KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập - Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Viện Phật Học Phổ Hiền Xuất Bản PL. 2530 DL 1986 (Trọn bộ 3 tập)
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn hành P.L 2539 DL. 1995 (Trọn bộ 3 tập)
QUYỂN THỨ MƯỜI
PHẨM BỬU PHÁP ĐẠI MINH
THỨ BA MƯƠI HAI
Đức Phật nói với
Thiên Đế: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ nghe
Bát nhã ba la mật nầy rồi
thọ trì, thân cận,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm, chẳng rời tâm
nhứt thiết trí, lúc lâm trận, do tụng
Bát nhã ba la mật nên vào trong quân trận trọn chẳng
mất mạng, đao tên không hại. Tại sao vậy?
Thiện nam,
thiện nữ nầy
mãi mãi thật hành
sáu ba la mật, tự trừ đao tên
dâm dục của mình, cũng trừ đao tên
dâm dục của người khác, tự trừ đao tên
sân khuể của mình, cũng trừ đao tên
sân khuể của mình, cũng trừ đao tên
sân khuể của người khác, tự trừ đao tên
ngu si của mình, cũng trừ đao tên
ngu si của người khác, tự trừ đao tên
tà kiến của mình, cũng trừ đao tên
tà kiến của người, tự trừ đao tên triền cấu, cũng trừ đao tên triền cấu của người, tự trừ đao tên
kiết sử, cũng trừ đao tên
kiết sử của người.
Nầy Kiều Thi Ca! Do
nhơn duyên nầy, nên
thiện nam,
thiện nữ nầy chẳng bị đao tên làm hại.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ nghe
Bát nhã ba la mật nầy
thọ trì, thân cận,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm, chẳng rời tâm
nhứt thiết trí, tất cả những độc, cổ độc, hầm lửa, nước sâu, dao chém đều không làm hại được.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật nầy là
đại minh cchú, là
vô thượng chú.
Nếu
thiện nam,
thiện nữ học
đại minh chú nầy thời chẳng tự
não hại lấy thân mình, cũng chẳng
não hại người khác, cũng chẳng
não hại cả mình lẫn người.
Tại sao vậy? Vì
thiện nam,
thiện nữ nầy chẳng thấy có ngã, chẳng thấy có
chúng sanh, nhẫn đến
tri giả,
kiến giả đều
bất khả đắc. Chẳng thấy có sắc, nhẫn đến chẳng thấy có nhứt thiết
chủng trí.
Vì chẳng thấy có, nên chẳng tự
não hại thân mình, chẳng
não hại người khác, cũng chẳng
não hại lẫn mình cả người.
Vì học
đại minh chú nầy nên được
Vô thượng Bồ đề,
quán tâm của tất cả
chúng sanh mà
tùy ý thuyết pháp.
Tại sao vậy? Vì
quá khứ chư
Phật học đại minh chú nầy đã được
Vô thượng Bồ đề,
vị lai chư
Phật học đại minh chú nầy sẽ được
Vô thượng Bồ đề,
hiện tại chư
Phật học đại minh chú nầy được
Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu có người chỉ biên chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật nầy mà thờ nơi nhà, chớ không
thọ trì, không
đọc tụng, chẳng
giảng thuyết, chẳng chánh
ức niệm, tất cả hành Nhơn,
Phi Nhơn không thể
phá hoại chỗ đó được.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật nầy được tất cả
chư Thiên Vương, chư
Phạm Vương cùng
chư Thiên trong
Đại Thiên thế giới và trong
vô số vô lượng thế giới mười phương đồng
ủng hộ.
Chỗ thờ
Bát nhã ba la mật nầy,
chư Thiên đều đến
cúng dường,
kính trọng, lễ lại rồi đi.
Chỉ có biên chép
Bát nhã ba la mật để thờ tại nhà, mà
thiện nam,
thiện nữ ấy còn được
công đức hiện đời như vậy.
Ví như hoặc có người hoặc có
súc vật đến dưới
cây bồ đề, thời hàng Nhơn,
Phi Nhơn mang
ác ý đến không làm hại được.
Tại sao vậy? Vì chỗ
cây bồ đề nầy là nơi mà
quá khứ chư Phật được
Vô thượng Bồ đề,
vị lai chư Phật và
hiện tại chư Phật cũng ở nơi đó mà được
Vô thượng Bồ đề. Khi được
thành Phật rồi, đều
bố thí sự
không kinh sợ cho tất cả
chúng sanh, làm cho
vô lượng vô số chúng sanh được phước lạc trong Người
trên Trời, cũng làm cho
vô lượng vô số chúng sanh được quả
Tu Đà Hoàn đến quả
Vô thượng Bồ đề.
Do oai lực của
Bát nhã ba la mật, nên chỗ ấy được sự
cung kính,
lễ bái, cúng dường”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ biên chép
cúng dường Bát nhã ba la mật, hoặc có
thiện nam,
thiện nữ sau khi
đức Phật nhập diệt xây tháp
cúng dường Xá Lợi, hai người nầy ai được phước nhiều?”
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Ta hỏi lại Ngài,
tùy ý Ngài đáp.
Do
học đạo gì mà Phật được
Vô thượng Bồ đề thân tướng hảo nầy?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Do học trong
Bát nhã ba la mật mà
đức Phật được
Vô thượng Bồ đề cùng
thân tướng hảo trang nghiêm”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy! Nầy Kiều Thi Ca!
Đức Phật từ trong
Bát nhã ba la mật mà học được nhứt thiết
chủng trí.
Nầy Kiều Thi Ca! Chẳng phải do
thân tướng hảo mà gọi là Phật. Chính là do được nhứt thiết
chủng trí nên gọi là Phật.
Nầy Kiều Thi Ca! Nhứt thiết
chủng trí của Phật sanh từ trong
Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Thân của Phật đây là chỗ
sở y của nhứt thiết
chủng trí. Nhơn nơi thân nầy mà Phật được nhứt thiết
chủng trí. Nên nghĩ rằng thân của
đức Phật đây là chỗ
sở y của nhứt thiết
chủng trí. Vì thế nên sau khi Phật
nhập Niết Bàn,
Xá Lợi sẽ được
cúng dường.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu
thiện nam,
thiện nữ nghe
Bát nhã ba la mật nầy rồi biên chép,
thọ trì,
đọc tụng, chánh
ức niệm,
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
tán thán, thời tức là
cúng dường nhứt thiết
chủng trí.
Do cớ nầy nên
thiện nam,
thiện nữ nên biên chép
Bát nhã ba la mật nầy, rồi hoặc
thọ trì, thân cận,
đọc tụng, chánh
ức niệm,
kính trọng,
cúng dường,
tán thán.
Sau khi
đức Phật nhập Niết Bàn, nếu có
thiện nam,
thiện nữ xây tháp
cúng dường Xá Lợi,
kính lễ,
tán thán.
Lại có
thiện nam,
thiện nữ biên chép,
thọ trì Bát nhã ba la mật nầy mà kính thọ,
cúng dường,
tán thán, thời được phước rất nhiều.
Tại sao vậy? Vì trong
Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, xuất sanh
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng, xuất sanh tất cả
tam muội, tất cả
thiền định, tất cả
đà la ni.
Thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ đều
xuất phát từ trong
Bát nhã ba la mật nầy.
Bồ Tát thành tựu tất cả
công hạnh cũng từ trong
Bát nhã ba la mật nầy. Tất cả
phước quả của
loài Người cùng
cõi Trời đến
Sắc Cứu Cánh Thiên đều từ
Bát nhã ba la mật nấy sanh. Những
Thánh quả từ
Tu Đà Hoàn đến chư Phật và nhứt thiết
chủng trí của chư Phật đều từ trong
Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người
Diêm Phù Đề chẳng
cúng dường,
tán thán Bát nhã ba la mật,
phải chăng vì họ chẳng biết
cúng dường thời được nhiều lợi ích?”
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Trong
Diêm Phù Đề, đối với Phật, Pháp và Tăng có bao nhiêu người có
lòng tin bất hoại? Có bao nhiêu người không nghi? Có bao nhiêu người quyết liễu?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Đối với Phật, Pháp và Tăng, trong
Diêm Phù Đề ít người có
lòng tin bất hoại, cũng ít người không nghi và quyết liễu”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Trong
Diêm Phù Đề, có bao nhiêu người được
ba mươi bảy phẩm trợ đạo,
ba môn giải thoát, tám bội xả, chín
thứ đệ định, bốn trí
vô ngại, sáu thần thông?
Trong
Diêm Phù Đề có bao nhiêu người dứt ba
kiết sử, được đạo
Tu Đà Hoàn? Bao nhiêu người dứt ba
kiết sử cũng mõng tham, sân, si, được đạo Tư Đà Hàm? Bao nhiêu người dứt năm hạ phần kiết, được đạo
A Na Hàm? Bao nhiêu người dứt năm hạ phần kiết, được đạo A La Hán? Bao nhiêu người
cầu đạo Bích Chi Phật? Bao nhiêu người
phát tâm Vô thượng Bồ đề?”
Thiên Đế thưa: “Trong
Diêm Phù Đề, ít người được
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhẫn đến ít người
phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca! Trong
Diêm Phù Đề ít người đối với Phật,
Pháp Tăng có
lòng tin bất hoại, không nghi và
quyết liễu. Cũng ít người được
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhẫn đến ít người
phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Trong những người
phát tâm nầy lại ít người thật hành
Bồ Tát hạnh.
Tại sao vậy? Vì những
chúng sanh trong
Diêm Phù Đề, đời trước của họ chẳng thấy Phật, chẳng
nghe Pháp, chẳng
cúng dường Tỳ Kheo Tăng, chẳng
bố thí, chẳng
trì giới, chẳng
nhẫn nhục, chẳng tin tấn, chẳng
thiền định, chẳng
trí tuệ, chẳng nghe
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, chẳng nghe, chẳng tu
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp, chẳng nghe, chẳng tu những môn
tam muội, những môn
đà la ni, cũng chẳng tu nhứt thiết
chủng trí.
Do cớ trên đây nên ít
chúng sanh tin
bất hoại nơi
Tam Bảo, nhẫn đến ít người
phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Trong những người
phát tâm lại ít người thật hành
Bồ Tát đạo.
Trong những người thật hành
Bồ Tát đạo lại ít người được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Kiều Thi Ca! Ta dùng
Phật nhãn thấy trong những
thế giới phương Đông có
vô lượng vô số chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, thật hành
Bồ Tát đạo, nhưng vì
xa lìa sức
phương tiện Bát nhã ba la mật nên có rất ít người được an trụ bực
bất thối chuyển, còn phần nhiều thời sa vào hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Trong chín phương kia cũng như vậy.
Vì thế nên
thiện nam,
thiện nữ phát tâm cầu
Vô thượng Bồ đề phải nghe
Bát nhã ba la mật và phải
thọ trì, thân cận,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm. Xong rồi lại phải biên chép,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán và
cúng dường Bát nhã ba la mật.
Những
thiện pháp khác vào trong
Bát nhã ba la mật cũng phải nghe,
thọ trì nhẫn đến
cúng dường. Những gì là
thiện pháp khác? Chính là
Đàn na ba la mật đến
Thiền na ba la mật,
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, những
tam muội môn, đàn la ni môn,
tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp,
đại từ đại bi.
Vô lượng thiện pháp như vậy đều vào trong
Bát nhã ba la mật cũng phải nghe,
thọ trì nhẫn đến chánh
ức niệm và
tán thán,
cúng dường.
Thiện nam,
thiện nữ phải nghĩ rằng lúc làm
Bồ Tát,
đức Phật học và thật
hành Bát nhã
ba la mật cùng
vô lượng thiện pháp cũng như vậy.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật cùng
vô lượng thiện pháp là chỗ tôn quý của tôi, là
pháp ấn của chư Phật, cũng là
pháp ấn của
Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Chư Phật do học
Bát nhã ba la mật nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí mà được đến
bỉ ngạn.
Chư
Bích Chi Phật và
Thanh Văn cũng học
Bát nhã ba la mật nhẫn đến
nhứt thiết trí mà đến
bỉ ngạn.
Nầy Kiều Thi Ca! Thế nên
thiện nam,
thiện nữ, lúc Phật còn
tại thế hoặc sau khi Phật
nhập Niết Bàn, phải
y chỉ Bát nhã ba la mật,
Thiền na ba la mật,
Nhẫn nhục ba la mật, Thi na
ba la mật,
Đàn na ba la mật, nhẫn đến phải
y chỉ nhứt thiết
chủng trí.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí là chỗ mà chư
Thanh Văn,
Bích Chi Phật,
Bồ Tát, chư Phật và tất cả
thế gian, Trời, Người,
A tu la đều đáng
y chỉ nơi đó.
Sau khi Phật
nhập Niết Bàn, nếu
thiện nam,
thiện nữ, vì
cúng dường Phật mà xây tháp
bảy báu cao một
do tuần, dùng hoa hương,
an lạc, phan cái,
kỹ nhạc cõi Trời để
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán.
Nầy Kiều Thi Ca! Do
nhơn duyên nầy,
thiện nam,
thiện nữ ấy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế nói: “Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều, rất nhiều!”
Đức Phật nói: “Nhưng vẫn không bằng phước của
thiện nam,
thiện nữ nghe
Bát nhã ba la mật nầy và biên chép,
thọ trì, thân cận,
đọc tụng, chánh
ức niệm, chẳng rời tâm
tát bà nhã, cùng
cung kính,
tôn trọng,
tán thán,
cúng dường.
Nầy Kiều Thi Ca! Chẳng luận một tháp
bảy báu. Sau khi Phật
nhập Niết Bàn, vì
cúng dường Phật nên
thiện nam,
thiện nữ xây tháp
bảy báu khắp
Diêm Phù Đề cũng đều cao một
do tuần, dùng hoa hương,
anh lạc, phan cái,
kỹ nhạc cõi Trời để
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán.
Thiện nam,
thiện nữ ấy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Phước của
thiện nam,
thiện nữ ấy rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nhưng vẫn chẳng bằng phước của
thiện nam,
thiện nữ nghe
Bát nhã ba la mật nhẫn đến
cúng dường,
kính trọng,
tán thán.
Nầy Kiều Thi Ca! Chẳng luận xây tháp khắp một
Diêm Phù Đề. Sau khi Phật
nhập Niết Bàn,
thiện nam,
thiện nữ vì
cúng dường Phật nên xây tháp
bảy báu đều cao một
do tuần khắp bốn châu
thiên hạ.
Thiện nam,
thiện nữ nầy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nhưng vẫn chẳng bằng phước của
thiện nam,
thiện nữ biên chép đến
cúng dường Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Lại chẳng luận xây tháp
bảy báu khắp bốn châu
thiên hạ.
Sau khi Phật
nhập Niết Bàn,
thiện nam,
thiện nữ vì
cúng dường Phật nên xây tháp
bảy báu đều cao một
do tuần khắp
Tiểu Thiên thế giới.
Thiện nam,
thiện nữ nầy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nhưng vẫn chẳng bằng phước của
thiện nam,
thiện nữ biên chép đến
cúng dường Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Lại chẳng luận xây tháp
bảy báu khắp
Tiểu Thiên thế giới.
Sau khi Phật
nhập Niết Bàn,
thiện nam,
thiện nữ vì
cúng dường Phật nên xây tháp
bảy báu đều cao một
do tuần khắp
Trung Thiên thế giới.
Thiện nam,
thiện nữ nầy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nhưng vẫn chưa nhiều bằng phước của
thiện nam,
thiện nữ cúng dường Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Lại chẳng luận xây tháp
bảy báu đầy
Trung Thiên thế giới.
Sau khi Phật
nhập Niết Bàn,
thiện nam,
thiện nữ vì
cúng dường Phật nên xây tháp
bảy báu đều cao một
do tuần khắp
Đại Thiên thế giới, rồi
cúng dường trọn đời.
Thiện nam,
thiện nữ nầy phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều, rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nhưng vẫn chẳng bằng phước của
thiện nam,
thiện nữ biên chép
Bát nhã ba la mật nầy, rồi
thọ trì,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán,
cúng dường.
Nầy Kiều Thi Ca! Lại chẳng luận xây tháp
bảy báu đầy
Đại Thiên thế giới.
Sau khi Phật
nhập Niết Bàn, vì
cúng dường Phật nên mỗi mỗi
chúng sanh trong
Đại Thiên thế giới đều xây tháp
bảy báu và đều
cúng dường trọn đời, vẫn chẳng bằng phước của
thiện nam,
thiện nữ biên chép,
thọ trì Bát nhã ba la mật nhẫn đến chánh
ức niệm, chẳng rời tâm
nhứt thiết trí, và cũng
cung kính,
tôn trọng,
tán thán, cúng dường”.
Thích Đề Hoàn Nhơn thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Đúng như vậy, nếu có ai
cúng dường,
tôn trọng,
tán thán Bát nhã ba la mật nầy, thời là
cúng dường chư Phật
quá khứ,
vị lai,
hiện tại.
Bạch đức Thế Tôn! Sau khi Phật
nhập Niết Bàn, nếu mỗi mỗi
chúng sanh trong
hằng sa quốc độ mười phương, vì
cúng dường đức Phật nên xây tháp
bảy báu cao một
do tuần, rồi
cúng dường bửu tháp, hoặc một kiếp hoặc dưới một kiếp.
Bạch đức Thế Tôn! Những người
cúng dường như vậy, có được phước nhiều chăng?”
Đức Phật nói: “Rất nhiều”.
Thiên Đế thưa: “Nếu có
thiện nam,
thiện nữ biên chép
Bát nhã ba la mật nầy nhẫn đến chánh
ức niệm,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán và
cúng dường thời được phước lại nhiều lới hơn. Tại sao vậy? Vì tất cả pháp lành đều nhập vào trong
Bát nhã ba la mật. Như là những pháp lành
thập thiện đạo,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
ba mươi bảy phẩm trợ đạo,
ba môn giải thoát,
tứ đế, sáu
thần thông, tám bội xả, chín thứ đề định,
sáu ba la mật, mười tám không, những
tam muội môn, những
đà la ni môn,
mười trí lực, bốn
vô sở úy,
bốn vô ngại trí,
đại từ đại bi, mười
tám pháp bất cộng,
nhứt thiết trí,
đạo chủng trí, nhứt thiết
chủng trí.
Bạch đức Thế Tôn! Đây gọi là
pháp ấn của tất cả chư Phật. Trong pháp nầy, tất cả
Thanh Văn,
Bích Chi Phật và
tam thế chư Phật do học pháp nầy mà được đến bỉ ngạn”.
PHẨM THUẬT HÀNH
THỨ BA MƯƠI BA
Bấy giời
đức Phật bảo
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca! Các
thiện nam,
thiện nữ biên chép
Bát nhã ba la mật nầy, và học tập,
thọ trì,
đọc tụng, thân cận,
giảng thuyết, chánh
ức niệm, lại thêm dùng hoa hương,
chuỗi ngọc, phan cái,
kỹ nhạc cúng dường, sẽ được
vô số vô lượng bất khả tư nghì,
bất khả xưng lượng
vô biên phước đức.
Tại sao vậy?
Vì
nhứt thiết trí và nhứt thiết
chủng trí của chư Phật đều từ trong
Bát nhã ba la mật nầy sanh.
Vì
Thiền na ba la mật đến
Đàn na ba la mật của chư
Bồ Tát đều từ trong
Bát Nhã mà sanh.
Vì
nội không đến
vô pháp hữu pháp không đều từ trong
Bát nhã ba la mật mà sanh.
Vì
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng và
ngũ nhãn của Phật đều từ trong
Bát nhã ba la mật mà sanh.
Vì
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ,
đạo chủng trí, nhứt thiết
chủng trí, tất cả
Phật pháp,
Thanh Văn thừa,
Bích Chi Phật thừa và
Phật thừa đều trong
Bát nhã ba la mật mà sanh.
Nầy Kiều Thi Ca! Thế nên
phước đức biên chép đến
cúng dường Bát nhã ba la mật nầy hơn
phước đức cúng dường bửu tháp trước kia, trăm ngàn
muôn phần chẳng bằng một phần, nhẫn đến toán số
thí dụ đều chẳng bằng được.
Tại sao vậy?
Vì nếu
Bát nhã ba la mật tồn tại thế gian, thời
Phật bảo,
Pháp bảo và
Tỳ Kheo Tăng bảo trọn chẳng
đoạn tuyệt.
Vì nếu
Bát nhã ba la mật tồn tại thế gian, thời
thập thiện đạo,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định,
lục ba la mật,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng,
nhứt thiết trí, nhứt thiết
chủng trí đều
hiện ra nơi đời.
Vì nếu
Bát nhã ba la mật tồn tại thế gian, thời có những đại tộc,
trưởng giả,
cư sĩ, trời
Tứ Thiên Vương đến
trời Sắc Cứu Cánh, quả
Tu Đà Hoàn đến quả
A La Hán, đạo
Bích Chi Phật, đạo
Bồ Tát,
đạo Phật vô thượng,
chuyển pháp luân,
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ”.
PHẨM KHUYẾN TRÌ
THỨ BA MƯƠI BỐN
Bấy giờ cả
Đại Thiên thế giới có bao nhiêu hàng
Tứ Thiên Vương đến
Sắc Cứu Cánh Thiên bảo
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn và
chư Thiên rằng: “Các Ngài phải thọ, phải trì, phải thân cận, phải
đọc tụng, phải
giảng thuyết, phải chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật nầy.
Tại sao vậy?
Vì
thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật nầy, thời tất cả pháp lành
tu tập sẽ được đầy đủ. Hàng
Thiên chúng thêm đông, hàng
A tu la giảm bớt.
Vì
thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật nầy, thời
Phật chủng chẳng dứt, Pháp chủng chẳng dứt, Tăng chủng chẳng dứt.
Vì
Phật chủng, Pháp chủng và Tăng chủng chẳng dứt, nên có
lục ba la mật,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng xuất hiện nơi đời, nên có quả
Tu Đà Hoàn đến
Phật quả xuất hiện nơi đời”.
Đức Phật bảo
Thiên Đế: “Nầy Kiều Thi Ca! Ngài nên
thọ trì,
đọc tụng, chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật nầy.
Tại sao vậy?
Nếu
A tu la sanh tâm muốn chiến đấu với
chư Thiên cõi
Đao Lợi, Ngài nên
tụng niệm Bát nhã ba la mật, tâm ác của
A tu la liền
tiêu diệt, chẳng còn muốn đấu chiến.
Nếu có
Thiên Tử hay
Thiên Nữ hiện năm tướng chết và sẽ sa vào loài chẳng
vừa ý, Ngài nên ở
trước mặt họ mà
đọc tụng Bát nhã ba la mật. Nhờ nghe
Bát nhã ba la mật, các
Thiên Tử,
Thiên Nữ ấy
tăng trưởng công đức nên được sanh
trở lại bổn xứ. Vì nghe
Bát nhã ba la mật thời được
lợi ích lớn.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ hay là
Thiên Tử,
Thiên Nữ nghe
Bát nhã ba la mật nầy, vì được
công đức nên lần lần sẽ được
Vô thượng Chánh giác.
Tại sao vậy?
Vì
quá khứ chư Phật và hàng
đệ tử đều học
Bát nhã ba la mật nầy mà được
Vô thượng Bồ đề, nhập
vô dư Niết Bàn.
Vị lai và
hiện tại chư Phật cùng hàng
đệ tử cũng đều học
Bát nhã ba la mật nầy mà được
Vô thượng Bồ đề, nhập
vô dư y Niết Bàn.
Nầy Kiều Thi Ca!
Bát nhã ba la mật nầy nhiếp tất cả pháp lành như là pháp
Thanh Văn,
pháp Bích Chi Phật, pháp
Bồ Tát và Phật pháp”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Bát nhã ba la mật là
đại minh chú, là
vô thượng minh chú, là
vô đẳng đẳng minh chú.
Tại sao vậy?
Vì
Bát nhã ba la mật nầy hay trừ tất cả pháp
bất thiện, hay cho tất cả pháp thiện”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca!
Bát nhã ba la mật là
đại minh chú, là
vô thượng minh chú, là
vô đẳng đẳng minh chú.
Tại sao vậy?
Vì
quá khứ,
vị lai,
hiện tại chư Phật đều nhơn
minh chú nầy mà được
Vô thượng Bồ đề.
Nhơn
minh chú nầy nên
thế gian có mười
nghiệp đạo lành, có
tứ thiền, có
vô lượng tâm,
tứ vô sắc định, có
Đàn na ba la mật đến pháp
bất cộng, có
pháp tánh,
pháp như,
pháp tướng,
pháp trụ,
pháp vị, thiệt tế, có
ngũ nhãn, quả
Tu Đà Hoàn đến
nhứt thiết trí và nhứt thiết
chủng trí.
Nầy Kiều Thi Ca!
Do nơi đại Bồ Tát nên
thế gian xuất hiện thập thiện,
tứ thiền nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí,
Tu Đà Hoàn nhẫn đến Phật.
Ví như trăng tròn chiếu sáng, các
tinh tú cũng có thể chiếu sáng.
Tất cả
thiện pháp đến nhứt thiết
chủng trí tại thế gian, nếu
thời kỳ không có Phật
xuất thế, thời đều phát sanh từ chư
Bồ Tát.
Phương tiện lực của
đại Bồ Tát nầy đều sanh từ
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát dùng phương tiên lực nầy để thật hành
Đàn na ba la mật đến
Thiền na ba la mật, để thật hành
nội không đến
vô pháp hữu pháp không, để thật hành
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng, chẳng chứng đặng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật, cũng có thể
thành tựu chúng sanh, thành
tịnh Phật độ, có thể
thành tựu thọ mạng,
thành tựu quốc độ,
thành tựu quyến thuộc Bồ Tát, được nhứt thiết
chủng trí. Tất cả như thế đều từ
Bát nhã ba la mật phát sanh. Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu
thiện nam,
thiện nữ nghe
Bát nhã ba la mật,
thọ trì, thân cận, nhẫn đến chánh
ức niệm thời sẽ được
thành tựu công đức đời nầy, đời sau”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thiện nam,
thiện nữ thọ trì nhẫn đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật được
công đức đời
hiện tại như thế nào?”
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu
thiện nam,
thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật nhẫn đến chánh
ức niệm thời trọn chẳng bị trúng độc mà chết, đao thương chẳng hại được, nước lửa cũng chẳng chìm đốt được, nhẫn đến bốn trăm lẻ bốn thứ bịnh chẳng xâm được, trừ
nghiệp báo đời trước của người ấy.
Nếu có quan sự
phát khởi,
thiện nam,
thiện nữ nầy đến
trước mặt quan không ai khiển trách được. Tại sao vậy? Vì oai lực của
Bát nhã ba la mật vậy.
Nếu
thiện nam,
thiện nữ đọc tụng Bát nhã ba la mật đến
trước mặt vua chúa, đại thần, thời vua chúa đại thần đều
hoan hỷ đón tiếp, chuyện trò
niềm nở. Tại sao vậy? Vì
thiện nam,
thiện nữ nầy
thường có tâm từ bi
hỉ xả đối với
chúng sanh vậy.
Nầy Kiều Thi Ca! Đó là
Thiện nam,
thiện nữ thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật được
công đức trong đời hiện tại.
Những gì là
công đức ở đời vị lai?
Thiện nam,
thiện nữ thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật thời trọn chẳng rời
thập thiện đạo,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ không định,
lục ba la mật,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng. Người nầy trọn chẳng sa vào ba
ác đạo. Thân mạo hoàn cụ. Trọn chẳng sanh vào nhà nghèo hèn hạ tiện. Thường được ba mươi hai tướng. Thường được
hóa sanh trong nước
hiện có Phật. Trọn chẳng rời lìa
Bồ Tát thần thông. Nếu muốn từ một
Phật quốc đến một
Phật quốc để
cúng dường chư Phật và nghe
Phật thuyết pháp thời được
như ý. Những nước đã được đến, người nầy đều có thể
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ, lần lần được
Vô thượng Bồ đề.
Nầy Kiều Thi Ca! Đó là
công đức ở
đời sau.
Vì thế nên
thiện nam,
thiện nữ phải
thọ trì, thân cận,
đọc tụng, chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật nầy, dùng hoa hương, phan cái,
kỹ nhạc cúng dường, thường chẳng rời tâm
nhứt thiết trí.
Thiện nam,
thiện nữ nầy được
thành tựu công đức đời nầy,
đời sau nhẫn đến
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
PHẨM KHIỂN TRỪ MA NGOẠI
THỨ BA MƯƠI LĂM
Bấy giờ chư
ngoại đạo Phạm chí muốn đến tìm chỗ
sở đoản của
đức Phật.
Thiên Đế nghĩ rằng như
ngoại đạo phạm chí nầy muốn đến tìm chỗ
sở đoản của
đức Phật, tôi nên
tụng niệm Bát nhã ba la mật của
đức Phật vừa
giáo thọ, tất chư
ngoại đạo phạm chí nầy trọn không thể làm trở ngại công việc
giảng thuyết Bát nhã ba la mật.
Nghĩ xong,
Thiên Đế liền niệm
Bát nhã ba la mật.
Lúc đó chư
ngoại đạo phạm chí ở xa nhiễu quanh
đức Phật rồi đi
trở về.
Ngài
Xá Lợi Phất tâm niệm cớ chi mà chư
ngoại đạo phạm chí ở xa nhiễu quanh
đức Phật rồi đi trở về?
Đức Phật bảo ngài
Xá Lợi Phất: “Vì
Thích Đề Hoàn Nhơn tụng niệm Bát nhã ba la mật, nên chư
ngoại đạo phạm chí ở xa nhiễu quanh
đức Phật rồi đi
trở về.
Nầy
Xá Lợi Phất! Ta chẳng thấy chư
ngoại đạo phạm chí ấy có chút
thiện tâm, họ mang ý ác đến muốn tìm chỗ
sở đoản của
đức Phật.
Nầy
Xá Lợi Phất! Lúc thuyết
Bát nhã ba la mật, ta chẳng thấy tất cả
thế gian hoặc
chư Thiên, chư Ma, chư Phạm, hoặc trong chúng
Sa Môn, trong chúng
Đà La Môn, có ai mang
ác ý mà có thể đến
phá hoại được.
Tại sao vậy? Vì trong
Đại Thiên quốc độ nầy, chư
Tứ Thiên Vương đến
Đại Tự Tại Thiên, chư
Thanh Văn, chư
Bích Chi Phật, chư
Bồ Tát và chư Phật đồng
thủ hộ Bát nhã ba la mật nầy.
Tại sao vậy? Vì
chư Thiên đến chư Phật đều xuất sanh từ trong
Bát nhã ba la mật.
Lại nầy
Xá Lợi Phất! Trong
hằng sa quốc độ mười phương,
chư Thiên đến chư Phật cũng đồng
thủ hộ Bát nhã ba la mật. Tại sao vậy? Vì
chư Thiên đến
chư Phật mười phương cũng đều xuất sanh từ trong
Bát nhã ba la mật.
Bấy giờ có
ác ma nghĩ rằng nay đây Phật cùng
tứ chúng hội hợp với
chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, trong đó tất có bực
đại Bồ Tát được
thọ ký sẽ thành
Vô thượng Bồ đề. Ta phải đến đó để
phá hoại đạo tâm của họ.
Nghĩ xong,
ác ma liền
hóa hiện bốn bộ binh kéo đến chỗ
đức Phật.
Thiên Đế biết là không phải binh chủng của vua
Tần Bà La hay
vua Ba Tư Nặc, cũng không phải của dòng
Thích Ca và dòng
Lê Xa. Đây tất là binh của
ác ma hóa hiện.
Ác ma nầy mãi
tìm dịp hại
chúng sanh, ta phải
tụng niệm Bát nhã ba la mật.
Thiên Đế liền
tụng niệm Bát nhã ba la mật.
Ác ma nghe tiếng
tụng niệm, lần lần tan rã
trở về.
Chư Thiên cõi Tứ Vương đến cõi Sắc
Cứu Cánh ở
cõi nầy và
hằng sa cõi ở
mười phương đồng hóa hiện những
thiên hoa từ trên không rải trên
đức Phật và đồng xướng rằng
cầu nguyện Bát nhã ba la mật ở lâu nơi
Diêm Phù Đề.
Tại sao vậy? Vì người
Diêm Phù Đề thọ trì Bát nhã ba la mật thời
Bát nhã ba la mật được trụ nơi
thế gian.
Tùy thời gian
Bát nhã ba la mật an trụ, thời ở
Diêm Phù Đề Phật bảo,
Pháp bảo và
Tăng bảo cũng an trụ chẳng diệt. Cũng
phân biệt biết rõ đạo
đại Bồ Tát.
Và lại chỗ nào có
thiện nam,
thiện nữ biên chép quyển
Bát nhã ba la mật, thời chỗ đó tất
chói sáng, rời xa sự tối tâm”.
Đức Phật bảo
Thiên Đế và tất cả
chư Thiên: “Đúng như vậy. Nầy
Kiều Thi Ca và
chư Thiên Tử! Người
Diêm Phù Đề thọ trì Bát nhã ba la mật, theo
thời gian mà sự
thọ trì nầy còn
tồn tại, thời cũng là
thời gian mà
Tam Bảo tồn tại. Nhẫn đến chỗ nào có
thiện nam,
thiện nữ biên chép quyển
kinh Bát nhã ba la mật, thời chỗ ấy tất
chói sáng, rời xa sự tối tăm”.
Chư Thiên Tử
hóa hiện thiên hoa rải trên
đức Phật mà thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật nhẫn đến chánh
ức niệm thời ma chúa,
ma dân không làm hại được.
Bạch đức Thế Tôn!
Chúng tôi cũng phải
ủng hộ những người nầy, vì
chúng tôi xem những người nầy như
đức Phật hoặc kế đức Phật”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Thiện nam,
thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật nhẫn đến chánh
ức niệm, phải biết những người nầy đời trước đã
làm công đức nhiều ở chỗ
đức Phật, đã thân cận
cúng dường chư Phật, được bực
thiện tri thức hộ niệm.
Bạch đức Thế Tôn!
Nhứt thiết trí của chư Phật phải tìm cầu trong
Bát nhã ba la mật.
Bát nhã ba la mật cũng phải tìm cầu trong
nhứt thiết trí.
Tại sao vậy? Vì
Bát nhã ba la mật chẳng khác
nhứt thiết trí.
Nhứt thiết trí chẳng khác
Bát nhã ba la mật.
Bát nhã ba la mật cùng
nhứt thiết trí chẳng phải hai, chẳng phải khác.
Do đây nên hàng
chư Thiên chúng tôi xem những người nầy như
đức Phật hoặc kế đức Phật”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy! Nầy Kiều Thi Ca!
Nhứt thiết trí của chư Phật tức là
Bát nhã ba la mật.
Bát nhã ba la mật tức là
nhứt thiết trí.
Tại sao vậy? Nầy Kiều Thi Ca!
Nhứt thiết trí của chư Phật đều xuất sanh từ trong
Bát nhã ba la mật.
Bát nhã ba la mật chẳng khác
nhứt thiết trí.
Nhứt thiết trí chẳng khác
Bát nhã ba la mật.
Bát nhã ba la mật cùng
nhứt thiết trí chẳng phải hai, chẳng phải khác”.
PHẨM TÔN ĐẠO
THỨ BA MƯƠI SÁU
Ngài
A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Cớ sao chẳng
ca ngợi Đàn na ba la mật đến mười
tám pháp bất cộng mà chỉ ca ngời
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Đối với năm môn
ba la mật đến mười
tám pháp bất cộng thời
Bát nhã ba la mật là tôn đạo của tất cả.
Nầy A Nan!
Bố thí mà chẳng
hồi hướng nhứt thiết trí thời có được gọi là
Đàn na ba la mật chăng?
Trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định và trí huệ mà chẳng
hồi hướng nhứt thiết trí thời có được gọi là thi na
ba la mật chăng?”
Ngài
A Nan thưa: ‘Bạch đức Thế Tôn! Không”.
Đức Phật nói: “Do đó mà biết rằng
Bát nhã ba la mật là tôn đạo đối với năm
ba la mật đến mười
tám pháp bất cộng, nên phải ca ngợi”.
Ngài
A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là
bố thí đến
trí huệ hồi hướng nhứt thiết trí được thành
Đàn na ba la mật đến
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Dùng
bố thí không có hai pháp mà
hồi hướng nhứt thiết trí, thời gọi là
Đàn na ba la mật, vì
bất sanh,
bất khả đắc nên
bố thí,
hồi hướng nhứt thiết trí thời gọi là
Đàn na ba la mật.
Nhẫn đến dùng
trí huệ không có hai pháp
hồi hướng nhứt thiết trí thời gọi là
Bát nhã ba la mật, vì
bất sanh bất khả đắc nên
trí huệ hồi hướng nhứt thiết trí thời gọi là
Bát nhã ba la mật”.
Ngài
A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào dùng
pháp không hai mà
bố thí nhẫn đến dùng
pháp không hai mà
trí huệ hồi hướng nhứt thiết trí, thời gọi là
Đàn na ba la mật đến gọi là
Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Nầy A Nan! Vì
sắc không hai pháp, vì thọ, tưởng, hành, thức không hai pháp, nhẫn đến vì
Vô thượng Bồ đề không hai pháp vậy.
Tại sao vậy?
Vì sắc
sắc tướng rỗng không.
Đàn na ba la mật và
sắc không hai, không khác, nhẫn đến
Vô thượng Bồ đề và
Đàn na ba la mật không hai, không khác. Năm
ba la mât kia cũng như vậy.
Vì thế nên, nầy A Nan! Chỉ ca ngời
Bát nhã ba la mật là tôn đạo của năm
ba la mật đến nhứt thiết
chủng trí.
Nầy A Nan!
Ví như mặt đất, đem hột giống rải lên trên, đủ
nhơn duyên hòa hiệp bèn mọc lên. Các hột giống ấy nương nơi đất mà mọc lên.
Cũng vậy, năm
ba la mật nương
Bát nhã ba la mật mà sanh.
Tứ niệm xứ đến nhứt thiết
chủng trí đều nương
Bát nhã ba la mật mà sanh. Thế nên
Bát nhã ba la mật là tôn đạo của năm
ba la mật đến mười
tám pháp bất cộng”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật nói chưa hết
công đức của người
thọ trì đến chánh
ức niệm của
Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì người
thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật thời thọ lấy đạo
Vô thượng của
tam thế chư Phật. Vì muốn được
nhứt thiết trí phải tìm cầu trong
Bát nhã ba la mật. Muốn được
Bát nhã ba la mật phải tìm cầu trong
nhứt thiết trí.
Bạch đức Thế Tôn! Do
thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật mà
thế gian xuất hiện thập thiện đạo,
tứ thiền,
tứ vô lượng tâm,
tứ vô sắc định nhẫn đến mười
tám pháp bất cộng.
Do
thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật mà
thế gian bèn có những danh nhơn
vọng tộc, trời Tứ Vương đến
trời Sắc Cứu Cánh.
Do
thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật mà
thế gian bèn có
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm,
A La Hán,
Bích Chi Phật,
đại Bồ Tát.
Do
thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật mà có chư Phật,
Thế Tôn xuất hiện thế gian”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Người
thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật, ta chẳng nói họ chỉ được gần ấy
công đức.
Nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật chẳng rời tâm
nhứt thiết trí thời thành tựu vô lượng giới phẩm,
thành tựu vô lượng định phẩm, huệ phẩm,
giải thoát phẩm,
giải thoát tri kiến phẩm. Phải biết người nầy như Phật.
Tất cả
giới phẩm, định phẩm, huệ phẩm,
giải thoát phẩm,
giải thoát tri kiến phẩm của hàng
Thanh Văn,
Bích Chi Phật đối với người nầy không bằng một phần trăm ngàn muôn ức, nhẫn đến toán số
thí dụ đều không bằng.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ biên chép,
thọ trì quyển
kinh Bát nhã ba la mật rồi
cúng dường,
tôn kính,
tôn trọng cũng được
công đức trong đời nầy và đời sau”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi phải thường
thủ hộ những
thiện nam,
thiện nữ thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật chẳng rời tâm
nhứt thiết trí,
cúng dường,
cung kính,
tôn trọng Bát nhã ba la mật”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Lúc
thiện nam,
thiện nữ muốn
đọc tụng,
giảng thuyết Bát nhã ba la mật, thời
vô lượng trăm ngàn
chư Thiên đều đến
nghe pháp.
Thiện nam,
thiện nữ giảng thuyết pháp
Bát nhã ba la mật, thời
chư Thiên giúp thêm đởm lực cho những người ấy.
Các
pháp sư ấy nếu mỏi mệt, nhờ
chư Thiên giúp thêm đởm lực nên lại có thể
giảng thuyết nữa.
Thiện nam,
thiện nữ thọ trì đến chánh
ức niệm, cúng dương
Bát nhã ba la mật cũng được
công đức hiện đời nầy.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ ấy ở giữa
bốn bộ chúng, lúc
giảng thuyết Bát nhã ba la mật, lòng không khiếp nhược. Lúc bị luận nạn cũng không sợ sệt. Tại sao vậy? Vì
thiện nam và
thiện nữ ấy được sự
hộ trì của
Bát nhã ba la mật.
Trong
Bát nhã ba la mật cũng
phân biệt tất cả pháp, hoặc
thế gian hay
xuất thế gian, hoặc
hữu lậu hay
vô lậu, hoặc thiện hay
bất thiện, hoặc
hữu vi hay
vô vi, hoặc pháp
Thanh Văn hay
pháp Bích Chi Phật, pháp
Bồ Tát hay
Phật pháp.
Vì
thiện nam,
thiện nữ ấy an trụ trong
nội không hay
vô pháp hữu pháp không, nên chẳng thấy có ai
chướng nạn được
Bát nhã ba la mật, cũng chẳng thấy người bị luận nạn, cũng chẳng thấy
Bát nhã ba la mật.
Thiện nam,
thiện nữ ấy được
Bát nhã ba la mật ủng hộ, nên không ai nạn hoại được.
Lúc
thọ trì đến chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật,
thiện nam,
thiện nữ ấy chẳng mất, chẳng kinh, chẳng sợ.
Tại sao vậy? Vì
thiện nam,
thiện nữ ấy chẳng thấy có pháp mất, chẳng thấy có
pháp kinh sợ.
Nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ thọ trì đến chánh
ức niệm,
cúng dường Bát nhã ba la mật, lại được
công đức đời
hiện tại nầy.
Lại nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ thọ trì đến chánh
ức niệm, biên chép,
cúng dường quyển
kinh Bát nhã ba la mật, người nầy được
cha mẹ yêu thương,
thân tộc, bạn bè kính mến, được
Sa Môn,
Bà La Môn kính nể, được chư Phật,
chư đại Bồ Tát, chư
A La Hán đến chư
Tu Đà Hoàn ái kính, tất cả
thế gian,
chư Thiên, Ma, Phạm,
A tu la cũng ái kính người nầy.
Người nầy thật hành
Đàn na ba la mật không lúc nào
đoạn tuyệt.
Thi la ba la mật đến
Bát nhã ba la mật cũng như vậy, không lúc nào
đoạn tuyệt.
Người nầy tu
nội không chẳng dứt, đến tu
vô pháp hữu pháp không chẳng dứt, tu
niệm xứ đến
bất cộng pháp chẳng dứt, tu các môn
tam muội chẳng dứt, tu các môn
đà la ni chẳng dứt, tu những
Bồ Tát thần thông chẳng dứt,
thành tựu chúng sanh,
thanh tịnh Phật độ chẳng dứt, nhẫn đến tu nhứt thiết
chủng trí chẳng dứt. Người nầy cũng có thể
hàng phục kẻ luận nạn hủy báng.
Nầy Kiều Thi Ca!
Thiện nam,
thiện nữ thọ trì đến
cúng dường Bát nhã ba la mật cũng được
công đức đời nầy,
đời sau như vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Tại chỗ ở của
thiện nam,
thiện nữ biên chép quyển kinh,
chư Thiên cõi trời Tứ Vương,
Đao Lợi nhẫn đến
cõi trời Sắc Cứu Cánh,
toàn thể chư Thiên trong cõi
Đại Thiên nầy và trong
thế giới mười phương, những vị đã
phát tâm Vô thượng Bồ đề, đều đến chỗ ấy để ra mắt quyển
Bát nhã ba la mật và
thọ trì,
đọc tụng,
giảng thuyết,
cúng dường,
lễ lạy rồi
trở về.
Ngoài ra những hàng Thiên, Long,
Bát bộ trong
cõi nầy và trong những
thế giới mười phương cũng đều đến chỗ ấy để ra mắt quyển
kinh Bát nhã ba la mật và
thọ trì,
đọc tụng,
giảng thuyết,
cúng dường,
lễ lạy rồi
trở về.
Thiện nam,
thiện nữ nầy nghĩ rằng
chư Thiên cùng
Bát bộ thần trong
cõi nầy và trong những
thế giới mười phương đều ra mắt quyển
Bát nhã ba la mật và
thọ trì,
đọc tụng,
giảng thuyết,
cúng dường,
lễ bái, như thế thời tôi đã ban bố
pháp thí rồi.
Nầy Kiều Thi Ca!
Chư Thiên trong cõi
Đại Thiên cùng
chư Thiên trong những
thế giới mười phương, từ trời Tứ Vương đến
trời Sắc Cứu Cánh, những vị đã
phát tâm Vô thượng Bồ đề, đều
ủng hộ các
thiện nam,
thiện nữ nầy, làm cho những kẻ ác, những việc ác không xâm hại được. Ngoại trừ đời trước của người ấy có
trọng tội.
Nầy Kiều Thi Ca! Các
thiện nam,
thiện nữ nầy cũng được
công đức đời
hiện tại. Những
Thiên Tử đã
phát tâm Vô thượng Bồ đề đều đến chỗ ở của người nầy.
Tại sao vậy? Vì những
Thiên Tử đã
phát tâm Vô thượng Bồ đề đều muốn
cứu hộ tất cả
chúng sanh, chẳng bỏ tất cả
chúng sanh, muốn
an lạc tất cả
chúng sanh vậy”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Các
thiện nam,
thiện nữ nầy làm sao biết được
chư Thiên trong
thế giới đây cùng
chư Thiên trong những
thế giới ở
mười phương đều ra mắt
Bát nhã ba la mật để
thọ trì,
đọc tụng, giảng nói,
cúng dường, lễ lạy?”
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có
thiện nam,
thiện nữ thấy
quang minh thanh tịnh lớn, thời biết chắc là lúc có
chư Thiên đến ra mắt
Bát nhã ba la mật để
thọ trì,
đọc tụng,
giảng thuyết,
cúng dường,
lễ lạy.
Lại nếu các
thiện nam,
thiện nữ nghe mùi hương lạ
vi diệu, cũng biết chắc là lúc có
chư Thiên đến ra mắt để
thọ trì,
đọc tụng,
giảng thuyết,
cúng dường lễ lạy.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Vì các
thiện nam,
thiện nữ công hạnh tịnh khiết, nên
chư Thiên đến ra mắt
Bát nhã ba la mật để
thọ trì,
đọc tụng,
giảng thuyết,
cúng dường hoan hỉ lễ lạyTrong chỗ đó nếu có hàng tiểu quỉ liền
tức thời đi ra, vì họ chẳng kham nổi
oai đức lớn của
chư Thiên.
Do hàng
Đại Đức chư Thiên đến, nên
thiện nam,
thiện nữ nầy phát
đại tâm. Vì thế nên chỗ nào có
Bát nhã ba la mật, thời bốn phía phải sạch sẽ. Phải thắp đèn,
đốt hương thơm, rải những hoa đẹp, dầu thơm rưới đất,
nghiêm sức với những
bảo cái,
tràng phan.
Lúc
thuyết pháp, các
thiện nam,
thiện nữ nầy trọn không mõi mệt, tự
cảm thấy thân thể thơ thới,
tâm thần an vui. Đúng pháp nằm nghĩ,
an ổn không
ác mộng. Trong giấc mơ thấy Phật
ba mươi hai tướng tốt,
tám mươi tùy hình hảo. Chúng
Tỳ Kheo cung kính vây quanh.
Đức Phật vì
chư Tăng mà
thuyết pháp.
Các
thiện nam,
thiện nữ nầy nghe và
lãnh thọ giáo pháp. Những là
lục ba la mật,
tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng. Cũng
phân biệt nghĩa của
lục ba la mật đến nghĩa của pháp
bất cộng.
Trong giấc mơ, các
thiện nam,
thiện nữ nầy cũng thấy
cây bồ đề trang nghiêm rất đẹp. Thấy chư
Bồ Tát đến cội
cây bồ đề thành Đẳng Chánh Giác,
chuyển pháp luân. Cũng thấy trăm ngàn muôn
Bồ Tát đồng
kết tập chánh pháp,
luận nghị rằng: Phải cầu
nhứt thiết trí như vậy, phải
thành tựu chúng sanh như vậy, phải
tịnh Phật quốc độ như vậy. Cũng thấy
mười phương vô số trăm ngàn muôn ức chư Phật. Cũng nghe
danh hiệu của chư Phật ấy ở
mười phương nào, nước nào, hiệu là gì, có bao nhiêu
Bồ Tát, bao nhiêu
Thanh Văn vây quanh
cung kính,
đức Phật ấy vì
đại chúng mà
thuyết pháp. Lại thấy
mười phương vô số trăm ngàn muôn ức chư Phật
nhập Niết Bàn. Lại thấy
vô số trăm ngàn muôn ức tháp
thất bảo của chư Phật. Lại thấy
cúng dường bảo tháp với những
hương hoa nhẫn đến phan lọng,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán.
Nầy Kiều Thi Ca! Các
thiện nam,
thiện nữ nầy
chiêm bao thấy những cảnh lành như vậy, nên lúc ngủ yên, lúc thức cũng yên.
Chư Thiên giúp thêm khí lực, nên người nầy tự cám thấy
thân thể nhẹ nhàng, chẳng quá ham những đồ uống ăn,
y phục, đồ nằm, thuốc men. Đối với
tứ sự cúng dường, lòng người nầy phớt nhẹ. Như
Tỳ Kheo tọa thiền, sau khi xuất
thiền định, tâm hiệp với
thiền định, chẳng
ham uống ăn, tâm họ phớt nhẹ.
Tại sao vậy? Vì
chư Thiên tự nhiên dùng
tinh chất của món ăn để thêm khí lực cho người nầy.
Mười phương chư Phật và hàng Thiên, Long,
Quỷ thần,
A tu la,
Càn thát bà, Ca lâu na,
Khẩn na la,
Ma hầu la già cũng giúp thêm khí lực cho người nầy.
Nầy Kiều Thi Ca! Vì thế nên các
thiện nam,
thiện nữ muốn được
công đức đời
hiện tại như vậy, thời phải
thọ trì, thân cận,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm Bát nhã ba la mật, cũng chẳng rời tâm
nhứt thiết trí.
Nếu không thể
thọ trì đến chánh
ức niệm, các
thiện nam,
thiện nữ phải biên chép quyển kinh rồi
cung kính,
tôn trọng,
tán thán,
cúng dường hoa hương,
anh lạc,
tràng phan,
bảo cái.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam,
thiện nữ nghe
Bát nhã ba la mật nầy, rồi
thọ trì,
đọc tụng,
giảng thuyết, chánh
ức niệm, biên chép quyển kinh,
cung kính,
tôn trọng,
tán thán,
cúng dường hoa hương,
anh lạc, phan cái thời
công đức tứ sự cúng dường mười phương chư Phật và hàng
đệ tử, cũng xây tháp
bảy báu sau khi chư Phật và đê tử nhập Niết Bàn”.
HẾT TẬP I