Quán Thế Âm Bồ tát: Quán Nhĩ Căn Viên Thông
Lúc bấy giờ Bồ tát Quán Thế Âm liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát dưới chân đức Phật, rồi bạch Phật rằng:
Bạch đức Thế tôn, con nhớ quá khứ hằng hà sa số kiếp, vào thời có đức Phật hiệu là Quán Thế Âm xuất hiện ở đời. Ở trước đức Phật đó con phát tâm bồ đề. Ngài dạy con cách nghe, tư duy, tu tập để thể nhập chánh định.
Ban đầu ở trong tánh nghe con nhập vào dòng viên thông nên chỗ nghe không còn nữa. Chỗ nhập vào cũng vắng lặng, hai tướng động tĩnh rõ ràng không còn sanh. Trạng thái như vậy tăng dần, đến khi cái nghe và cái bị nghe đều dứt sạch. Không trụ trong chỗ dứt sạch ấy nên con đạt đến trạng thái cái biết và cái bị biết đều vắng lặng.
Không giác viên mãn tột bậc nên các tướng năng không và sở không đều tịch diệt. Sinh diệt đã diệt thì bản tính tịch diệt hiện ra trước mắt. Bỗng nhiên con vượt ra ngoài thế gian và xuất thế gian, mười phương sáng suốt viên mãn hiển bày, và con đạt được hai cảnh giới thù thắng.
Một là, trên hợp với bổn diệu giác tâm của mười phương chư Phật và cùng Phật Như Lai đồng một từ lực.
Hai là, dưới hợp với tất cả chúng sinh trong lục đạo khắp mười phương và cùng với chúng sinh đồng một bi ngưỡng.
Bạch Thế tôn, do con cúng dường đức Quán Âm Như Lai, nên được ngài truyền thọ pháp Như Huyễn Văn Huân Văn Tu Kim Cang Tam Muội, cùng với Phật Như Lai đồng một từ lực, khiến con thành tựu ba mươi hai ứng thân, tự tại đi vào các quốc độ.
Bạch đức Thế tôn, nếu có Bồ tát nhập tam ma địa, tiến tu vô lậu, thắng giải hiện ra viên mãn, con liền hiện thân Phật mà thuyết pháp khiến cho họ được giải thoát.
Nếu có hàng hữu học tu pháp diệu minh vắng lặng, khi thắng diệu hiện ra viên mãn, con liền hiện thân Độc giác ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được giải thoát.
Nếu có hàng hữu học đoạn mười hai nhân duyên, khi các duyên đã đoạn thắng tánh hiện ra viên mãn, con liền hiện thân Duyên giác ở trước người đó mà thuyết pháp khiến cho họ được giải thoát.
Nếu có hàng hữu học chứng đắc tứ đế tánh không. Tu tập Đạo đế, thể nhập Diệt đế, khi thắng tánh hiện ra viên mãn, con liền hiện thân Thanh văn ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được giải thoát.
Nếu có chúng sinh, muốn tâm tỏ ngộ, không phạm ngũ dục trần lao, muốn thân thanh tịnh, con liền hiện thân Phạm vương ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được giải thoát.
Nếu có chúng sinh muốn làm thiên chủ, thống lãnh chư thiên, con liền hiện thân Đế Thích ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có chúng sinh muốn thân tự tại, đi khắp mười phương, con liền hiện thân Tự Tại thiên ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu chúng sinh muốn có thân tự tại, phi hành hư không, con liền hiện thân Đại Tự Tại thiên ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có chúng sinh ưa thống lĩnh quỷ thần, cứu hộ đất nước, con liền hiện thân Thiên Đại tướng quân ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có chúng sinh muốn thống lĩnh thế giới, bảo hộ chúng sinh, con liền hiện thân Tứ thiên vương ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có chúng sinh muốn sinh thiên cung, sai khiến quỷ thần, con liền hiện thân Thái tử Tứ thiên vương ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có chúng sinh thích làm vua cõi người, con liền hiện thân Quốc vương ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có chúng sinh muốn làm chủ dòng tộc, thế gian kính ngưỡng, con liền hiện thân Trưởng giả ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có chúng sinh thích đàm luận danh ngôn, sống đời trong sạch, con liền hiện thân Cư sĩ ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có chúng sinh thích việc trị nước, chỉ huy đoán định bang ấp, con liền hiện thân Tể quan ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có chúng sinh thích môn thuật số, tự mình bảo vệ cuộc đời, con liền hiện thân Bà la môn ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có người nam hiếu học xuất gia, giữ các giới luật, con liền hiện thân tỳ kheo ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có người nữ hiếu học xuất gia, giữ các giới luật, con liền hiện thân tỳ kheo ni ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có người nam thích giữ năm giới, con liền hiện thân Ưu bà tắc ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có người nữ thích giữ năm giới, con liền hiện thân Ưu bà di ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có người nữ lập thân trong việc nội chánh, chỉnh đốn gia đình điều hành quốc gia, con liền hiện thân nữ chủ, hoặc thân quốc gia phu nhân mạng phụ giàu có, ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có chúng sinh không hoại nam căn, con hiện ra thân đồng nam ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có con gái, muốn làm trinh nữ, không cầu kết hôn, con liền hiện thân đồng nữ ở trước người đó mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có chư thiên muốn vượt cõi trời, con liền hiện thân chư thiên mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có các rồng muốn khỏi loài rồng, con liền hiện ra thân rồng mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu có dược xoa muốn qua khỏi loài của mình, con liền hiện thân dược xoa mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu Càn thát bà muốn thoát loài mình, con liền hiện thân càn thát bà ở trước họ mà thuyết pháp khiến được thành tựu.
Nếu A tu la muốn thoát loài mình, con liền hiện thân A tu la ở trước họ mà thuyết pháp khiến được thành tựu.
Nếu Khẩn đà la muốn thoát loài mình, con liền hiện thân Khẩn đà la trước họ mà thuyết pháp khiến được thành tựu.
Nếu Ma hô la già muốn thoát khỏi loài mình, con liền hiện ra thân Ma hô la già ở trước loài ấy mà thuyết pháp khiến được thành tựu.
Nếu có chúng sinh thích được thân người, tu để thành người, con hiện thân người mà thuyết pháp khiến họ được thành tựu.
Nếu loài phi nhân, hữu hình vô hình, hữu tưởng vô tưởng, muốn thoát loài mình, con liền hiện thân như họ, ở trước loài ấy mà thuyết pháp khiến được thành tựu.
Đây là ba mươi hai ứng thân diệu tịnh vào các quốc độ, đều nhờ tam muội văn huân văn tu vô tác diệu lực tự tại mà được thành tựu.
Bạch đức Thế tôn, con lại dùng vô tác diệu lực và văn huân văn tu kim cang tam muội ấy, khiến cho ba đời chúng sinh có cùng một lòng bi ngưỡng ở trong lục đạo mười phương, khi đã thể nhập vào thân tâm con thì đều có được mười bốn công đức vô úy.
Một là, do con không tự quán âm thanh mà chỉ quán tâm năng quán, nên khiến chúng sinh khổ não trong mười phương, khi quán sát âm thanh liền được giải thoát.
Hai là, tri kiến đã xoay trở lại nên khiến chúng sinh dù vào lửa lớn, lửa không thể cháy.
Ba là, quán cái nghe đã quay trở lại nên khiến chúng sinh dù vào nước sâu, nước không nhận chìm.
Bốn là, diệt hết vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến cho chúng sinh khi vào nước quỷ, quỷ không hại được.
Năm là, huân tập thành tựu tánh nghe, sáu căn ẩn mất đồng vào tánh nghe, khiến cho chúng sinh khi sắp bị hại, dao gãy từng đoạn, binh khí chạm thân như cắt vào nước, như thổi ánh sáng, bản tánh không hề dao động.
Sáu là, huân tập tánh nghe sáng suốt thấy khắp pháp giới, các tánh u ám không thể tồn tại nên khiến các loài dược xoa, la sát, quỷ cưu bàn trà, đến tỳ xá già, phú đơn na, v.v… tuy gần bên cạnh mà mắt không thể nhìn thấy.
Bảy là, tánh âm thanh hoàn toàn tiêu mất, quán cái nghe quay về tự tánh lìa các vọng trần, nên khiến chúng sanh gông cùm xiềng xích không thể trói được.
Tám là, diệt hết âm thanh tánh nghe viên mãn biến sanh từ lực, nên khiến chúng sanh đi qua đường hiểm giặc không thể cướp.
Chín là, huân tập tánh nghe, lìa xa trần tướng; sắc, thanh,… không thể lôi kéo, nên khiến tất cả chúng sanh đa dâm lìa xa tham dục.
Mười là, thuần một viên âm thanh tịnh, căn cảnh viên dung, không còn đối đãi năng sở, nên khiến tất cả chúng sanh phẫn hận xa lìa sân nhuế.
Mười một là, tiêu dung thanh trần, xoay cái nghe về tánh bản minh, thân tâm và pháp giới sáng ngời như lưu ly lắng trong vô ngại, nên khiến tất cả chúng sanh ngu ngốc mê tối, hạng A Điên Ca vĩnh viễn xa lìa si ám.
Mười hai là, viên dung các hiện tượng, xoay tánh nghe trở về, đạo tràng bất động hòa vào thế gian nhưng không hủy hoại thế giới, nên có thể biến khắp mười phương cúng dường chư Phật Như Lai số như vi trần, ở bên mỗi đức Phật làm Pháp vương tử; và khiến chúng sanh trong pháp giới, nếu ai không có con, muốn cầu con trai, sanh được con trai phước đức trí tuệ.
Mười ba là, sáu căn viên thông chiếu sáng bất nhị, trùm khắp mười phương thành đại viên kính không Như Lai tàng, nên thừa lãnh pháp môn bí mật của thập phương Như Lai nhiều như vi trần không hề thiếu sót; và khiến cho pháp giới chúng sanh nếu ai không có con, muốn cầu con gái, sanh được con gái tướng tốt đoan chánh, phước đức dịu dàng, được nhiều người kính quý.
Mười bốn là, trong tam thiên đại thiên thế giới với trăm ức mặt trời mặt trăng này, hiện có các Pháp vương tử đông như số cát sáu mươi hai sông Hằng, ở thế gian đều tu Phật pháp, làm gương mẫu giáo hóa tùy thuận chúng sanh, phương tiện trí tuệ tất cả đều khác nhau.
Do chứng được tánh viên thông nên nhĩ căn phát ra diệu tính, thân tâm vi diệu trùm khắp pháp giới, khiến cho chúng sanh chấp trì danh hiệu của con, so với chấp trì danh hiệu sáu mươi hai hằng hà sa các Pháp vương tử, công đức hai người bằng nhau không khác.
Bạch đức Thế tôn, một danh hiệu và các danh hiệu kia đều không sai khác là do con tu tập chứng đắc tánh viên thông chân thực. Đó gọi là mười bốn thí lực vô úy, làm phước đức trang bị cho chúng sinh.
Bạch đức Thế tôn! Con tu chứng được đạo viên thông vô thượng ấy nên lại hay khéo được bốn đức vô tác không thể nghĩ bàn:
Một là, do chứng được tánh nghe vi diệu, tâm không còn các tướng năng văn, việc thấy nghe hay biết không còn cách biệt, nên con thành tựu được bảo giác viên dung thanh tịnh, có thể hiện ra rất nhiều diệu dụng, nói được rất nhiều thần chú bí mật.
Trong đó hiện ra từ một đầu, ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười một đầu. Như vậy cho đến một trăm lẻ tám đầu, ngàn đầu, vạn đầu cho đến tám vạn bốn ngàn đầu thước ca la.
Lại hiện ra hai tay, bốn tay, sáu tay, mười hai tay, mười bốn tay, mười sáu tay, mười tám tay, hai mươi tay, hai mươi bốn tay, một trăm lẻ tám tay, ngàn tay, vạn tay cho đến tám vạn bốn ngàn tay mẫu đà la.
Hoặc có thể hiện ra hai mắt, ba mắt, bốn mắt, chín mắt, một trăm lẻ tám mắt, ngàn mắt, vạn mắt. Như vậy cho đến tám vạn bốn ngàn mắt báu thanh tịnh. Hoặc từ hoặc oai hoặc định hoặc tuệ, cứu độ chúng sanh hoàn toàn tự tại.
Hai là, do tánh nghe và suy nghĩ thoát ngoài sáu trần như âm thanh xuyên qua vách tường không bị ngăn ngại, cho nên diệu hạnh của con có thể hiện ra mỗi mỗi hình, tụng mỗi mỗi chú; hình và chú đó đều có thể đem sức vô uý bố thí cho chúng sinh. Thế nên các cõi nước trong mười phương nhiều như vi trần đều gọi con là vị thí vô úy.
Ba là, do con tu tập bản diệu viên thông thanh tịnh bản căn, nên đi qua thế giới nào đều khiến chúng sinh xả thân trân bảo, cầu con thương xót.
Bốn là, do con chứng được tâm Phật đến chỗ rốt ráo, nên có thể dùng các trân bảo cúng dường mười phương Như Lai, cho đến pháp giới lục đạo chúng sinh. Ai cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu tam muội được tam muội, cầu sống lâu được sống lâu. Như thế cho đến cầu đại niết bàn liền được đại niết bàn.
Nay đức Phật hỏi về viên thông, con từ môn nhĩ căn viên chiếu tam muội duyên tâm tự tại; nhân tướng nhập lưu được tam ma đề, thành tựu bồ đề nên theo con đó là thứ nhất.
Bạch đức Thế tôn, đức Phật Như Lai khen con khéo chứng pháp môn viên thông, ở trong hội lớn thọ ký cho con hiệu là Quán Thế Âm. Do con quán nghe thấu suốt mười phương, nên hiệu Quán Thế Âm biến khắp mười phương thế giới.
Lúc bấy giờ, đức Thế tôn ngự nơi tòa sư tử, từ năm vóc đều phóng hào quang báu chiếu đến đỉnh đầu mười phương Như Lai và chư Bồ tát Pháp vương tử nhiều như vi trần. Các đức Như Lai kia cũng ở năm vóc đều phóng hào quang báu, từ các thế giới nhiều như vi trần chiếu trở lại trên đảnh đức Phật, chư Đại Bồ tát, A la hán trong hội chúng. Rừng cây, ao hồ đều diễn pháp âm. Hào quang giao xen như lưới tơ báu. Đại chúng được điều chưa từng có, tất cả đều chứng được Kim cang tam muội.
Liền khi ấy, trời mưa rơi xuống hoa sen trăm báu, xanh vàng đỏ trắng đan xen lẫn nhau. Mười phương hư không hóa thành màu sắc bảy báu. Ở cõi Ta Bà núi sông đất liền đồng thời ẩn mất. Chỉ thấy các quốc độ như vi trần trong mười phương hợp thành một thế giới. Phạm âm lễ bái ca vịnh tự nhiên hòa tấu vang lên.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi : Tuyển chọn căn viên thông
Lúc đó, đức Như Lai bảo Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử rằng: Nay ông hãy xem trong 25 vị đại Bồ tát và A la hán vô học, mỗi vị đều trình bày phương tiện ban đầu để thành đạo. Họ đều nói về tu tập tính viên thông chân thật. Việc tu hành của các vị đó thật chẳng có chỗ nào hơn kém, trước sau khác nhau.
Nay Như Lai muốn khiến cho A Nan khai ngộ thì trong 25 hạnh tu đó, hạnh nào hợp với căn cơ A Nan? Và sau khi Như Lai diệt độ, chúng sinh trong cõi nầy muốn thể nhập Bồ tát thừa cầu đạo vô thượng, bằng phương tiện gì dễ dàng thành tựu?
Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử vâng lời dạy của đức Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ sát chân Phật. Nương oai thần của Phật, mà nói kệ rằng:
Biển giác tánh viên mãn
Vốn trong lặng nhiệm mầu
Do minh chiếu sanh “sở”
“Sở” lập, mất tánh minh.
Mê vọng có hư không
Nương không, thành thế giới
Tưởng lắng thành quốc độ
Tri giác và chúng sinh.
Hư không trong Đại giác
Như bọt biển nổi lên
Hữu lậu như vi trần
Đều nương hư không sanh.
Bọt tan, không vốn không
Huống nữa là ba cõi.
Về nguồn, tánh không hai
Phương tiện có nhiều đường
Tánh giác vốn dung thông
Thuận nghịch đều phương tiện
Sơ tâm vào tam muội
Mau chậm chẳng đồng nhau.
Sắc, tưởng kết thành trần.
Thể tánh không thông suốt
Sao từ không thông suốt
Mong được tính viên thông?
Âm thanh, với ngôn ngữ,
Đều nương theo câu chữ
Một, không bao (gồm) tất cả
Sao tu chứng viên thông?
Hương, lúc hợp mới biết
Rời ra vốn chẳng có
Sở giác không thường hữu
Sao tu chứng viên thông?
Vị, tánh phi bản nhiên
Phải nếm vị mới có
Sở giác không tương tục
Sao tu chứng viên thông?
Xúc, vật chạm mới biết
Không chạm chẳng biết xúc
Hợp ly tánh chẳng định
Sao tu chứng viên thông?
Pháp, gọi là nội trần
Nương trần, tất có sở
Năng sở chẳng biến nhập
Sao tu chứng viên thông?
Tánh thấy tuy rỗng rang
Thấy trước không thấy sau
Bốn phía thấy một nửa
Sao tu chứng viên thông?
Mũi thở ra thở vào
Khoảng giữa, không có thở
Cách trở không dung thông
Sao tu chứng viên thông?
Lưỡi, không vị chẳng biết
Nhân vị, sinh hay biết
Không vị, rốt chẳng có
Sao tu chứng viên thông?
Thân biết, đồng cảnh xúc
Cả hai không cùng khắp
Hạn lượng không xác định
Sao tu chứng viên thông?
Ý căn thường tạp loạn
Khi dừng thì chẳng biết
Nếu không thoát tưởng niệm
Sao tu chứng viên thông?
Nhãn thức nhờ căn trần
Xét tột không tự tướng
Tự thể vốn không định
Sao tu chứng viên thông?
Tâm nghe cả mười phương
Do lực đại nhân duyên
Sơ tâm không thể nhập
Sao tu chứng viên thông?
Quán mũi, quyền phương tiện
Nhằm nhiếp tâm an trụ
Trụ thành tâm sở trụ
Sao tu chứng viên thông?
Thuyết pháp đùa âm văn
Khai ngộ người có chủng
Danh cú chẳng vô lậu
Sao tu chứng viên thông?
Giữ giới câu thúc thân
Không thân không chỗ thúc
Giới, thân không biến khắp
Sao tu chứng viên thông?
Thần thông vốn nhân trước
Chẳng do pháp phân biệt
Niệm duyên chẳng rời vật
Sao tu chứng viên thông?
Khi quán tánh của đất
Vốn chướng ngại không thông
Hữu vi không tánh giác
Sao tu chứng viên thông?
Khi quán tánh của nước
Tưởng niệm chẳng phải chơn
Như như chẳng giác quán
Sao tu chứng viên thông?
Nếu quán tánh hỏa đại
Chán khổ chẳng chân ly
Phi phương tiện sơ tâm
Sao tu chứng viên thông?
Nếu quán tánh phong đại
Động tĩnh không đối đãi
Đối phi vô thượng giác
Sao tu chứng viên thông?
Nếu quán tánh không đại
Vô tri chẳng hay biết
Vô giác khác bồ đề
Sao tu chứng viên thông?
Nếu quán tánh thức đại
Thức sanh diệt chẳng trụ
Bận tâm trong hư vọng
Sao tu chứng viên thông?
Các hành là vô thường
Tánh niệm không sanh diệt
Nhân quả giờ sai khác
Sao tu chứng viên thông?
Nay con bạch Thế tôn!
Đức Phật cõi Ta Bà
Chơn giáo thể cõi này
Thanh tịnh nhờ nói nghe
Muốn chứng tam ma đề
Dùng tánh nghe mà vào.
Rời khổ, được giải thoát
Hay thay Quán Thế Âm!
Trong số kiếp hằng sa
Vào vi trần cõi Phật
Được sức đại tự tại
Thí vô úy chúng sanh.
Diệu âm Quán Thế Âm
Phạm âm hải triều âm
Cứu thế gian an lành
Xuất thế, được thường trụ.
Con nay bạch Như Lai
Như Quán Âm diễn thuyết
Ví như người tĩnh cư
Mười phương đều đánh trống
Mười xứ cùng lúc nghe
Đó hoàn toàn chân thật.
Mắt không thấy ngoại chướng
Miệng mũi cũng như vậy
Thân khi hợp mới biết
Ý niệm không manh mối.
Cách tường vẫn nghe tiếng
Xa gần đều nghe được
Năm căn sánh không bằng
Thế mới chân thật thông.
Âm thanh tánh động tĩnh
Trong tánh nghe có, không
Không tiếng gọi không nghe
Chẳng thật nghe tánh nghe.
Không tiếng tánh không diệt
Có tiếng tánh chẳng sanh
Lìa hẳn niệm sanh diệt
Ấy là thường chân thật.
Dù đang lúc mộng tưởng
Không nghĩ, tánh chẳng mất
Giác quán vượt suy nghĩ
Thân ý không so kịp.
Hiện tại cõi Ta Bà
Thanh luận được xiển dương
Chúng sanh bỏ tánh nghe
Theo trần nên luân chuyển
A Nan tuy nhớ giỏi
Không khỏi mắc nạn tà
Ấy tùy chỗ chìm đắm
Ngược dòng thoát hư vọng.
A Nan hãy nghe kỹ
Tôi nương oai lực Phật
Tuyên thuyết kim cang vương
Như huyễn bất tư nghì
Chánh định mẹ chư Phật.
Ông nghe vô số Phật
Tất cả pháp bí mật
Dục lậu không trừ trước
Nghe nhiều thành lầm lỗi.
Đem nghe trì Phật pháp
Sao không nghe tánh nghe?
Tánh nghe chẳng tự sanh
Do tiếng có tên gọi
Xoay nghe thoát thanh trần
Vượt thoát ấy tên gì?
Một căn đã về nguồn
Sáu căn thành giải thoát.
Thấy nghe như nhặm mắt
Ba cõi như không hoa
Xoay nghe, bịnh căn trừ
Trần tiêu, giác thanh tịnh.
Sáng tột cùng thông suốt
Tịch chiếu khắp hư không
Trở lại quán thế gian
Giống như việc trong mộng
Ma Đăng Già là mộng
Thì ai bắt được ông?
Như các huyễn sư giỏi
Tạo ra hình nam nữ
Tuy thấy căn cử động
Đều do bộ máy giật
Máy dừng về yên lặng
Trò huyễn thành vô tánh.
Sáu căn cũng như vậy
Nương một tánh sáng suốt
Phân thành sáu hòa hợp
Một thứ đã quay về
Sáu kia không tác dụng
Trần cấu một niệm tiêu
Thành viên minh tịnh diệu.
Còn trần là hữu học
Sáng tột tức Như Lai.
A Nan và đại chúng
Hãy xoay tánh điên đảo
Trở lại nghe tự tánh
Nghe xong thành vô thượng
Như vậy thật viên thông.
Đây là một con đường
Chư Phật vào niết bàn
Như Lai trong quá khứ
Bồ tát ở hiện tại
Đều thể nhập viên minh
Người tương lai tu học
Nên y theo pháp này
Con cũng chứng từ ấy
Chẳng riêng Quán Thế Âm.
Thật như lời Thế tôn
Hỏi con các phương tiện
Để cứu đời mạt pháp
Người cầu xuất thế gian
Thành tựu tâm niết bàn
Quán Thế Âm đệ nhất.
Còn các phương tiện khác
Đều là oai lực Phật
Ngay việc, xả trần lao
Chẳng phải trường tu học
Sâu cạn đồng thuyết pháp.
Đảnh lễ Như Lai tạng
Vô lậu bất tư nghì
Nguyện gia hộ vị lai
Không lầm pháp môn nầy
Đây phương tiện thành tựu
Đem dạy cho A Nan
Và mạt pháp trầm luân
Chỉ dùng nhĩ căn tu
Viên thông nhanh hơn cả
Tâm chân thật như vậy.
Lúc ấy A Nan và cả đại chúng, thân tâm rỗng rang, nhận được sự khai thị lớn lao. Thấy bồ đề và đại niết bàn của chư Phật giống như người nhân có việc phải đi xa chưa trở về được. Nay đã biết rõ con đường về nhà.
Toàn thể pháp hội, chúng thiên long bát bộ, hàng Nhị thừa hữu học, cùng hết thảy hàng Bồ tát sơ phát tâm, số lượng có đến 10 số cát sông Hằng, đều nhận ra bản tâm, lìa xa trần tướng, được pháp nhãn thanh tịnh.
Tánh tỳ kheo ni nghe nói bài kệ này xong liền chứng quả A La Hán. Vô lượng chúng sanh đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
TAM VÔ LẬU HỌC
A Nan chỉnh trang pháp phục, hướng vào đại chúng, chắp tay đảnh lễ. Tâm tính hoàn toàn sáng suốt, vừa mừng vừa tủi. Vì muốn lợi ích cho các chúng sinh đời vị lai nên cúi đầu bạch Phật:
Thế tôn đại bi, con nay đã ngộ pháp môn thành Phật. Theo trong đó tu hành, được điều không con nghi hoặc. Con thường nghe Như Lai dạy rằng: Tự mình chưa được độ mà độ người trước, đó là sự phát tâm của hàng Bồ tát. Tự mình đã giác ngộ viên mãn, có thể giác ngộ cho người khác, đó là sự ứng thế của các đức Như Lai. Con tuy chưa được độ nhưng nguyện độ cho tất cả chúng sinh trong đời mạt pháp.
Bạch đức Thế tôn, các chúng sinh nầy cách Phật ngày càng xa. Những tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng. Nếu muốn họ nhiếp tâm vào tam ma địa, làm sao khiến họ dựng lập đạo tràng để khỏi rơi vào ma sự, không thối mất tâm bồ đề?
Lúc bấy giờ, đức Thế tôn ở trong đại chúng, khen ngợi A Nan: Lành thay! Lành thay! Như điều ông hỏi về dựng lập đạo tràng để cứu giúp chúng sinh chìm đắm trong đời mạt pháp. Nay ông hãy lắng nghe cho kỹ, Như Lai sẽ nói cho ông biết. A Nan và đại chúng kính vâng lời Phật dạy.
Phật bảo A Nan: Ông thường nghe trong giới luật của Như Lai giảng bày ba nghĩa quyết định của việc tu hành. Thu nhiếp tâm ý gọi là giới, nhân giới sinh định, nhân định phát huệ. Đó gọi là ba môn học vô lậu.
TỨ CHỦNG THANH TỊNH MINH HỐI
A Nan, vì sao thu nhiếp tâm niệm, Như Lai gọi là giới? Nếu các chúng sinh trong thế giới lục đạo tâm không dâm dục thì sẽ không bị tương tục trong sinh tử.
Ông tu tam muội, cốt để thoát khỏi trần lao. Nếu không trừ lòng dâm thì không thể ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí và thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ tâm dâm thì quyết chắc lạc vào ma đạo. Hạng trên thành ma vương, hạng giữa thành ma dân, hạng dưới thành ma nữ. Các loài ma kia cũng có đồ chúng. Đều tự xưng đã thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ, có nhiều loại ma dân nầy náo loạn đầy dẫy trong thế gian. Chúng gây nhiều việc tham dâm nhưng xưng là thiện tri thức, khiến cho chúng sinh rơi vào hầm sâu ái kiến, lạc mất đường giác ngộ.
Ông dạy người đời tu tam ma địa, trước hết phải đoạn trừ tâm dâm. Đó là lời dạy bảo thanh tịnh, quyết định thứ nhất của các đức Phật Thế Tôn Như Lai trong đời trước.
Thế nên A Nan, nếu không đoạn tâm dâm mà tu thiền định, cũng như nấu cát mà mong thành cơm. Trải qua trăm ngàn kiếp cũng chỉ làm nóng cát. Vì sao vậy? Vì đó chẳng phải là bản nhân của cơm mà là cát đá.
Ông đem thân dâm dục cầu diệu quả chư Phật, dù được diệu ngộ cũng chỉ là gốc dâm. Cội gốc đã thành dâm thì phải trôi lăn trong tam đồ, quyết chắc không thể ra khỏi được. Còn đường nào để tu chứng niết bàn của Như Lai? Quyết phải khiến cho thân tâm đều đoạn trừ hết căn dâm. Tánh đoạn cũng trừ mới mong chứng quả bồ đề của chư Phật.
Như lời Như Lai nói đây chính là lời chư Phật đã nói. Nếu không phải như vậy tức là lời ma ba tuần nói.
Lại nữa A Nan, nếu chúng sinh trong sáu cõi khắp các thế giới không có tâm sát hại, ắt sẽ không tương tục theo dòng sanh tử.
Ông tu tam muội, cốt để ra khỏi trần lao. Tâm sát hại không trừ thì không thể nào ra khỏi trần lao được. Dù hiện tiền có nhiều trí tuệ thiền định, nhưng nếu như không đoạn trừ tâm sát hại, ắt rơi vào thần đạo. Bậc cao thì làm quỷ đại lực. Bậc trung thì làm quỷ phi hành dạ xoa và các loài quỷ soái… Bậc thấp thì làm quỷ địa hành la sát. Các loài quỷ thần ấy cũng có đồ chúng. Chúng đều tự cho rằng mình đã thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ, trong thời mạt pháp, nhiều loại quỷ thần nầy náo loạn thế gian. Chúng tự tuyên bố ăn thịt sẽ chứng được đạo bồ đề. A Nan, Như Lai cho phép hàng tỳ kheo ăn năm loại tịnh nhục. Thịt ấy đều do thần lực của Như Lai hóa ra, vốn chúng không có mạng căn. Xứ Bà la môn của các ông, đất đai phần nhiều ẩm thấp và nóng, lại thêm cát đá, rau cỏ không sinh được. Như Lai dùng thần lực từ bi gia hộ. Do tâm đại từ bi giả gọi là thịt. Các ông cũng nhận được vị như thịt. Cớ sao sau khi Như Lai diệt độ, những người ăn thịt chúng sinh lại xưng là Thích tử?
Các ông nên biết những người ăn thịt đó, dù tâm được khai ngộ, giống như tam ma đề nhưng đều là đại la sát. Khi quả báo hết, tất phải chìm đắm trong biển khổ sinh tử. Họ chẳng phải đệ tử Phật. Những người ấy giết hại, thôn tính lẫn nhau, ăn nuốt nhau không thôi. Những người như vậy làm sao ra khỏi ba cõi?
Ông dạy người đời tu pháp tam ma địa, phải đoạn trừ sát sanh. Đó là lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh quyết định thứ hai của các đức Phật Thế Tôn Như Lai trong đời trước.
Thế nên A Nan, nếu không đoạn trừ việc sát hại mà tu thiền định, ví như có người tự bịt tai mình rồi kêu lớn tiếng mà mong mọi người chẳng nghe. Loại người nầy gọi là muốn dấu nhưng càng lộ ra.
Tỳ kheo thanh tịnh và các vị Bồ tát khi đi trên đường còn không đạp cỏ non, huống là dùng tay nhổ. Tại sao thực hành tâm đại bi mà lại lấy máu thịt chúng sinh làm thức ăn?
Nếu các tỳ kheo không mặc tơ lụa mịn màng của phương đông và không dùng giày dép, áo cừu, áo len, hay các thứ sữa, lạc, đề hồ, những tỳ kheo ấy thật là chân giải thoát trong pháp thế gian. Trả hết nợ cũ xong sẽ không vào trong ba cõi nữa.
Tại sao vậy? Bởi vì dùng những bộ phận thân thể chúng sinh nên đều có duyên với chúng. Như con ăn trăm giống ngũ cốc trong đất nên chân không rời đất. Dứt khoát thân tâm mình đối với thân thể hay chi phần của chúng sinh, quyết không dùng, không ăn, không mặc. Như Lai nói người đó là chân là giải thoát.
Như lời Như Lai nói đây chính là lời chư Phật đã nói. Nếu không phải như vậy, tức là lời ma Ba tuần nói.
Lại nữa A Nan, nếu như chúng sinh trong thế giới lục đạo, tâm không trộm cắp thì họ sẽ không bị tương tục trong dòng sinh tử.
Ông tu tam muội, cốt để ra khỏi trần lao. Tâm trộm cắp không trừ thì không thể nào ra khỏi trần lao được. Dù hiện tiền có nhiều trí thiền định, nhưng nếu không đoạn trừ tâm trộm cắp, ắt phải rơi vào tà đạo. Hạng trên thành tinh linh, hạng trung thành yêu mị, hạng dưới thành người tà đạo, bị những yêu mị gá vào. Các nhóm tà đạo kia cũng có đồ chúng. Họ đều tự xưng đã thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ, trong thời mạt pháp, có nhiều loại yêu ma tà đạo ấy nổi loạn trong thế gian, lén lút gian dối xưng là thiện tri thức. Họ đều tự xưng đã được pháp thượng nhân. Dối gạt kẻ không biết, dọa dẫm khiến họ mất lòng tin. Chúng đi đến đâu, gia đình người ta đều bị hao tán.
Như Lai dạy tỳ kheo theo thứ tự khất thực là khiến họ xả trừ lòng tham thành đạo bồ đề. Các tỳ kheo không tự nấu ăn, gửi thân sống nhờ như khách trọ trong ba cõi. Đó là một lần qua lại, đi rồi không trở lại nữa.
Tại sao bọn giặc ấy lại mượn y của Phật, buôn bán Như Lai, tạo vô số nghiệp, nói rằng đó đều là Phật pháp. Lại chê hàng xuất gia thọ giới tỳ kheo là đạo tiểu thừa. Do chúng làm cho vô lượng chúng sinh mắc phải nghi lầm nên đọa vào địa ngục vô gián.
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có tỳ kheo phát tâm quyết định tu tam ma đề, có thể trước hình tượng Như Lai, tự mình thắp một ngọn đèn, đốt một ngón tay, hay ở trên thân đốt một liều hương, Như Lai nói người nầy, nợ nần từ kiếp lâu xa, nay được trả hết trong một đời; xa lìa thế gian, vĩnh viễn thoát khỏi các lậu hoặc. Người ấy tuy chưa hiểu rõ đạo vô thượng giác nhưng đối với Phật pháp đã có tâm quyết định. Nếu không gieo nhân xả thân nhỏ bé này thì dù có thành đạo vô vi cũng phải sanh lại làm người, hoàn trả các nợ cũ như quả báo ăn lúa ngựa của Như Lai.
Ông dạy người đời tu pháp tam ma địa, sau dứt trừ tâm trộm cắp. Đó gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ ba của các đức Phật Như Lai Thế tôn trong quá khứ.
Cho nên A Nan, nếu không dứt trừ tâm trộm cắp mà tu thiền định, cũng như rót nước vào bình thủng mà mong cho đầy. Dù trải qua nhiều kiếp số như vi trần, rốt cục vẫn không đầy được.
Nếu các tỳ kheo ngoài y bát không tích trữ mảy may. Khất thực có dư thì bố thí cho chúng sinh đói. Nơi hội lớn đông người, chắp tay lễ bái đại chúng. Nếu có người đánh mắng, đồng như khen ngợi mình. Xem nhục xương máu của mình giống như thân của chúng sinh. Nếu không đem lời dạy bất liễu nghĩa của Như lai làm chỗ tỏ ngộ của mình khiến cho kẻ sơ học khỏi bị lầm lạc thì Phật ấn chứng người ấy chân thực được tam muội.
Như lời Như Lai nói đây tức là lời của chư Phật. Nếu không đúng như lời nói đó, tức ma Ba tuần nói.
A Nan, chúng sinh trong thế giới lục đạo như thế, tuy thân tâm không còn sát đạo dâm, ba hạnh đều đã viên mãn, nếu mắc đại vọng ngữ thì tam ma đề cũng không được thanh tịnh, sẽ giống ma ái kiến và làm mất chủng tử Như Lai.
Chưa được gọi là đã được, chưa chứng nói rằng đã chứng. Hoặc để mong cầu thế gian tôn trọng tột bậc mà bảo người khác rằng: Nay tôi đã đắc quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm, quả A na hàm, đạo A la hán, Bích chi Phật thừa, quả vị Bồ tát trong Thập địa hay trước Thập địa. Mong người kia lễ bái, tham được cúng dường. Những kẻ Nhất điên ca ấy tiêu diệt chủng tử Phật, như người dùng dao chặt cây đa la. Phật ấn ký người ấy mất hẳn thiện căn, không còn chánh tri kiến, chìm trong ba biển khổ, không thành tựu tam muội.
Như lai dạy hàng A la hán và Bồ tát, sau khi ta diệt độ các ông hãy ứng thân sinh trong đời mạt pháp, hiện ra nhiều hình tướng khác nhau để độ chúng sinh còn trong vòng luân chuyển. Hoặc làm sa môn, cư sĩ bạch y, vua chúa, quan lại, đồng nam, đồng nữ… như vậy cho đến làm dâm nữ, làm người quả phụ, người gian dối, trộm cắp, người hàng thịt, kẻ buôn bán… để cùng với họ đồng sự, xưng tán Phật thừa, khiến cho thân tâm họ nhập vào tam ma địa. Nhất định không tự bảo mình thật là Bồ tát, là A la hán, khinh xuất nói với người chưa học, tiết lộ mật nhân của Phật. Chỉ trừ khi đến lúc lâm chung, âm thầm có lời di chúc.
Tại sao thành tội đại vọng ngữ? Bởi những người ấy lừa gạt chúng sinh.
Ông dạy người đời tu tam ma địa, sau rốt phải đoạn trừ đại vọng ngữ. Đó là lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ tư của các đức Phật Thế Tôn Như Lai trong đời trước.
Thế nên A Nan, nếu không đoạn trừ lời đại vọng ngữ, như khắc phân người làm hình cây chiên đàn mà muốn được hương thơm, thật không có chuyện đó.
Như Lai dạy hàng tỳ kheo, lấy trực tâm làm đạo tràng. Trong các hành xử bốn uy nghi không được hư dối. Làm sao có kẻ tự xưng là đã được pháp thượng nhân?
Ví như người bần cùng tự xưng là đế vương, nên tự chuốc lấy sự tru diệt. Huống gì là ngôi vị pháp vương, sao dám xưng càn! Nhân đã không thật, quả ắt quanh co. Cầu đạo bồ đề của Phật, như người muốn cắn rốn, làm sao thành tựu được?
Nếu hàng tỳ kheo tâm thẳng như dây đàn, hành xử mọi việc chân thật, nhập vào tam ma đề, ắt hẳn không có ma sự. Như Lai ấn chứng cho người ấy thành tựu vô thựơng trí giác của Bồ tát.
Như lời ta nói đây, chính là lời chư Phật đã nói. Nếu không phải như vậy, tức là lời ma Ba tuần nói.
(hết quyển 6)