đặc già la, sác thủ thú dã; nghĩa là:
Bổ đặc già la là thường (nhiều lần) đi lại trong các nẻo
luân hồi.
Đối với
Kỳ na giáo (Jainism), pudgala là nhân tố
vật chất trong
hệ thống đa nguyên tương đối thực tại luận, là một trong 6 thật thể (dravya)
cấu tạo nên
thế giới.
Trong
Phật giáo, pudgala là một khái niệm hữu ngã luận của phái
Độc Tử Bộ.
Độc Tử Bộ quan niệm chúng sinh luân hồi,
đời sau kế tiếp đời trước, cái
duy trì sự
kế thừa đó chính là pudgala, là một chủ thể
luân hồi. Pudgala này, ở một khía cạnh nào đó, tương đương với khái niệm ātman trong Ấn giáo, chỉ có điều ātman được cho là
bất tử, còn pudgala chỉ là cái ngã tạm thời, nó không
bất tử như ātman, bởi vì pudgala chỉ
tồn tại trong khi
chúng sinh chịu
luân hồi, khi
giải thoát thì nó không còn nữa (Oxford Dictionary of World Religions, tr. 774). Xét đến điểm này, ta thấy pudgala có mối
liên hệ gần với khái niệm
A-lại-da thức của phái
Duy Thức.
Luận Thành Duy Thức nói về thức A-lại-da như sau: “Hằng chuyển như
bạo lưu,
A la hán vị xả” (Đại chính 31, tr. 0007c). Nghĩa là ở
địa vị phàm phu, thức A-lại-da hằng chuyển
liên tục như một dòng thác từ đời này qua đời khác,
cho đến khi
hành giả chứng được
Thánh quả A la hán thì nó mới mất. Lại nữa, pudgala được cho là “phi
tức phi ly uẩn ngã”, nghĩa là không phải uẩn, cũng không phải lìa uẩn mà có pudgala. Thức A-lại-da thì được định nghĩa là “hằng chuyển”, nghĩa là không phải
tồn tại, cũng không phải
không tồn tại. Chính
vì vậy, cho nên trong cuốn
Tiểu thừa phật giáo tư tưởng luận, Kimura Taiken có
nhận định: “Nếu đem nó
đối chiếu với thuyết
A-lại-da thức sau này, ta có thể nói Bổ-đặc-già-la là
tư tưởng tiền phong của thuyết A-lại-da thức”.
Nói
tóm lại,
nhân tướng có nghĩa là
quan niệm chấp trước vào một chủ thể
luân hồi, như ngài
Tăng Triệu nói: “thủy chung bất cải vị chi nhân. Cố
ngoại đạo dĩ
nhân danh thần, vị
thủy chung bất biến” [Trước sau không thay đổi được gọi là nhân. Cho nên
ngoại đạo gọi nhân là thần, ý
nói trước sau không
biến đổi] (
Tăng Triệu,
Chú Duy Ma Cật Kinh).
Như vậy,
tứ tướng, dù mỗi khái niệm có chỗ khác nhau, nhưng chúng đều muốn quy chiếu về một
thực thể bất biến làm
chủ tể đời sống của
chúng sanh,
thực thể đó
chúng ta tạm gọi là Ngã.
Kinh Kim Cang chỉ dẫn ra 4 tên gọi để
phân biệt khái niệm ngã,
ngoài ra, một số
kinh điển khác còn nêu ra nhiều tên gọi khác hơn nữa. Như
Kinh Lăng Già đưa ra 6 tên gọi khác về ngã là: ātman, sattva, jīva, poṣa, puruṣa, và pudgala (Nanjio, Laṅkāvatārasūtram, 63) mà bản Anh ngữ của Suzuki dịch là: ego (ngã), being (
chúng sinh), vital principle (
thọ giả), nourisher (
dưỡng dục giả), supreme spirit (
thần ngã), và personal soul (
tiểu ngã /
trượng phu)
[1]. Thậm chí trong
Đại Phẩm Bát Nhã, có đến 16 biệt danh khác của ngã
[2].
Như Kinh nói,
hành giả không được khởi lên 4
tư tưởng chấp thủ này, nếu khởi lên 4
tư tưởng chấp thủ này thì vị ấy không phải là bồ-tát
phát thú đại thừa. Bởi vì bồ-tát mà còn dùng con mắt hữu ngã,
nhị nguyên để
hành đạo thì đạo ấy không phải là đạo
rốt ráo vượt ra ngoài sự
đối đãi. Về
ý nghĩa chấp trước vào một chủ thể được gọi là ngã này,
Kinh Lăng Già cũng nói: “Đại Huệ! Lại có
chúng sinh cầu chứng
Niết Bàn, tự nói đã biết ngã, nhân,
chúng sinh, dưỡng giả, thủ giả, cho đấy là
Niết Bàn. … Đại Huệ! Những kẻ ấy
không giải thoát, vì chưa thể thấy
pháp vô ngã vậy” (Đại chính 16, tr. 597a).
Kinh Kim Cang quý ở chỗ
vô tâm, ưng
vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm (không nên khởi lên tâm
trụ trước vào bất cứ đâu)
[3]. Không những không khởi lên 4 tướng trên mà Bồ-tát còn
cần phải không khởi lên bất kỳ tâm
phân biệt nhị nguyên nào. Nếu
khởi tâm phân biệt là Bồ-tát đang đứng trên
quan điểm hữu ngã, là
chướng ngại cái nhìn “hết thảy pháp vốn không” của
thực tại. Bồ-tát
không chấp trước vào
ý niệm ngã, thể chứng
tâm không,
lìa bỏ tâm
trụ trước, nhìn
thế giới không phải là
thế giới, thế nên
thế giới mới thật là
thế giới;
độ thoát vô lượng chúng sinh, mà không thấy có
chúng sanh nào được
độ thoát. Đó cũng chính là
Diệu Hữu được
tác thành từ
nghĩa Không, một
đạo lý làm nền tảng cho
con đường Bồ-tát hạnh.
Chú Thích:[1] Trong bản dịch
Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh, ngài
Thật Xoa Nan Đà dịch chỉ có 5 tên: ngã, nhân,
chúng sanh, dưỡng giả và thủ giả (我, 人, 眾生, 養者, 取者); còn bản dịch
Nhập Lăng Già Kinh, ngài
Bồ Đề Lưu Chi dịch là: ngã, nhân,
chúng sanh,
thọ giả,
tác giả,
thụ giả và
trượng phu (我, 人, 眾生, 壽命, 作者, 受者, 丈夫).
[2] TT. Tuệ Sỹ chú thích trong dịch phẩm
Luận Thành Duy Thức:
Đại phẩm bát-nhã 2 (La-thập, T8n223, tr.230c11), 16 biệt danh của ngã:
chúng sinh ,
thọ giả , mạng giả, sinh giả,
dưỡng dục giả, chúng
số nhân ,
tác giả, sử
tác giả,
khởi giả , sử
khởi giả,
thọ giả, sử
thọ giả,
tri giả,
kiến giả. Danh sách theo
Huyền Trang, Đại
bát nhã 406 (T7n220, tr.29a29):
hữu tình, mạng giả, sinh giả, dưỡng giả,
sĩ phu, bổ-đặc-già-la,
ý sinh,
nho đồng,
tác giả,
thọ giả,
tri giả,
kiến giả. Danh sách theo Mahāvyutpatti ccviii. tīrthakātma-paryāyāḥ (
danh mục về tự ngã của
ngoại đạo): ātma, sattva, jīva, jantu, poṣa, puruṣa, pudgala, manuja, mānava, kāraka, krāpaka, vedaka, jānaka, paśyaka, utthāpaka, samutthāpaka. Cf. Du-già 83 (tr.764b12).
[3] Phạn bản: yanna kvacitpratiṣṭhitaṃ cittamutpādayitavyaṃ.