KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Trí Nghiêm
Bộ kinh Đại
Bát Nhã gồm 600 quyển, chiếm tới ba tập khổ lớn trong
Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu, mỗi tập trên dưới 1.000 trang, mỗi trang độ 1.500 chữ, tổng cộng khoảng 4.500.000 chữ (Hán); thường được gọi là Đại
Bát Nhã, mang số hiệu 220.
Khoảng giữa năm 1973, theo
quyết định của
Hội đồng Giáo phẩm Trung Ương
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,
Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng gồm 18 vị được
thành lập với
Hòa Thượng Trí Tịnh làm Trưởng ban,
Hòa Thượng Minh Châu làm Phó trưởng ban và
Hòa Thượng Quảng Độ làm Tổng
thư ký. Trong kỳ họp tại Viện
Đại Học Vạn Hạnh vào những ngày 20, 21, 22 tháng 10 năm 1973 nhằm
thảo luận phương thức, nội dung và
chương trình làm việc,
Hòa Thượng Thích Trí Nghiệm được
Hội đồng phân công
phiên dịch bộ Đại
Bát Nhã 600 quyển này.
Thực ra, Ngài đã tự khởi dịch
bộ kinh này từ năm 1972 và khi được phân công, Ngài đã dịch được gần 100 quyển. Đây là
bộ kinh lớn nhất trong
Đại Tạng, đã được Ngài dịch suốt 8 năm (1972-1980) mới xong và đã dịch theo bản
biệt hành, gồm 24 tập (mỗi tập 25 quyển), và cũng đóng thành 24 tập như nguyên bản chữ Hán.
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA(600 quyển)
Hán dịch:
Pháp Sư Huyền TrangViệt dịch:
Hòa Thượng Trí NghiêmGiảo chính:
Hòa Thượng Quảng Độ
Nhuận văn:
Cư sĩ Bảo Quang
Cư sĩ Giác Tuệ (Bản in năm 2004 không ghi tên
cư sĩ Bảo Quang và Giác Tuệ)
Đối chiếu giữa bản
Biệt Hành và Tạng Đại Chánh Tân Tu
Đại Tạng Kinh:
Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
Kỹ thuật vi tính:
Tỳ Kheo Thích Đạo Khả
Kiểm tra chính tả:
Tỳ Kheo Thích Huệ Đắc
Tỳ Kheo Thích
Nguyên AnBan
Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp TạngPhật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ
ấn hành Năm 2003
(Bản in năm 2004 không ghi
Đối chiếu giữa bản Biệt hành… Năm 2003)
Hội
ấn hành Đại Tạng Kinh Việt NamPhật lịch 2548 – Dương lịch 2004
(
Bộ Kinh Đại Bát Nhã Ba-la-mật-đa này chúng tôi tải ở trang http://www.quangduc.com/kinhdien-2/376kinhdaibatnha.html đây là bản word mà Hội ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam sử dụng để in Kinh Đại Bát Nhã Ba-la-mật-đa vào năm 2004. Nhân đây cũng xin tri ân Thầy Tâm Nhãn và thầy Thích Nguyên Tạng đã cho phổ biến bộ kinh này dưới dạng word trên mạng nhờ vậy mà chúng tôi đã có được trọn bộ.
Chánh Tân Tu Đại Tạng, tập 5-7, Bát Nhã Bộ, số hiệu 0220, 200 quyển, Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh 001-600 quyển, Đường Huyền Trang dịch.)
LỜI TRẦN TÌNH
Về Cảo Bản Dịch Phẩm Đại Bát Nhã
của Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Bộ kinh Đại
Bát Nhã gồm 600 quyển, chiếm tới ba tập khổ lớn trong
Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu, mỗi tập trên dưới 1.000 trang, mỗi trang độ 1.500 chữ, tổng cộng khoảng 4.500.000 chữ (Hán); thường được gọi là Đại
Bát Nhã, mang số hiệu 220.
Khoảng giữa năm 1973, theo
quyết định của
Hội đồng Giáo phẩm Trung Ương
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,
Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng gồm 18 vị được
thành lập với
Hòa Thượng Trí Tịnh làm Trưởng ban,
Hòa Thượng Minh Châu làm Phó trưởng ban và
Hòa Thượng Quảng Độ làm Tổng
thư ký. Trong kỳ họp tại Viện
Đại Học Vạn Hạnh vào những ngày 20, 21, 22 tháng 10 năm 1973 nhằm
thảo luận phương thức, nội dung và
chương trình làm việc,
Hòa Thượng Thích Trí Nghiệm được
Hội đồng phân công
phiên dịch bộ Đại
Bát Nhã 600 quyển này.
Thực ra, Ngài đã tự khởi dịch
bộ kinh này từ năm 1972 và khi được phân công, Ngài đã dịch được gần 100 quyển. Đây là
bộ kinh lớn nhất trong
Đại Tạng, đã được Ngài dịch suốt 8 năm (1972-1980) mới xong và đã dịch theo bản
biệt hành, gồm 24 tập (mỗi tập 25 quyển), và cũng đóng thành 24 tập như nguyên bản chữ Hán.
Cảo Bản của dịch phẩm Kinh Đại
Bát Nhã đã được đánh máy làm hai bản. Khi đánh máy xong thì cũng
nhằm lúc Hội đồng Chỉ đạo Phiên dịch và
Ấn hành Đại Tạng Kinh Việt-nam của
Giáo hội Phật giáo Việt-nam được
thành lập (1990), do
Hòa Thượng Thích
Minh Châu làm chủ tịch. Để kịp thời
phổ biến sâu rộng,
đồng thời góp phần mình vào tòa nhà
văn hóa Phật giáo Việt-nam,
Hòa Thượng Thích
Trí Nghiêm đã gửi
toàn bộ cả hai bản đánh máy của Cảo Bản ấy vào cúng cho
Hội đồng Chỉ đạo Phiên dịch và
Ấn hành Đại Tạng Kinh Việt-nam của
Giáo hội, để cho in và
lưu hành.
Đến năm 1993,
Hòa Thượng dịch giả đã ngoài 80 tuổi, mà dịch phẩm Kinh Đại
Bát Nhã vẫn chưa được
Hội đồng Phiên dịch ấn hành! Thời điểm này,
Thượng Tọa Thích
Tịnh Hạnh (ở Đài-loan) đang
chủ xướng công việc
phiên dịch Hán Tạng thành Việt Tạng. Do đó,
Thượng Tọa đã xin phép
Hòa Thượng dịch giả,
tình nguyện đứng ra in và phát hành dịch phẩm này.
Nhận thấy văn dịch của
Hòa Thượng cổ kính,
Thượng Tọa Tịnh Hạnh xin Ngài nhờ người nhuận văn lại.
Hòa Thượng đồng ý. Sau khi
liên lạc và được sự
đồng ý của
Hòa Thượng Thích
Minh Châu,
Hòa Thượng dịch giả nhận lại một trong hai bản đánh máy của Cảo Bản và giao lại cho tôi (vì bộ Đại
Bát Nhã nằm trong số 24 tập của
Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu mà tôi nhận
phụ trách dịch cho
Thượng Tọa Tịnh Hạnh).
Thoạt đầu,
Hòa Thượng cho tôi biết Ngài chọn
cư sĩ Tịnh Minh (Đặng Ngọc Chức) và
cư sĩ Giác Tuệ (Trần Nguyên Sanh) nhuận văn bộ dịch phẩm của Ngài. Nhưng sau đó, vì
cư sĩ Tịnh Minh bận dạy học và ở xa, không thể đảm trách được, tôi đề nghị
cư sĩ Bảo Quang (Lê
Từ Vũ) thay thế và được
Hòa Thượng đồng ý. Công việc nhuận văn của hai
vị cư sĩ được
thực hiện tại tổ đình Hội-phước (chùa Cát, Nha-trang). Những điểm cần bàn thảo trong lúc nhuận văn được trực tiếp đem lên Hoàng Trúc Am (trú xứ của
Hòa Thượng) để thỉnh
tôn ý của Ngài. (Ngài
cẩn thận dạy như vậy ngay từ đầu).
Nhuận văn xong quyển nào (từ nguyên bản bộ
biệt hành),
cư sĩ Giác Tuệ đọc lại để tôi dò với nguyên bản trong Tạng Đại Chánh. Nhân đây, tôi thấy rằng, giữa hai bản chỉ có một ít chỗ khác từ mà không khác nghĩa, hoặc có chỗ thêm từ mà nghĩa giống nhau.
Sau khi phần việc nhuận văn và dò lại với nguyên bản
hoàn tất, Cảo Bản được đánh vào vi tính và giao cho
Thượng Tọa Tịnh Hạnh.
Nhân lúc này,
Hòa Thượng Thích Quảng Độ cũng vừa được phóng thích nên
Thượng Tọa Tịnh Hạnh nhờ Ngài giảo chính lại. Sau khi xem xong,
Hòa Thượng Quảng Độ rất
hoan hỉ và
tán thán. Ngài nói
nhân lúc tôi đến thăm Bộ Đại
Bát Nhã do
Trưởng Lão Trí Nghiêm dịch và quý vị nhuận văn lại như vậy là tốt. Tôi lật xem chỉ thấy
Hòa Thượng Quảng Độ sửa một vài chữ, như Đại Lão được sửa lại làTôn giả?, Ngài nói với tôi rằng:
Tôn giả linh thiêng và
đạo vị hơn Đại Lão.
Trước khi
Thượng Tọa Tịnh Hạnh nhờ
Hòa Thượng Thích Quảng Độ giảo chính, trong một
buổi họp tại chùa Long-sơn (Nha-trang), do
Thượng Tọa Tịnh Hạnh chủ trì, tôi
chứng minh, với sự
hiện diện của hơn 20 dịch giả (kể cả hai
cư sĩ Bảo Quang và Giác Tuệ),
cư sĩ Nguyên Huệ phát biểu với
tư cách ban
biên tập: Trong những dịch phẩm đã dịch xong thì bộ Đại
Bát Nhã tương đối hoàn chỉnh nhất.
Thượng Tọa Tịnh Hạnh cho biết sẽ giao cho
cư sĩ Thanh Tuệ bên Pháp chuẩn bị in dịch phẩm Kinh Đại
Bát Nhã này
trước tiên. Đó là năm 1999. Nhưng mãi
cho đến nay, tháng 2 năm 2003, dịch phẩm Kinh Đại
Bát Nhã của
Hòa Thượng Thích
Trí Nghiêm vẫn chưa thấy ra mắt!
Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích
Trí Nghiêm đã
viên tịch ngày 13 tháng 1 năm 2003.
Nay, nhân tang lễ cố
Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích
Trí Nghiêm, quí Tôn Đức
Thiền Sư và Ban
Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam tại Hoa-kỳ, cùng đồng bào
Phật tử hải ngoại,
phát tâm ấn hành bộ Kinh Đại
Bát Nhã (đã được nhuận văn) này, để làm
pháp cúng dường giác linh Đại Trưởng Lão Hòa Thượng.
Chúng tôi cũng có điều cần ghi chú ở đây rằng: Năm 1997, sau khi
Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích
Trí Nghiêm làm Đường Đầu
Hòa Thượng thí giới cho gần 5.000 giời tử, tại
đại giới đàn Thiện Hòa, ở Đại-tùng-lâm, thuộc tỉnh Bà-rịa Vũng-tàu,
Đại Đức Thích
Thông Huyền,
đại diện cho nhóm
Tăng Ni và
Cư sĩ thuộc
Tu viện Bát-nhã (Vũng-tàu), đã xin phép
Hòa Thượng được đứng ra in bộ Đại
Bát Nhã này. Tôi có đề nghị với
Đại Đức là hãy chờ
chúng tôi nhuận văn xong rồi sẽ in, nhưng
Đại Đức muốn giữ nguyên văn phong của
Hòa Thượng. Bởi vậy,
Hòa Thượng đã viết thư để
Đại Đức Thích
Thông Huyền đem trình
Hòa Thượng Minh Châu, trực tiếp xin lại bản đánh máy thứ hai của Cảo Bản dịch phẩm Kinh Đại
Bát Nhã (như đã nói trên), đem về Vũng-tàu, in và
phổ biến. Thế là
bộ Kinh Đại
Bát Nhã do
Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích
Trí Nghiêm phiên dịch từ Hán ngữ ra Việt ngữ (với văn phong nguyên thỉ của
Hòa Thượng) đã được ra đời! Sự
phát tâm ấn hành của nhóm
Tăng Ni và
Phật tử thuộc
Tu viện Bát-nhã ở Vũng-tàu, đã làm cho
Hòa Thượng rất
hoan hỉ, vì thấy
công trình trân quí của mình đã được in thành sách (dù chưa được nhuận văn), và được
lưu hành rộng rãi từ quốc nội ra đến hải ngoại.
Vậy, với ấn bản này của Ban
Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam, dịch phẩm Kinh Đại
Bát Nhã của
Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích
Trí Nghiêm, hiện được
lưu hành với hai ấn bản: một ấn bản chưa được nhuận văn (in năm 1997), và một ấn bản đã được nhuận văn (in năm 2003).
Pháp tử Tỳ kheo Thích Đỗng Minh
trân trọng kính ghi
Nha-trang, ngày Mồng Hai Tết Quí Mùi (2.2.2003)THỪA SỰ TĂNG SAI
Trong bộ truyện của
Tam Tạng Pháp Sư quyển thứ mười, để ở chùa
Đại Từ Ân, có đoạn tường thuật về việc
Pháp Sư phiên dịch Kinh Đại
Bát Nhã này; do Hội
ấn hành kinh điển tại Hương Cảng có
trích đăng nơi tập
mục lục (1958). Tôi xin phụng dịch như sau:
"…
Các nước phương Đông trọng kinh Bát Nhã. Đời trước tuy đã có phiên dịch nhưng chưa thể chu toàn đầy đủ, nên nhiều người lại muốn thỉnh Lệnh ủy dịch.Song
Bát Nhã là
bộ Kinh to tát, ở kinh đô nhiều việc
rắc rối; lại nữa nhân mệnh
vô thường, e khó được
thành tựu viên mãn nên mới thỉnh xin dọn đến ở cung
Ngọc Hoa mà
phiên dịch. Nhà vua bằng lòng
phê chuẩn ngay! Tức là
mùa Đông tháng Mười, niên hiệu Hiển Khánh năm thứ tư,
Pháp Sư từ kinh đô phát hướng về
Ngọc Hoa cung, và cùng chư vị
Đại Đức thuộc
hội đồng phiên dịch và
môn đồ thảy
đồng hành nhất thể. Đến nơi,
an trí tại Viện Túc Thành lấy làm trụ sở
phiên dịch. Còn việc
cung cấp các việc
y như khi ở
kinh sư.
Đến ngày Nguyên đán tháng Giêng
mùa Xuân năm thứ năm khởi đầu
dịch kinh Đại
Bát Nhã. Bản chữ Phạn tổng có hai mươi vạn bài tụng. Văn đã rộng lớn, kẻ
học đồ muốn
cầu thỉnh xin lược bớt; nên
Pháp Sư hầu muốn
thuận theo ý chúng, như ngài
La Thập đã làm, cắt bỏ bớt những đoạn văn
phiền phức trùng điệp. Khởi nghĩ ấy rồi, đêm
nằm mộng thấy có những sự trạng để răn
cảnh giới nhau, như hoặc thấy bay lên trên cao nguy, đi nơi hiểm khốn, hoặc thấy
thú dữ bắt người v.v…
run sợ toát mồ hôi mới được
thoát khỏi. Khi đã
tỉnh giấc kinh hãi, đến các chúng nói lại việc ấy và lại
y như Kinh
phiên dịch rộng đủ. Trong đêm bèn thấy chư Phật
Bồ Tát phóng hào quang nơi chặng giữa mày mắt soi xúc thân mình, tâm ý
vui thích.
Pháp Sư lại tự thấy tay cầm đèn hoa
cúng dường chư Phật, hoặc thấy thăng lên tòa cao vì chúng
thuyết pháp, có nhiều người vây quanh
ngợi khen cung kính, hoặc mộng thấy có người đem danh quả phụng biếu cho mình;
tỉnh giấc vui mừng chẳng dám cắt bỏ bớt,
nhất nhất đúng như bản chữ Phạn mà dịch.
Đức Phật thuyết Kinh này tính ở bốn chỗ:
1. Núi
Thứu Phong nơi thành
Vương Xá;
2. Vườn
Cấp Cô Độc;
3. Cung
Trời Tha Hóa Tự Tại4.
Tịnh Xá Trúc Lâm thành
Vương Xá.
Tổng cộng 16 Hội, hợp thành một bộ. Nhưng
Pháp Sư từ ở
Ấn Độ tìm được ba bản; đến ngày
phiên dịch đây, trong văn có chỗ
nghi ngờ, tức đem ba bản
so sánh lấy làm
quyết định;
ân cần tra xét lại kỹ càng rồi mới chịu hạ bút thành văn. Tâm ý
tra xét cẩn thận đúng mức , thật từ xưa chẳng sánh kịp. Hoặc văn
trái với ý chỉ sâu thẳm, ý hiểu còn có
do dự rụt rè, tất
cảm giác cảnh lạ lùng, tuồng như có người trao cho minh quyết,
tâm trí liền rỗng vỡ vạc
thông suốt, như vẹt mây mù mà thấy
mặt trời.
Pháp Sư tự nói rằng: "Chỗ ngộ hội như đây đâu phải trí cạn cợt
Huyền Trang tôi mà
thông suốt được, đều là được chư Phật
Bồ Tát đã âm thầm
gia hộ vậy".
Hội thứ nhất của Kinh có phẩm
Nghiêm tịnh cõi Phật. Trong ấy nói:"Các chúng
Bồ Tát Ma ha tát vì
Bát Nhã Ba La Mật Đa, dùng
thần thông nguyện lực đựng các ngọc báu thượng diệu, các diệu
hương hoa, uống ăn trăm vị, áo mặc,
âm nhạc của cõi
Đại Thiên tùy ý sanh ra năm trần diệu cảnh, các thứ
cúng dường để
trang nghiêm chỗ thuyết pháp".
Lúc ấy, Ngài
tự chủ chùa
Ngọc Hoa hiệu Huệ Đức và các Ngài
Đại đức Tăng
hội đồng dịch Kinh, trong đêm ấy đồng mộng thấy trong nội cảnh chùa
Ngọc Hoa rộng rãi nghiêm tịnh lịch đẹp
trang nghiêm: Nào là phan trướng, xe báu, nào là
tràng hoa,
kỹ nhạc v.v… đầy nhẫy trong nội cảnh chùa. Lại thấy có
vô lượng Tăng chúng tay cầm lọng hoa và đồ
cúng dường như trên đồng đến
cúng dường Kinh Đại
Bát Nhã. Những đường sá tường vách trong khu vực chùa đều
trang hoàng đẹp đẽ, đất đầy danh hoa,
Tăng chúng đồng giẫm trên mà đi. Đến như Viện
phiên kinh, nơi Viện lại càng bội phần
đẹp đẽ lạ lùng, như Kinh đã chép cõi
bảy báu trang nghiêm. Lại nghe thấy trong Viện có ba gian nhà để
giảng thuyết,
Pháp Sư ngồi gian giữa diễn giảng. Đã thấy đấy rồi,
vui mừng thức giấc, đồng đến
thăm hỏi nói việc đã thấy trong mộng với
Pháp Sư.
Pháp Sư bảo:"Nay chính dịch phẩm này, các
Bồ Tát thảy tất có
cúng dường. Các Thầy đã mộng thấy, tin có việc ấy. Ôi".
Bấy giờ, bên điện có hai cây mít, bỗng lúc
phi thời lần lượt nở hoa, mỗi hoa đều nở sáu đóa thịnh mậu, sắc hồng trắng, thật đáng yêu
phi thường. Lúc đấy
Tăng chúng luận nghị rằng: "Đây chính là
triệu chứng điềm lành Bát Nhã được xiển dương lại; lại ra sáu quả là
tiêu biểu sáu Ba La Mật Đa".
Nhưng
Pháp Sư khi
dịch kinh này,
tâm chí miệt mài và hằng
lo lắng vô thường , nên mới bảo
chư Tăng rằng: "Huyền Trang tôi năm nay đã sáu mươi lăm tuổi, chắc sẽ bỏ mạng ngôi
già lam này;
bộ Kinh này rất lớn lao, hằng lo sợ
việc làm chẳng
trọn vẹn, người người nên nổ lực
gia công tinh tiến, rất chớ nên vì khó nhọc mà từ nan!".
Đến ngày hai mươi ba tháng mười niên hiệu Long Sóc năm thứ ba mới được
hoàn tất công việc
phiên dịch, hợp thành sáu trăm quyển, gọi là
Đại Bát Nhã Kinh vậy;
chấp tay hoan hỷ bảo
đồ chúng rằng: “Kinh này đối với địa phương đây có phước duyên lắm,
Huyền Trang được đến ngôi chùa
Ngọc Hoa này là
thần lực của kinh vậy. Trước kia khi còn ở
kinh sư, nhiều các
duyên sự lôi kéo
rắc rối, đâu còn
thì giờ rảnh; nay nhờ về đây công việc được xong
trọn vẹn đều là nhờ chư
Phật âm thầm
gia bị,
Long Thiên ủng hộ. Vì là
kinh điển trấn quốc, viên ngọc lớn của người trời,
đồ chúng nên đều hớn hở
vui mừng nhảy nhót”.
Bấy giờ, ngài
Duy Na chùa
Ngọc Hoa họ Đô, hiệu
tịch chiếu vui mừng khao thưởng tất công, mới thiết trai
cúng dường. Cũng chính ngày ấy thỉnh kinh từ điện Túc Thành đem về điện Gia Thọ là chỗ trai sở,
giảng diễn đọc tụng. Chính lúc đang nghinh thỉnh kinh đi,
Bát Nhã phóng quang soi khắp
xa gần và
có mùi thơm
phi thường.
Pháp sư bảo các môn nhân rằng: “Như kinh đã tự ghi rằng phương này sẽ có kẻ vui muốn
Đại thừa là:
Quốc vương, Đại thần, bốn bộ
đồ chúng biên chép,
thọ trì,
đọc tụng lưu thông khắp cõi, đều được
sanh thiên giải thoát rốt ráo. Đã có văn đây chẳng lẽ lặng thinh vậy sao”.
Qua ngày hai mươi hai tháng mười một dạy
đệ tử là ngài
Khuy Cơ dâng biểu phúc tấu lên vua và thỉnh xin ngự chế bài tựa nơi kinh. Đến ngày bảy tháng mười hai quan Thông Sự Xá Nhơn là Phùng Nghĩa tuyên đọc Sắc lệnh xuống
lời hứa.
Sau khi
dịch kinh Bát Nhã xong,
Pháp sư tự
cảm giác sức lực nơi mình suy kiệt, biết
vô thường sắp đến, nên mới bảo môn nhân rằng: “Tôi đến
Ngọc Hoa này
bản duyên là
Bát Nhã, nay việc kinh đã
trọn vẹn,
sinh nhai tôi cũng vừa hết. Nếu sau khi
vô thường, các người khiển tán tôi phải theo kiệm ước tỉnh giảm: Có thể nên lấy tre làm chiếu gói liệm mà gánh đi cũng được; nhưng phải chọn lựa chỗ núi khe chật hẹp mà
an trí, chớ để gần bên cung, chùa, vì thân này là vật
bất tịnh nên phải để chỗ khuất xa!”. Các kẻ
môn đồ nghe lời đau buồn nghẹn thở đó, đều lau lệ đồng vội thưa rằng: “Hòa thượng khí lực hãy còn khá,
tôn nhan chẳng khác lúc xưa là mấy, mà sao vì lẽ gì bỗng thốt ra lời buồn nghẹn ấy?”.
Pháp Sư nói: “Tôi tự biết tôi, các người do đâu hiểu được”.
Ngày Sóc mồng một tháng Giêng
mùa Xuân, niên hiệu Lân Đức nguyên niên, các ngài
Đại Đức trong
hội đồng phiên dịch và
Tăng chúng chùa kia
ân cần xin thỉnh
dịch kinh Đại Bảo Tích.
Pháp Sư thấy
Tăng chúng chí thành khẩn thiết, mới
miễn cưỡng dịch được vài hàng, liền xếp Phạn bản mà
đình chỉ, bảo
chư Tăng rằng: “Kinh này bộ quyển cùng
Bát Nhã cũng suýt soát đồng,
Huyền Trang tôi tự lượng khí lực chẳng còn làm xong việc này nữa;
thời kỳ chết đã đến, thế chẳng còn bao xa. Nay muốn đi đến các hang động Lan Chi
lễ bái từ tạ
tượng Phật Câu Chi”. Rồi
lúc ấy cùng môn nhân đồng
khởi hành,
Tăng chúng tùy tùng khá đông, không ai chẳng
lặng lẽ bùi ngùi!
Lễ bái xong
trở về chùa,
chuyên tinh hành Đạo, bèn tuyệt hẳn
sự nghiệp phiên dịch ….
“Kinh Đại
Bát Nhã là mẹ chư Phật, chư Phật
ba đời đồng nương tựa đây, siêu vượt
tuyệt đối, rất tôn rất thắng. Không luận
Thiền Tịnh Hiển Mật, nếu chẳng
minh đạt Bát Nhã, tức chẳng thể vào biển
Nhất thiết trí. Cho nên
hành giả muốn
giải thoát sanh tử, muốn
chứng chơn như, nên cần học
Bát Nhã mới có thể
thành tựu được …”.
(Lời của Uỷ viên hội
ấn hành Kinh điển tại Hồng Kông Hương Cảng)
Tam Tạng Pháp Sư khởi đầu
dịch kinh Đại
Bát Nhã này vào ngày Nguyên đán mồng một tháng Giêng
mùa Xuân niên hiệu Hiển Khánh năm thứ năm, vào triều vua Thái Tông Văn
Hoàng Đế, tức là
vào khoảng giữa thế kỷ thứ VII (nhà Đường lập quốc 618, vua thứ nhất 9 năm, vua thứ hai 23 năm tức Thái Tông Văn) đến ngày 23 tháng 10
mùa Đông, niên hiệu Long Sóc năm thứ 3 mới
hoàn tất.
Thời gian mất 3 năm.
(
Phần tôi khởi dịch ngày 25 tháng 5 năm Giáp Dần, tức tháng 6 năm 1972 đến ngày mồng 08 tháng 04 năm Kỷ Mùi, tức tháng 05 năm 1979. Thời gian mất 7 năm).Dịch xong,
Pháp Sư chấp tay vui mừng bảo
đồ chúng rằng: Kinh đây đối địa phương này có duyên … nay được trọn xong, đều là nhờ chư
Phật minh gia,
Long Thiên ủng hộ, vì đây là
Kinh điển trấn quốc, khối ngọc to lớn của người, trời.
Đồ chúng nên đều hớn hở
nhảy nhót vui mừng! Rồi ông
Duy Na chùa
Ngọc Hoa thiết chay khoản đãi
vui mừng tất công. Và ngay ngày ấy rước Kinh từ điện này qua điện nọ … Kinh
phóng hào quang v.v… đều là chư Phật
Long Thiên, người và oai lực của
Kinh đồng nói lên nỗi
vui mừng cho
chúng sanh được
hạnh phúc. Cho nên lời ngự chế của
Đường Thái Tông có câu rằng: “Thánh Giáo khuyết mà lại được toàn,
chúng sanh tội mà hoàn được phước”.
Trải qua gần 7 thế kỷ (Từ Hớn chí Đường hơn 600 năm) người
Phật tử Trung Quốc mới có được
bộ Kinh Đại
Bát Nhã 600 quyển
trọn vẹn đầy đủ.
Phật giáo du nhập vào
Việt Nam ta hơn mười tám thế kỷ mới nói chuyện “Có”. Từ thời ngài Cưu-ma-là-thập dịch 400 quyển, ngài
Huyền Trang dịch 600 quyển, hai
bộ Kinh này tuy có truyền vào
Việt Nam, nhưng bằng chữ Hán thì vẫn là của người ngoại quốc.
May sao do Ủy viên Hội
ấn hành Kinh điển tại Hương Cảng họ
Ảnh ấn bộ Kinh Đại
Bát Nhã 600 quyển này vào năm 1958 truyền sang miền Nam
Việt Nam, mới có một người Việt, Thích
Trí Nghiêm tôi, ngồi trên đồi núi Trại Thủy thuộc thành phố Nha Trang
quyết chí miệt mài dịch từ Hán văn sang Việt văn, sau 7 năm
hoàn thành 600 quyển kinh 5 triệu chữ. Kiểu đếm chữ dễ dàng như sau:
Sáu trăm quyển phân thành 24 tập (ngoại trừ tập
mục lục), mỗi tập có 25 quyển; mỗi quyển trung bình 40 trang; mỗi trang 10 hàng; mỗi hàng 20 chữ. Mười trang hai ngàn chữ. Bốn chục trang tám ngàn chữ. Mười quyển có tám chục ngàn chữ. Một trăm quyển có tám trăm ngàn chữ. Sáu trăm quyển
tổng số bốn triệu tám trăm ngàn chữ. Chưa kể hai bài ngự chế của hai vua nhà Đường, và 16 bài tựa của 16 hội do dịch giả viết tại chùa Tây Minh, ký hiệu
Huyền Tắc chớ không để
Huyền Trang. (Toàn Kinh có 16 hội. Hội thứ nhất chiếm 400 quyển có một bài tựa. Còn 200 quyển 15 hội có 15 bài. Không như thông
thường một bộ Kinh là chung một tựa. Quyển
Kim Cương Bát Nhã ta thường tụng thuộc Hội thứ chín cũng riêng một tựa).
Như thế
bộ Kinh này dịch ra Việt văn đầy đủ không dưới năm triệu chữ.
Phật nói: Đại
Bát Nhã là viên ngọc
đại bảo thần châu vô giá. Châu này ở chỗ nào là chỗ đó khí hậu điều hòa …
chúng sanh an lạc. Người
Phật tử Việt Nam ta đã được
Bát Nhã thần châu này chắc cũng phải
vui mừng sung sướng như người
Phật tử Trung Quốc đã
vui mừng nhảy nhót!
Khi
Pháp Sư khởi đầu
phiên dịch,
Tăng chúng muốn Ngài lược dịch,
Pháp Sư theo ý chúng. Đến đêm mộng thấy những điềm triệu
kinh hãi; sáng ngày ra trước chúng
đổi ý kiến và nói: Phạn văn một chữ là tôi dịch ra Hán văn một chữ. Thời đêm đến Ngài mộng thấy chư Phật
phóng quang soi đến thân mình … và tự thấy mình thăng tòa vì chúng
thuyết pháp … Hoặc mộng thấy có người mang danh quả đến biếu. Khi
thức giấc vui mừng chẳng dám bỏ bớt. (Điểm này các nhà
phiên dịch Kinh Phật phải
lưu ý cho lắm vậy. Các
đức Phật cần khổ tu hành ba
vô số kiếp mới nói được
lời nói Chánh Pháp, mà
chúng sanh gạt bỏ bớt là
đắc tội với
Chánh Pháp. Nếu làm không nổi thì đừng rờ tới không có tội gì hết).
Rồi tới điềm mộng
công cộng: Ngài Huệ Đức chủ chùa
Ngọc Hoa và
Hội đồng dịch Kinh, một đêm nọ đồng mộng thấy trong khu vực chùa này từ trong ra ngoài, từ trên đến dưới, huy hoàng
trang nghiêm:
Tràng phan bảo cái, cờ lọng
hương hoa, đèn sáng, nhạc trỗi tưng bừng
rực rỡ; như trong phẩm
Nghiêm tịnh cõi Phật mà Kinh đã nói. Lại còn thấy
nghe Pháp Sư Huyền Trang ngự trên tòa giữa nhà
thuyết pháp. Sáng ngày đồng đến chỗ
Pháp Sư nói lại việc mộng đã thấy và tham hỏi
ý kiến.
Pháp Sư nói: Nay chính đang dịch phẩm Kinh ấy, thời có các Bồ-tát đến
cúng dường, chư Sư đã thấy phải tin có việc này.
Đó là việc mộng. Sau đây là chuyện thực: Khi bấy giờ gần bên
Chánh Điện chùa
Ngọc Hoa có hai cây mít (nại thọ) bỗng ra hoa
phi thời, mỗi hoa đều ra quả, sáu quả sắc hồng trắng, thịnh mậu
xinh đẹp đáng
yêu quí lắm.
Lúc ấy tăng chúng bèn luận rằng là
triệu chứng Bát Nhã tái xiển dương; mà ra sáu quả lại là
tiêu biểu sáu Ba La Mật Đa.
Khởi đầu
dịch Kinh này đầu hè năm 1972, sang giữa
mùa xuân năm 1973 thì một hôm bỗng nhiên có bốn em nữ sinh đến chơi chùa và xin tôi chụp bóng
phong cảnh; tôi
chấp nhận cho chúng
tự do xem cảnh. Nhưng tôi thấy tác phong các em này hơi khác lạ, chẳng như nữ sinh Trung học Bồ-đề, nên tôi mới hỏi, thì chúng đáp: Chúng con là nữ sinh trường Trung học Hưng Đạo, các con là con của
tín đồ Thiên Chúa; Hưng Đạo là tư thục của
Thiên Chúa giáo. Thế rồi chúng đi chụp bóng bồn bông này sang chậu hoa nọ, khóm trúc cành mai, cội phong lan, gốc
cổ thụ … rồi hai em
vui vẻ bước vào trước tôi: Thưa Ông! Cây mít của ông nó ra sáu trái thật đẹp quá! Mời ông ra đứng bên nó cho chúng con chụp tấm bóng để kỷ niệm.
Đang lúc tôi viết cũng đã hơi mỏi và thấy chúng
ân cần, nhớm dậy
bước ra đứng bên sáu trái mít. Chúng nhiếp ảnh xong, tôi
trở lại bàn viết. Thế là chúng thu nhiếp những gì là xuân hoa tuyết sắc của chốn
Tăng viên và sau chót thu nhiếp sáu quả
Ba La Mật Đa vào trong ống kính. rồi chúng
vui vẻ cáo từ dắt tay nhau xuống dốc. Sau hơn mười lăm hôm, chúng gửi lên tặng tôi tấm bóng cây mít có sáu quả.
Bất ngờ nhận được tấm bóng, xem đẹp thật; rồi
thản nhiên cất đi chứ không nghĩ gì có
liên hệ đến
kinh điển. Vì
bộ Kinh tôi dịch thất lạc quyển
mục lục; mà truyện của
Pháp Sư trích đăng nơi quyển
mục lục; nên khi sáu quả mít
xuất hiện, tôi không hề biết tới. Ba năm sau mới mượn được
mục lục, mới
nhận thấy sự việc đã
hiện ra trước đây hơn mười hai thế kỷ, nay lại
xuất hiện tại đây, biết đâu
xưa nay chẳng phải là hai. Vì việc xảy ra tại đây là việc
ngẫu nhiên trăm phần trăm: Chúng
tự nhiên đến chơi; chúng có sáng kiến mời chủ ra chụp bóng và tặng bóng cho chủ … bởi lời
đức Phật nói ra
Kinh điển bất khả tư nghì, không vì
thời gian lâu xa, địa dư cách trở mà chỉ vì duyên lành đến lúc
cơ cảm thành thục là có điềm thụy ứng vậy thôi!
Người xưa có câu: Quả trung nại trân, nghĩa là trong
các loại trái cây, trái mít là quí trọng hơn hết.
Đức Phật thuyết ra các pháp, sáu
pháp Ba La Mật Đa là thẳm sâu
mầu nhiệm cao thượng hơn hết. Cho nên
trường hợp sáu trái mít đã
hiện ra cách đây hơn mười hai thế kỷ mà người ta phải ghi vào
lịch sử phiên dịch Kinh điển; ngày nay lại
tái diễn một lần nữa ở đây, có lẽ cũng là điềm
thiêng liêng nào trong
phạm vi đạo pháp!
Thời giáo Bát Nhã này,
đức Phật thuyết
thời gian hai mươi hai năm (Nhị
thập nhị niên
Bát Nhã đàm).
Pháp hội: Có 16
Pháp hội. Địa điểm có 4:
1. Tại chót núi
Thứu Phong. Nơi đây,
đức Phật trước sau đi lại sáu lần, để
thuyết kinh này.
2. Tại vườn
Cấp Cô Độc. Nơi đây,
đức Phật trước sau đi lại bảy lần, để
thuyết kinh này.
3. Tại cung
trời Tha Hóa Tự Tại. Nơi đây,
đức Phật đã
thuyết kinh này.
4. Tại bên ao Cò Trắng thuộc
phạm vi Tinh Xá Trúc Lâm. Nơi đây,
đức Phật đã
thuyết kinh này.
Tổng cộng tất cả là sáu trăm quyển (600).
Số phẩm: Từ hội thứ nhất đến hội thứ sáu, tổng cộng có hai trăm sáu mươi lăm phẩm (265). Từ hội thứ bảy trở đi, Kinh không nêu ra phẩm.
THÀNH LẬP HỘI ĐỔNG PHIÊN DỊCH
TAM TẠNG THÁNH GIÁO
Hội đồng phiên dịch Tam Tạng họp tại Viện
Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn vào những ngày 20, 21, 22.10.1973.
Hội Đồng gồm tất cả 12 vị, dưới quyền
Chủ Tọa T.T.Thích
Trí Tịnh, T.T.Thích
Minh Châu.
Hội nghị thảo luận ráo riết trong mấy ngày, đến phần phân công
phiên dịch kinh bộ, thì bộ Đại
Bát Nhã 600 quyển giao cho T.T Thích
Trí Nghiêm phiên dịch, T.T Thích Thiện Siêu duyệt khảo lại.
Trước
Hội nghị này, tôi đã tự khởi
dịch kinh này từ năm 1972 đã được gần 100 quyển. Sau
Hội nghị, tôi
tiếp tục phiên dịch đến nay là xong 600 quyển.
HỔI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Xin đem
công đức này
hồi hướng về quả
Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ Đề,
cầu xin Chư Phật mười phương hiện đang
thuyết Pháp và
Đức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật đồng dủ
lòng từ bi
gia hộ cho các vị
Tăng Ni Phật tử,
thiện nam tín nữ xa gần đã góp phần
công đức vào việc
phiên dịch, đánh máy,
ấn loát Kinh Đại
Bát Nhã này, đời hiện còn đây được thêm phần
phước huệ thọ mạng đầy đủ
dồi dào, đến lúc
lâm chung sẽ được
vãng sanh về
mười phương cõi Phật, được nghe các
Đức Phật kia
thuyết pháp môn
thâm diệu là Đại
Bát Nhã Ba La Mật Đa để
thọ trì đọc tụng,
tu tập,
suy nghĩ,
cúng dường lễ bái v.v…Bồi dưỡng căn lành
Bát Nhã là
hạt giống căn lành sanh đẻ ra các Phật
ba đời.
Cuối cùng các
Phật tử này sẽ đều được trọn
thành Phật quả và khắp
cầu nguyện tất cả
pháp giới chúng sanh đều được nhờ
công đức Bát Nhã thù thắng này đều trọn nên
Phật đạo.
Ngưỡng vọng:
Nam Mô Bát Nhã Hội Thượng Phật
Bồ Tát Ma Ha Tát chứng minh gia hộ.
Nam Mô Tam Châu
cảm ứng Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên
Bồ Tát thủ hộ Pháp Bảo Bát Nhã này được
lưu hành khắp
mười phương thế giới trường tồn vĩnh viễn.
Viết tại am Hoàng Trúc thuộc chùa Long Sơn trụ sở Tỉnh
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Khánh Hòa, Nha Trang vào ngày vía
Đức Phật A Di Đà, Phật Lịch 2524 (1980).
Dịch giả cẩn ghi.
Ghi chú: Phần hành nhuận văn xin được giữ nguyên văn phong của
Hòa Thượng, trong bài này.
TỰA HỒI ĐẦU KINH ĐẠI BÁT NHÃ
Sa Môn Huyền Tắc chùa Tây Minh đời Đường phụng soạn
Tỳ Kheo Thích Trí Nghiêm chùa Long Sơn, Nha Trang dịch ra Việt văn
Kinh Đại
Bát Nhã là áng văn
tuyệt tác,
trong đời hiếm có; là bến bờ
sâu rộng, nhiều kiếp khó gặp; ánh sáng
trùm khắp trời người, gồm thâu chơn tục. Thật là chốn ảo diệu nhập thần, vật
linh thiêng giúp nước. Nếu chẳng phải
thánh đức bàn luận sâu xa, triết nhân diễn bày độc đáo, thì
pháp âm huyền diệu khó
lưu truyền,
giáo lý tròn đầy đâu dễ đạt. Cho nên, các bậc vua chúa đã trình bày, soạn thuật những lời vàng ngọc, để
soi sáng và xiển dương. Sự việc
xa cách nghìn xưa, mà
đạo lý vẫn
soi sáng ba đời. Kinh văn này, quả là
phong phú,
cho đến ngày nay vẫn còn hoàn bị.
Toàn bộ kinh văn chia thành 24 tập, có 16 hội. Trước đây, chỉ có được nửa số lượng kinh văn quí báu ấy, nhưng
đến nay thì có đủ
toàn bộ. Xem
duyên khởi của từng hội, mỗi hội
so sánh với mỗi tập, rồi
truy cứu bản gốc, để biết sự sai khác, nên mỗi hội có đề một bài tựa.
Như hội Linh Phong vừa
vân tập,
pháp âm rộng lớn,
vang dội khắp nơi, gạn sạch nguồn thân, rộng bày
tâm yếu. Vì sao? Bởi lẽ,
năm Uẩn là vật chứa của
hữu tình, hai Ngã là nhà của vật chứa ấy. Cái- nhà- Ngã mà đề cao, thì nước ảo vọng càng sâu; cái- vật- chứa- Uẩn mà
tồn tại, thì thành
ảo giác thêm cao. Đâu biết rằng, chỗ nương của ngã là
vọng tưởng, mà tưởng đã là vọng, thì
ngã không còn; cái
trói buộc Uẩn là
giả danh, mà danh đã là giả, thì Uẩn hết chỗ nương.
Cho nên,
bàn luận về lẽ tức không, diễn bày về lý
vong ngôn: Coi cõi tục là
tịch tịnh; đặt loài côn trùng lên hàng
vô sanh;
nghe lời khen như
tiếng vang trong
hang núi; xem
vạn vật như bóng trong gương. Bỏ cái dòm trời nhỏ hẹp, thì bầu trời
mênh mông hiện rõ; không theo khuôn khổ hạn hẹp, thì cảnh
bao la tự hiện.
Ý tưởng thì
mênh mông, lời lẽ thì
vô cùng, khiến cho kẻ
phàm phu thiển cận, có cơ hội tháo bỏ
sự cố chấp; như xác định được hướng Nam rồi, thì
chắc chắn biết được hướng Bắc.
Nghĩa lý lồng lộng như trời, lời lẽ
mênh mông như biển.
Ở đây, dùng các phần của bản gốc, cộng với những phần trước kia chưa truyền đến, gom lại mà khắc thành 400 quyển, 85 phẩm (?).
Xét theo phương thổ,
đáng lẽ nên lược dịch, nhưng
nghĩ lại, một lời có thể bao trùm hết thảy, lại thêm
văn chương đã cao nhã, mà chương cú lại
liên tục; như chỉ có hai chữ Niết-bàn mà
bao gồm :
Tốt đẹp, tĩnh lặng,
trong sáng,
tự tại … lời dạy
từ bi biết bao !
Nếu dịch mà lược bỏ, thì sợ để lại cái họa
thiếu sót cho
đời sau, nên nay phải dịch và truyền đúng theo nguyên bản, hầu khỏi bị chê là
ngôn từ vượt ngoài
giới hạn. Huống chi,
thời đại còn viết trên thẻ tre,
ý nghĩ thêm bớt còn
lờ mờ lẫn lộn !
Trong kinh, lời dạy
sáng tỏ, chương cú
rõ ràng.
Từ đầu đến cuối, được sự
cảm ứng, có ghi đầy đủ trong biệt lục.
Ai là người có tâm lớn, tài cao, đã từng nghe và phụng trì,
đạt đến chỗ không
sợ hãi, thì nên tự
học hỏi và
cứu độ.