KINH PHẬT THUYẾT ĐẠI BÁT NÊ HOÀN
Quyển 3
Phẩm thứ 8: BỐN PHÁP[868a]
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Bậc đại bồ-tát
thành tựu bốn pháp, có thể nói kinh Đại bát-nê-hoàn cho người khác nghe. Bốn pháp đó là: Tự mình
chuyên chính, giúp người
chuyên chính,
tùy thời hỏi đáp,
hiểu rõ nhân duyên.
- Tự
chuyên chính là:
nghe pháp của Phật có thể
tùy thuận nhàm tởm
sợ hãi,
toàn thân sởn ốc. Như nghe Phật dạy thà ôm cây cháy, lửa đỏ bừng bừng, thiêu rụi
thân thể thành than chứ không thể nào đối với
phương tiện mật giáo của
Đức Như Lai khi tâm chưa ngộ nghe thuyết hữu thường sinh lòng
phỉ báng, nhưng nghe
ma giáo ca tụng luận thuyết về pháp
thế gian, giảng nói
vô thường thì cho là thật. Thà đưa lưỡi liếm cây củi đang cháy chứ không dám nói
Như Lai vô thường; nếu nghe ai nói liền thấy
sợ hãi, phải khởi lòng thương đối với người ấy. Phải tin sâu
sắc pháp thân
Như Lai trường tồn bất diệt, pháp già, bệnh, chết, không thể hủy hoại. Phải biết
Đức Phật Thế Tôn là bậc không thể nghĩ bàn,
giáo pháp Ngài dạy cũng
y như vậy. Như Ta nói kinh ví dụ Cây Khô[141]... hãy khéo
giữ gìn, đó là bồ-tát tự
chuyên chính mình.
- Giúp người
chuyên chính: Lúc
Phật thuyết pháp, có người
phụ nữ bồng đứa con nhỏ đang còn bú mớm đến chỗ
Đức Phật lễ sát chân Ngài. Trong lòng bà có một mối
hoài nghi, nên cứ
đứng yên trầm ngâm nghĩ ngợi. Bấy giờ
Thế Tôn biết bà nghĩ gì, liền lấy con bà ra làm
thí dụ mà nói pháp rằng: “Thí như người mẹ khéo nuôi con mình, mới đầu lấy tay mớm sữa cho con, chờ nó nuốt hết mới mớn thêm nữa”. Bấy giờ người nữ tâm liền tỏ ngộ, bạch với Phật rằng: “Kính bạch Thế Tôn! Ngài là
Đại thánh, biết
tâm niệm con mới nói lời này. Từ nay mỗi sáng con sẽ cho con của con ăn sữa thật nhiều chắc cũng không hề hại gì”.
Phật bảo: “Không phải! Khi trẻ lớn khôn, cho nó ăn cơm cũng không hại gì”. Người nữ
vui mừng bạch với Phật rằng: “Kỳ thay, Thế Tôn! Ngài khéo
tùy thuận nói pháp dễ tiêu và không dễ tiêu. Để
giáo hóa người, trước hết Ngài nói về pháp
vô thường, khổ, không,
bất tịnh. Nếu
chúng sinh nào
lòng tin chưa vững mà nói cho họ
nghe pháp thường trụ thì sẽ
phá hoại tín căn của họ, như người uống sữa mà vẫn chưa tiêu”.
Phật bảo: “Lành thay! Này người
thiện nữ, nên học như vậy,
phương pháp nuôi con là lúc còn nhỏ, từ từ cho ăn
thức ăn mềm dẻo và lại dễ tiêu. Khi tuổi lớn khôn thì cho ăn các
thức ăn cứng hơn, cũng sẽ
tiêu hóa không có hại gì. Ta cũng như vậy, vì các
đệ tử trước nói
bất tịnh,
vô thường, khổ, không, như cho con ăn
thức ăn mềm dẻo. Khi
đạo tâm đã
tăng trưởng lên rồi, có thể kham nhận các pháp
Đại thừa thì Ta mới dạy
giáo pháp Đại thừa Đại bát-nê-hoàn, cho ăn sáu món
thức ăn cứng hơn, là vị ngọt, đắng, cay, chua, mặn, nhạt. Lấy mọi khổ đau làm món vị chua,
vô thường vị mặn,
vô ngã vị đắng,
vui thích vị ngọt, ngô ngã vị nhạt, thường
pháp vị cay, lấy củi
phiền não, đốt lửa huyễn nghiệp, nấu chín
pháp thực Đại bát-nê-hoàn thành vị
cam lồ. Lại nữa thiện nữ! Thí như có hai chị em nhà nọ, có
duyên sự cần phải ra khỏi nhà đến thôn xóm khác, hoặc sẽ ở lâu không thể về liền. Họ có hai con, một đứa rất ngoan, một đứa rất hư, cho nên lúc đi, bao nhiêu
trân bảo, kho tàng
bí mật đều không nói cho đứa con hư biết, mà đem
giao phó cho đứa con ngoan”. Người nữ
bạch Phật: “Đúng vậy, Thế Tôn”! Phật hỏi người nữ: “Tại sao kho báu không nói cho đứa con hư đốn biết”? Người nữ
bạch Phật: “Bởi đứa con hư làm điều
phi nghĩa,
phóng túng buông lung,
ăn tiêu vô độ,
vì vậy không nói. Còn đứa con ngoan có thể gầy dựng
gia nghiệp giàu sang, vinh hiển
dòng họ, nên giao cho nó”.
Phật bảo: “Đúng vậy!
Giáo pháp của Ta cũng
y như vậy. Lúc Ta
phương tiện muốn vào nê-hoàn,
pháp yếu bí mật bảo tạng Như Lai phải trao
đệ tử, không trao những người
phạm giới,
tà kiến. Đối với
Như Lai, nay bà chớ nghĩ là
pháp diệt tận, mà phải nghĩ rằng là
pháp thường trụ”. Người nữ
bạch Phật: “Con thường
nghĩ tưởng Như Lai thường trụ”.
Phật bảo: “Này bà! Như lời bà nói, nên quán như vậy, chớ nên nghĩ rằng các
pháp diệt tận, phải biết
Như Lai là
pháp thường trụ, không phải là pháp
biến dịch đổi thay, không phải là pháp hủy diệt từ từ. Nếu như người nào
thường xuyên tu tập,
quán tưởng Như Lai là
pháp thường trụ, phải biết người đó nhà nhà có Phật. Như vậy gọi là giúp người
chuyên chính.
-
Tùy thời hỏi đáp là như có người đến hỏi
Như Lai: “Con phải làm sao được danh đại thí[142],
tiếng đồn khắp chốn,
thiên hạ đều hay mà không tổn mất một chút tài sản”.
Phật bảo kẻ ấy: “Với người
thanh tịnh, không nuôi
súc vật, trâu bò, đày tớ,
tu trì phạm hạnh thì đem những thứ nô tỳ, vợ con…
vui vẻ cho họ; người không
ăn thịt,
vui vẻ đem thịt
bố thí cho họ; người không uống rượu, dù chỉ một giọt,
vui vẻ đem rượu khuyến khích họ uống; người ăn đúng thời,
vui vẻ dâng cúng những lúc
phi thời; người bỏ trang sức những thứ
hương hoa, thì đem
hương hoa, những đồ trang sức,
vui vẻ cho họ. Đem những thứ ấy, cho người thế kia, rồi quay
trở về. Nếu làm như vậy liền được mang danh là
Đại thí chủ,
thiên hạ đều biết nhưng mà chưa từng tổn hao một hào
tài sản của mình”. Thuyết như vậy là
tùy thời hỏi đáp.
Bấy giờ bồ-tát Ca-diếp
bạch Phật:
- Như
Thế Tôn dạy, người không
ăn thịt mà cho họ thịt, người
ăn thịt đó mắc tội không lớn, như vậy chẳng phải là làm
tăng trưởng tà kiến ngoại đạo?
Vì vậy nên
chế giới không ăn thịt?
Phật bảo Ca-diếp:
-
Lành thay! Lành thay! Này
thiện nam tử khéo
hiểu ý Phật. Bồ-tát
hộ pháp nên phải như vậy. Này
thiện nam tử! Từ ngày hôm nay Ta cấm
đệ tử không được
ăn thịt.
Giả sử nhận được những
thức ăn khác phải thường
quán tưởng như
ăn thịt con. Vì sao
đệ tử của
đức Như Lai mà lại ăn thịt? Chư Phật đã dạy người nào
ăn thịt là bị đoạn mất
hạt giống đại từ.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Vì sao được ăn ba món
tịnh nhục[143]?
Phật bảo Ca-diếp:
- Ba món
tịnh nhục là Ta tùy việc tạm thời chế ra.
Ca-diếp lại thưa:
- Là do nhân gì?
Phật bảo Ca-diếp:
- Có chín cách nhận, trừ mười loại thịt[144]. Đây cũng tạm chế, phải biết từ nay không được dùng nữa.
Bồ-tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng:
- Vậy sao
Thế Tôn từng khen thịt cá là thứ ăn ngon?
Phật bảo Ca-diếp:
- Ta chưa từng nói thịt cá là thứ
thức ăn thơm ngon. Ta chỉ nói rằng cây mía, lúa tẻ, lúa gạo, đường phèn,
các loại trái cây là
thức ăn ngon, như Ta khen ngợi các thứ
y phục trang nghiêm vẫn là ba y
hoại sắc. Phải biết thịt cá là loại
thức ăn tanh hôi ô uế, chỉ làm
tăng trưởng thêm lòng
tham muốn.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
-
Nếu Thế Tôn cấm không được
ăn thịt thì năm món như: sữa, dầu, vải bông, ngọc bội, da thú, cũng không được nhận.
Phật bảo Ca-diếp:
- Nghĩ lạ, Ca-diếp? Ông chớ
nhận thức như bọn
ngoại đạo nhóm Ni-kiền-tử[145].
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Vậy phải thế nào?
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Từ ngày hôm nay, Ta cấm
đệ tử không được
thọ dụng ba món
tịnh nhục, và bỏ chín cách thọ
nhận thức ăn dù không có mười loại thịt đã cấm,
cho đến loài vật
tự nhiên chết đi cũng không được ăn. Bởi vì sao vậy? Người nào
ăn thịt thì khi đi đứng ngồi nằm
chúng sinh thấy đều
sợ hãi, vì nghe sát khí[146] từ nơi người ấy, như người ăn món
hưng cừ[147] hay tỏi, nếu vào
hội chúng ai cũng
chán ghét; người nào
ăn thịt cũng
y như vậy, tất cả
chúng sinh nghe mùi sát khí lo sợ bị chết, những loài có mạng,
dưới nước trên đất, hoặc bay trên không, thấy đều
chạy trốn.
Vì vậy bồ-tát chưa từng
ăn thịt, vì độ
chúng sinh tùy thời ăn uống kỳ thật chẳng ăn. Lại nữa thiện nam! Ta nê-hoàn rồi, về đời lâu sau có những tì-kheo tuy là
học đạo mà tự
cống cao, cho mình
chứng quả, hoặc Tu-đà-hoàn, hoặc Tư-đà-hàm, hoặc A-na-hàm, hoặc A-la-hán.
Trong đời ác trược, những người lang thang, bần cùng khốn khổ
xuất gia học đạo phần nhiều
lạm dụng danh tự tì-kheo[148], vì
lợi dưỡng mà
cung kính bạch y[149]; hình trạng
tiều tụy như đứa
chăn trâu; thân mặc cà-sa[150] như kẻ thợ săn trá hình bắt thú; mong
cầu danh lợi
của cải thế gian như mèo bắt chuột; các bệnh
gầy gò, ghẻ lở, phong cùi,
thân thể bất tịnh mà
đắp y phục
hiền thánh mâu-ni;
thân hình giống như
ngạ quỷ bần cùng, lạnh rét khốn khổ, chẳng phải sa-môn giả tướng sa-môn. Ở
đời sau này, lúc
chính pháp hoại,
pháp luật hành xử,
kinh điển chính luận mà Ta đã chế, đều bị trái ngược.
Ai nấy tự tạo
kinh luận,
giới luật, nói
giới luật mình
ăn thịt thanh tịnh là điều Phật dạy; tự tạo luận tụng[151] trái ngược lẫn nhau; đều xưng sa-môn
đệ tử Thích-ca. Lại nữa thiện nam!
Giáo pháp Ta dạy
thụ dụng ngũ cốc, lúa gạo còn sống và tự tay làm cá thịt mà ăn đều không
thanh tịnh;
học nghề ép dầu, cùng các kỹ thuật làm thợ công xảo, thợ mộc, luyện da,
lui tới quốc vương,
xem sao, làm lịch, chế biến thuốc thang, học luận thanh âm,
văn từ xảo thế, chăn nuôi
súc vật, nuôi giữ nô tỳ, cất chứa tiền tài,
vàng bạc,
san hô, ngọc bội, cẩm thạch,
trân châu,
vật báu,
nuôi dưỡng các loài
sư tử, hổ, báo, chồn, chuột, mèo, cáo, cất chứa thuốc độc, luyện thuật bùa chú, làm thợ vẻ tranh, viết sách sớ điệp, tạo
sự nghiệp bằng các trò mưu mẹo khiến người
mê hoặc, ca múa huyễn hoặc, đấu vật, nhuộm răng, thân
ướp hương thơm, lấy hoa cài tóc,
trau chuốt thể hình, và còn tất cả những vật
phi pháp, hoặc giống
phi pháp, Ta đều bảo đó là pháp
bất tịnh.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Có những
quốc độ mà dân nước ấy phần nhiều
ăn thịt, nếu đi
khất thực đều
nhận thức ăn trộn lẫn với thịt, thì các tì-kheo và tì-kheo-ni, hàng ưu-bà-tắc và ưu-bà-di, ở trong nước ấy làm sao giữ được
đời sống thanh tịnh?
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Nếu
nhận thức ăn trộn lẫn với thịt, nên bỏ
thức ăn vào ở trong nước, tách cơm với thịt riêng ra mỗi thứ, rồi lấy cơm ăn thì không
phạm giới.
Bồ-tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng:
- Nếu như
thức ăn trộn lẫn với thịt mà không thể phân thì phải làm sao?
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Nếu ở đất nước mà
mọi người dân
ăn thịt là chính, tất cả
thức ăn thảy đều có thịt, thì Ta
cho phép bỏ hết thịt ra, còn lại
thức ăn đem bỏ vào nước, làm mất hương vị của thịt đi rồi sau đó mới dùng. Còn như cá thịt có thể phân ra mà ăn là tội. Ngày nay Ta
chế giới không
ăn thịt là có
nhân duyên.
Nếu không nhân duyên thì
nhân thuyết kinh Đại bát-nê-hoàn cũng sẽ
cấm chế không được
ăn thịt. Như thế gọi là
tùy thời hỏi đáp.
-
Hiểu rõ nhân duyên là nếu tì-kheo hay ưu-bà-tắc hỏi nghĩa
như vầy: Vì sao
Thế Tôn,
Như Lai Ứng Cúng, Chánh
Đẳng Chính Giác lúc mới
xuất thế không vì
đệ tử mỗi mỗi chế giới? Mỗi mỗi không
thuyết pháp môn như vậy? Sao không thuyết ba-la-đề-mộc-xoa[152] đến nơi rốt ráo? Nghĩa này thế nào? Tỳ-ni[153] là gì? Này
thiện nam tử! Nghe Ta
phân biệt nghĩa lý của ba-la-đề-mộc-xoa. Ba-la-đề-mộc-xoa có nghĩa là ít muốn biết đủ,
thành tựu uy nghi, không còn
đọa lạc vào đường
súc sinh, lìa mọi
nhiễm trước, hết thảy
thân mạng đều được
thanh tịnh.
Đọa lạc là đọa vào
bốn đường ác,
địa ngục thiêu đốt.
Uy nghi nghĩa là ít muốn biết đủ, nên không
đọa lạc vào đường
súc sinh, hết thảy
thân mạng đều được
thanh tịnh, cho nên
giới bổn gọi là không đọa. Đọa trong
địa ngục A-tỳ khổ đau gọi là
đọa lạc. Bố-tát[154] nghĩa là nuôi lớn hai điều, một là
tăng trưởng giới bổn mộc-xoa, hai là làm cho lìa mọi
tà thuyết. Tỳ-ni nghĩa là
giới luật vi tế,
điều phục uy nghi, những vật
phi pháp mình không
tiếp nhận, cũng không cho người, gọi là tỳ-ni. Trong đó ai phạm bốn
pháp giới trọng, mười ba
hữu dư, ba mươi
xả đọa, chín mươi mốt pháp đọa, bốn pháp
hối quá, trăm
pháp chúng học, hai pháp
bất định, bảy
pháp diệt tránh, những người
phỉ báng kinh điển và bọn nhất-xiển-đề, phạm những tội như thế mà không hướng đến những người
thanh tịnh phát lồ sám hối, một mực
che dấu, như rùa giữ kĩ sáu chi của mình, thì
tội phạm giới ngày đêm
tăng trưởng. Vì sao
Thế Tôn biết có tội này mà không kết giới? Khiến cho
chúng sinh đọa vào ác thú? Giống như một người dẫn theo nhiều người muốn đi phương khác đã chỉ bày rõ cho
con đường chính, nhưng
vẫn có người quên mất
đường chính lạc vào đường khác, có người
lanh lợi hô hoán kịp thời khiến người
lạc đường quay lại
đường chính.
Giáo pháp Như Lai cũng
y như vậy,
lúc đầu chỉ nói
con đường duy nhất thẳng đến nê-hoàn, nếu các tì-kheo phạm nhiều
lỗi lầm, khi đó mới nói
quả báo phạm tội, rồi
chế giới cấm. Như vậy
Thế Tôn chỉ đường chân thật, vì mọi
chúng sinh nói rõ
công đức của
mười nghiệp lành. Trong các vị trời, Phật là hơn hết. Trong tất cả pháp, Phật là
chính pháp. Ngài thương
chúng sinh, nói rõ
công đức của
mười nghiệp lành,
bình đẳng thương yêu tất cả
chúng sinh y như con một. Nếu có
chúng sinh đọa trong
địa ngục, vì muốn
cứu độ chúng sinh này
thoát khỏi cảnh địa ngục thì
đức Như Lai có thể ở trong
địa ngục kéo dài tuổi thọ một kiếp, hoặc hơn một kiếp.
Vì vậy làm sao có thể để cho tì-kheo
phạm giới tăng trưởng tội lỗi đọa trong đường ác? Như người thợ may, may xong áo mới, sau đó cắt xé cho rách nát đi rồi khâu vá lại. Thí như ông vua
Chuyển luân thánh vương mới đầu dùng pháp mười nghiệp thiện lành
giáo hóa nhân dân. Về sau dân chúng
ác hạnh tăng dần, vua lấy
Tự Tại Kim Luân[155] Bảo thần ra chế
pháp luật,
điều phục chúng sinh.
Thế Tôn cũng vậy,
lúc đầu chưa
kết giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, về sau tì-kheo
phạm tội tăng dần, khi ấy mới lấy
nhân duyên phạm giới làm điều căn cứ rồi
chế giới cấm để cho
chúng sinh, những người
giữ giới an lạc tu tập thấy
nhân duyên đó càng thêm
hoan hỷ,
tín tâm tăng trưởng, nhẫn đến
bình đẳng quán chiếu
nghĩa lý bốn
pháp chân thật
thậm thâm vi diệu, như vua
Chuyển luân tự tại sử dụng Bảo thần
Kim Luân.
Pháp luân của Phật cũng
y như vậy, cũng là
giáo pháp vô lượng chư Phật.
Chư Phật Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.
Giáo pháp Phật thuyết chẳng thể nghĩ bàn. Những người
nghe được giáo pháp của Phật chẳng thể nghĩ bàn. Những ai tin được kinh này cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Như vậy gọi là khéo hiểu
nhân duyên, là đại bồ-tát
thành tựu bốn pháp có thể nói kinh Đại bát-nê-hoàn cho người khác nghe. Hiện nói
nhân duyên và
nhân duyên của Đại bát-nê-hoàn chính là
bộ kinh Đại bát-nê-hoàn. Như vậy gọi là khéo hiểu
nhân duyên.
- Tự
chuyên chính là
thành thật trở lại với chính
bản thân, chuyên hướng về kinh Đại bát-nê-hoàn, phải biết đấy là tự mình
chuyên chính. Lại có khả năng giúp người
chuyên chính là biết tì-kheo tâm đã
thành thục mới nói bổn kinh Đại bát-nê-hoàn, nói
Đức Như Lai trường tồn bất diệt, phải biết đây là giúp người
chuyên chính.
Tùy thời hỏi đáp là như Ta vì Ca-diếp mà nói bậc đại bồ-tát
lợi trí vi diệu, có nhiều
bí yếu,
phương tiện mật giáo, chẳng phải
thanh văn hay hàng
duyên giác có thể suy lường, đó chính là kinh Đại bát-nê-hoàn, đây cũng gọi là
tùy thời vấn đáp, tùy vào
tâm tưởng của mọi
chúng sinh mong muốn điều gì thì nói pháp ấy, chẳng phải
hư vọng. Thí như một người
diễn tả hư không bằng nhiều tên gọi, là không, là hư, là không gì cả, hay là vô số…
diễn tả như vậy chẳng phải
hư vọng.
Như Lai thuyết pháp cũng
y như vậy.
Bộ kinh Đại bát-nê-hoàn này nói bốn pháp ắt hẳn có chỗ ứng hợp, chẳng phải
hư vọng.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Nếu
Đức Như Lai trường tồn bất diệt thì trái ngược với
khế kinh[156] Phật dạy.
Rồi thì bồ-tát nói
bài kệ rằng:
Như đốt viên sắt nóng
Rồi bỏ vào nước lạnh
Sức nóng nó mất dần
Chẳng biết nó về đâu
Giải thoát hết tất cả
Qua vực sâu
tử sinhMãi
an lạc bất độngChẳng biết ở nơi nào?
[870a]
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Chớ dùng
bài kệ nói điều
sai lầm, cho rằng
Như Lai mãi mãi mất hẳn. Chẳng phải sắt nóng bỏ vào trong nước sức nóng của nó
dần dần mất hẳn.
Chư Phật Như Lai vĩnh diệt nê-hoàn cũng
y như vậy. Như viên sắt nóng bỏ vào trong nước, sức nóng mất dần,
Như Lai cũng vậy,
vô lượng phiền não,
trói buộc,
hoạn nạn, thảy đều
tiêu diệt, thí như sắt nóng bỏ vào trong nước sức nóng của lửa tuy đã diệt mất, nhưng tính của sắt vẫn còn nguyên vẹn.
Như Lai cũng vậy,
vô lượng kiếp số, lửa dữ
phiền não đều
tiêu diệt cả, nhưng tính
Như Lai là tính
kim cang vẫn
hằng thường tại, không phải là pháp biến dị thay đổi, không phải là pháp hủy diệt từ từ.
Đức Phật Như Lai giải thoát tất cả,
vượt qua mọi chốn vực sâu
sinh tử,
thể nhập nê-hoàn là đi đến chỗ mọi nẻo thú hướng
hoàn toàn vĩnh diệt, không thể biết được,
vì vậy nói rằng:
Giải thoát hết tất cả
Qua vực sâu
tử sinhMãi
an lạc bất độngChẳng biết ở nơi nào?
[870a] Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Như đem sắt nóng bỏ vào trong nước, sức nóng của nó
dần dần mất hẳn, rồi lại đem nó bỏ vào trong lửa.
Như Lai Nê-hoàn kỳ thật
thường trụ, nhưng vì
chúng sinh lại vào
vô lượng lửa dữ
sinh tử, đoạn trừ tất cả
oán kết hoạn nạn trói buộc chúng sinh.
Lành thay, Thế Tôn!
Như Lai trường tồn, là điều chắc thật.
Phật bảo Ca-diếp:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Này
thiện nam tử! Thí như ông vua
Chuyển luân thánh vương vào trong hậu cung cùng với mỹ nữ
vui hưởng dục lạc,
phút chốc sau đó đi ra ngự viên, đến hồ nước tắm, khoái lạc
tự tại. Bấy giờ trong cung chẳng thấy bóng vua chớ bảo mất hẳn. Chư
Phật Thế Tôn bỏ Diêm-phù-đề,
thị hiện vô thường cũng
y như vậy, chớ bảo vĩnh diệt, như vua
Chuyển luân bỏ chốn thâm cung dạo chơi lâm viên khoái lạc
tự tại.
Như Lai cũng vậy, bỏ chốn thâm cung
vô lượng phiền não, vào vườn
tổng trì[157], có hoa thất giác[158], có hồ tắm mát, dạo chơi thoả thích, dùng trí
phương tiện tự tại hóa hiện,
vô lượng phiền não đã diệt từ lâu.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Như
Thế Tôn dạy,
Như Lai đã diệt
vô lượng kiếp số
sinh tử phiền não,
hoạn nạn khổ đau, Ngài đã
vượt qua biển lớn
ngũ dục[159],
vậy thì tại sao lúc còn bồ-tát ở trong thâm cung vui thú
dục lạc cùng với mỹ nữ? Và làm
thân phụ của La-hầu-la[160]? Do đó nên biết Ngài chưa đoạn hết
phiền não hoạn nạn, Ngài chưa
vượt qua biển lớn
ngũ dục.
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Chớ nói lời đó với
Đức Như Lai,
Ứng Cúng Đẳng Giác.
Sở dĩ gọi là Đại bát-nê-hoàn bởi có khả năng
kiến lập nghĩa lớn, nay ông lắng nghe và diễn nói rộng cho người khác nghe, chớ
sinh nghi ngờ. Bậc đại bồ-tát trụ trong nê-hoàn có khả năng lấy núi chúa Tu-di bỏ vào hạt lúa,
vậy mà bao nhiêu
chúng sinh sống ở nơi núi Tu-di chẳng bị nhiễu hại, đến đi đứng ngồi, chẳng biết ai làm, chỉ trừ
chúng sinh có được
tri kiến, biết bồ-tát trụ Đại bát-nê-hoàn
an trí Tu-di vào trong hạt lúa rồi sau trả lại.
Cảnh giới của bậc Đại bồ-tát trụ Đại bát-nê-hoàn là
y như vậy. Lại nữa thiện nam! Bậc đại bồ-tát trụ trong Đại bát-nê-hoàn cầm lấy
đại địa của cả ba ngàn
thế giới bỏ vào hạt lúa, bao nhiêu
chúng sinh trong
thế giới ấy chẳng bị nhiễu hại và chẳng thể biết ai đem mình đến, ai
an trí mình ở tại chỗ đó, ngoại trừ
chúng sinh có được
tri kiến biết bồ-tát trụ Đại bát-nê-hoàn cầm lấy ba ngàn
đại thiên thế giới an trí vào trong hạt lúa rồi sau trả lại như cũ. Lại nữa thiện nam! Bậc bồ-tát trụ Đại bát-nê-hoàn lại đem ba ngàn
đại thiên thế giới an trí vào trong lỗ chân lông mình,
vậy mà chúng sinh của
thế giới ấy chẳng bị nhiễu hại và chẳng tự biết ai đem mình đến, ai
an trí mình ở tại chỗ đó, chỉ trừ
chúng sinh có được
tri kiến biết bồ-tát trụ Đại bát-nê-hoàn đem cả
thế giới ba ngàn
đại thiên an trí vào trong lỗ chân lông của
thân thể quý ngài rồi sau trả lại. Lại nữa thiện nam! Bậc bồ-tát trụ Đại bát-nê-hoàn, ở
thế giới này có thể đem cả
mười phương quốc độ của các chư Phật để trên đầu kim, như lấy đầu kim nâng chiếc lá táo, rồi đem đi qua
quốc độ Phật khác mà các
chúng sinh chẳng bị nhiễu hại và đều chẳng hay ai đem mình đi, ai
an trí mình vào
quốc độ ấy, chỉ trừ
chúng sinh có được
tri kiến biết bồ-tát trụ Đại bát-nê-hoàn và dùng
thần lực để làm việc ấy. Lại nữa thiện nam! Bậc bồ-tát trụ Đại bát-nê-hoàn nắm hết tất cả
quốc độ mười phương bỏ vào tay phải, như người thợ nung nắm lấy bánh xe làm bằng đất nung ném qua phương khác, xa đến
vô lượng thế giới vi trần, mà các
chúng sinh không bị nhiễu hại, và chẳng tự hay ai đem mình đi, ai
an trí mình vào
thế giới ấy, chỉ trừ
chúng sinh có được
tri kiến biết bồ-tát trụ Đại bát-nê-hoàn và dùng
thần lực để làm việc ấy. Lại nữa thiện nam! Bậc bồ-tát trụ Đại bát-nê-hoàn lấy
hết thế giới khắp cả
mười phương bỏ vào
hạt bụi, mà các
chúng sinh chẳng hề
tổn hại, và chẳng tự hay ai đem mình đến
an trí tại đó, ngoại trừ
chúng sinh có được
tri kiến, biết bồ-tát trụ Đại bát-nê-hoàn, và dùng
thần lực để làm việc đó. Này
thiện nam tử! Đại bồ-tát trụ Đại bát-nê-hoàn có
đại thần lực,
thị hiện vô số những việc như vậy, cho nên gọi là Đại bát-nê-hoàn. Những việc bồ-tát đã làm khi trụ Đại bát-nê-hoàn tất cả
chúng sinh không thể lường được. Nay ông làm sao có thể biết được
Như Lai gần gũi với năm món dục, và làm
thân phụ của La-hầu-la? Lại nữa thiện nam! Ta trụ ở trong Đại bát-nê-hoàn là vì việc lớn, ở trong ba ngàn
đại thiên thế giới, trăm ức
mặt trời và cả
mặt trăng, trăm ức cõi nước Diêm-phù-đề này
hóa hiện nhiều cách,
y như cảnh giới định
Thủ Lăng Nghiêm[161] đã nói, ở trong ba ngàn
đại thiên thế giới và Diêm-phù-đề đều lấy Đại bát-nê-hoàn để
thị hiện nê-hoàn, nhưng mà chẳng phải nhập bát-nê-hoàn
một lần sau cuối, mà còn
trở lại cõi Diêm-phù-đề ở trong
năm dục thị hiện thụ thai,
cha mẹ của Ta gọi Ta là con, nhưng Ta từ thuở
quá khứ xa xưa,
vô số kiếp trước đến nay đã đoạn sạch hết
ái dục, không còn thụ thân
nhiễm ô bất tịnh, không còn thụ
thân thụ thực ô uế, thân Ta chính là
pháp thân thanh tịnh, sự sinh đã đoạn. Ta dùng
trí tuệ phương tiện tùy thuận, ở Diêm-phù-đề
thị hiện sinh ra làm một
đồng tử, khi vừa sinh ra, bước về hướng bắc bảy bước và nói: “Trong loài trời, người đến a-tu-la chỉ có mình Ta là tôn quý nhất, không ai sánh bằng”.
Cha mẹ vui mừng cất tiếng khen rằng: “Ta sinh đứa con, vừa mới
chào đời đã đi bảy bước, là chuyện hiếm trong
cuộc đời này”! Vào lúc bấy giờ, mọi loài
chúng sinh đều nói kỳ lạ, nhưng Ta chưa từng làm thân
đồng tử.
Từ vô lượng kiếp
đến nay Ta đã lìa hạnh
anh nhi,
pháp thân thanh tịnh, chẳng phải là thân gân cốt xương thịt,
thức ăn nuôi lớn.
Pháp thân thị thiện
tùy thuận thế gian, làm thân
đồng tử, hướng về phương nam bước đi bảy bước là muốn chỉ rõ, trong mọi
phước điền Ta là hơn hết; hướng về phương tây bước đi bảy bước là muốn nói rõ, Ta sẽ là người
hoàn toàn đoạn tận
sinh lão bệnh tử, trong cõi
chúng sinh đây là thân cuối; hướng về phương đông bước đi bảy bước là muốn nói rõ trong mọi
chúng sinh Ta là bậc thầy
dẫn đường tối thượng; hướng về bốn gốc bước đi bảy bước là muốn nói rõ Ta sẽ đoạn tận mọi thứ
tà thuyết,
quét sạch phiền não, hành động của ma,
thiên tử Tự Tại đều phải
hàng phục, và Ta sẽ thành
Ứng Cúng Đẳng Giác; nương giữa
hư không, nhẹ đi bảy bước là Ta
thị hiện không bị
nhiễm ô, như
hư không kia; hướng về phương dưới, bước đi bảy bước là muốn nói rõ, Ta sẽ phá bỏ tất cả lửa dữ ở trong
địa ngục, nổi mây pháp lớn, rưới mưa pháp lớn,
an lạc chúng sinh, mưa trận mưa đá
đại pháp đè bẹp tất cả
ác giới. Ta sinh ở cõi Diêm-phù-đề này
thị hiện vẫn còn búi tóc là muốn cho
chúng sinh biết búi tóc trên đầu của
đồng tử kia
chư thiên,
loài người không ai có thể cầm dao đến cắt búi tóc ở trên đỉnh đầu Ta được. Trong
vô số kiếp Ta đã
từ bỏ búi tóc này rồi, nay lại
thị hiện vẫn còn búi tóc là để
tùy thuận thế gian mà thôi. Ta
thị hiện vào trong miếu thờ trời,
đại lực thiên thần,
Thích Phạm hộ thế[162] cúi đầu
cung kính đảnh lễ sát chân, vì
vô số kiếp Ta đã làm thầy của cả trời, người, nay
thị hiện vào miếu trời là để
tùy thuận thế gian. Ở Diêm-phù-đề Ta còn
thị hiện việc đeo khoen tai, nhưng thật ra chẳng có người nào dám đeo khoen cho Ta. Mái tóc xoắn tròn, rủ xuống bên phải như bờm
sư tử, hết thảy
nhân dân đều thấy tóc Ta như bờm
sư tử, nhưng
vô số kiếp Ta đã
từ bỏ mái tóc rủ ấy, nay Ta
thị hiện mái tóc xoắn tròn, rủ xuống bên phải như bờm
sư tử là để
tùy thuận thế gian mà thôi. Ở Diêm-phù-đề, Ta cũng
thị hiện vào trong học đường, nhưng trong
ba cõi không ai có thể làm thầy Ta được, duy chỉ có Ta làm thầy trời, người,
vì vậy cho nên gọi Ta là bậc
Nhất thiết chủng trí[163]. Nhiều kiếp Ta đã từng học
thành tựu trí tuệ vô thượng, nhưng nay
thị hiện vào trong học đường là để
tùy thuận chúng sinh mà thôi. Ta cũng
thị hiện cưỡi voi, cưỡi ngựa, xử dụng xe báu, giữ các kho báu, thân ở thâm cung hưởng thụ
dục lạc,
lãnh đạo việc nước, nhưng thật chưa từng bị những thứ đó làm cho
nhiễm trước, vì từ lâu xa Ta đã xả ly tất cả thứ ấy như bỏ đàm giải. Ta còn
thị hiện thụ năm món dục,
lãnh đạo việc nước, làm
Chuyển luân vương, vua Diêm-phù-đề, nhưng
vô số kiếp Ta đã
từ bỏ địa vị vua chúa, vận
chuyển pháp luân cam lồ vô thượng, nay Ta
thị hiện làm vua
Chuyển luân chỉ là
tùy thuận thế gian mà thôi. Ở Diêm-phù-đề Ta cũng
thị hiện thấy cảnh sinh, già, bệnh, chết, rồi Ta
từ bỏ cung vàng điện ngọc với mọi
dục lạc xuất gia,
mọi người đều thấy
đồng tử xuất gia, nhưng Ta chỉ vì
hóa độ chúng sinh và để
tùy thuận thế gian nên mới
thị hiện xuất gia. Ta cũng
thị hiện chứng đắc bốn quả của bậc sa-môn là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán,
trải qua chín lớp thứ tự
thiền định[164], tu
bốn chân đế,
chúng sinh đều thấy Ta rất mau chóng thành bậc La-hán không ai
sánh bằng, nhưng nhiều
kiếp trước Ta đã
chứng quả cứu cánh La-hán, nay vì
hóa độ mọi loài
chúng sinh cho nên
thị hiện lần đầu tiên chứng. Ta lại
thị hiện đến
dưới gốc cây trải cỏ làm tòa,
hàng phục chúng ma
thành đạo vô thượng, nhưng nhiều
kiếp trước Ta đã
hàng phục tất cả chúng ma và mọi
phiền não, đã
chứng đắc được
pháp vị cam lộ. Ta cũng
thị hiện thở ra hít vào, đại tiện
tiểu tiện, nhưng thân Ta là
pháp thân thanh tịnh đâu có các thứ
phiền phức đó nữa, mà chỉ
thị hiện theo cách
thế gian.
Thị hiện ăn uống là vì
chúng sinh, kỳ thật Ta chẳng có niệm
đói khát,
thị hiện ăn uống là để
tùy thuận theo cách người đời. Trong
vô số kiếp Ta thường
chứng đắc các ba-la-mật[165]
thậm thâm vi diệu, nên chẳng còn bị
thời tiết chi phối, nhưng phải
tùy thuận theo cách
thế gian,
thị hiện ở trong nhà cửa phòng xá, kỳ
thật không có mấy việc ngủ nghỉ, ợ, ngáp
phiền phức.
Thị hiện ngồi, nằm,
kinh hành,
dòm ngó, liếc qua, liếc lại, ngẩng lên, cúi xuống, kỳ thật
pháp thân của Ta không có các
cử chỉ đó.
Thị hiện tắm rửa,
thân thể sức dầu, dùng cành
dương chi để mà súc miệng, nhỏ thuốc sáng mắt, nhưng mà
pháp thân đâu có
sử dụng những thứ không được
thanh tịnh như vậy.
Thân thể của Ta, tay chân mềm mại như cánh
lá sen, miệng ngát hương hơm như hoa ưu-bát, đôi mắt
trong sáng tựa như
mặt trăng, nhưng để
tùy thuận thế gian nên phải
thị hiện thế kia. Ta còn
thị hiện sống hạnh
thiểu dục,
khất thực xin ăn, mặc đồ
phấn tảo[166], nhưng nhiều
kiếp trước Ta đã
thực hành thành tựu cứu cánh đời sống của một sa-môn
khổ hạnh. Ta
thị hiện giữa
nhân gian làm cha của La-hầu-la, làm con của vua tên là
Tịnh Phạn, mẹ là Ma-da,
quyến thuộc đầy đủ, nhưng có khả năng
từ bỏ cuộc sống an vui
thế tục xuất gia học đạo, sống ở trong rừng, ngồi
dưới gốc cây, đoạn mọi thô tế của năm món dục và những
trạng thái thọ lạc khác nhau. Bỏ ngôi vương tử
dòng họ Cù-đàm,
thị hiện xuất gia hóa độ chúng sinh.
Như Lai không hề đắm nhiễm năm món
dục lạc khi làm cha La-hầu-la. Ta
thị hiện có đầy đủ
cha mẹ là để
tùy thuận theo cách
thế gian,
chúng sinh đều thấy Ta là người thường, kỳ thật
Như Lai chẳng như người trời, chẳng giống người đời. Lại nữa, ở Diêm-phù-đề
Như Lai thị hiện nhập bát-nê-hoàn nhưng mà không phải vào nê-hoàn hẳn,
chúng sinh đều bảo
Như Lai vĩnh diệt, nhưng mà
pháp thân Như Lai thường trụ, chẳng phải là pháp thay đổi,
hoại diệt.
Thị hiện nê-hoàn là
pháp thường trụ của các chư Phật. Có khi
thị hiện làm một tì-kheo phạm bốn tội trọng,
mọi người đều thấy, nhưng mà kỳ thật Ta
chưa bao giờ thể hiện giải đãi. Hoặc lại
thị hiện làm nhất-xiển-đề, hoặc
phá hoại Tăng,
mọi người đều thấy Ta tạo
tội nghiệp địa ngục Vô gián, nhưng mà kỳ thật Ta không hề có tâm
phá hoại Tăng, thật ra không ai
phá hoại Tăng được. Ở Diêm-phù-đề Ta còn
thị hiện hộ trì chính pháp,
mọi người đều thấy Ta là
đại sĩ hộ pháp đắc lực, nhưng đây chỉ là
pháp thường của Phật và hàng bồ-tát. Ở Diêm-phù-đề hiện làm
Thiên ma ai cũng đều thấy, kỳ thật Ta không tạo nghiệp của ma. Ở Diêm-phù-đề hiện làm thân nữ, ai cũng
ngạc nhiên: Lạ thay, hôm nay người nữ thành Phật! Nhưng mà kỳ thật
Như Lai chưa từng làm thân
nhi nữ,
tùy theo nhân duyên và chỗ mong cầu của mọi
chúng sinh mà
thị hiện làm thân nam, thân nữ. Ở Diêm-phù-đề Ta
thị hiện vào
bốn loài súc sinh,
mọi người đều bảo là
súc sinh thật, kỳ thật Ta không tạo nghiệp
súc sinh,
thị hiện vào đó là để
tùy thuận thế gian mà thôi. Ta lại
thị hiện vào chúng
Phạm thiên, làm thầy bọn họ, chỉ vì
phương tiện dẫn dắt
chúng sinh phụng thờ Phạm thiên để khiến cho họ kính tin
chính pháp chứ Ta không hề tạo
nghiệp Phạm thiên,
hiện tướng Phạm thiên chỉ là
tùy thuận thế gian mà thôi. Ta lại
thị hiện vào trong nhà chứa độ các
dâm nữ, không hề khởi lên
ý tưởng tham dục, tâm như
hoa sen chẳng nhiễm bùn nhơ.
Thân tướng trang nghiêm, đến khắp những nơi
ồn ào náo nhiệt,
phương tiện dẫn dắt,
giáo hóa chúng sinh có tâm
nhiễm ô. Ta lại
thị hiện vào trong kỹ viện hiện làm kỹ nữ nhưng dùng
chính pháp giáo hóa mọi người; vào trong học đường
thị hiện làm thầy dạy bọn trẻ con; hoặc vào quán rượu, chiếu bạc, hý viện để
giáo hóa người, nhưng Ta không hề tạo nghiệp như họ; đến nơi gò mả độ các chim thú, nhưng Ta chẳng phải là thân
súc sinh; vào nhà
trưởng giả truyền trao
chính pháp; vào chốn đại thần chỉ dạy việc nước; vào chỗ
thái tử dạy làm
hộ pháp; vào nhà vương hầu làm bậc tiên vương vận dụng
chính pháp để mà
trị quốc; Ta còn
thị hiện ra các mầm bệnh nhân đó chữa trị những người bệnh ấy, rồi đem
chính pháp dạy họ chán lìa
bệnh khổ của thân,
chúng sinh cho rằng thật có mầm bệnh; Ta cũng
thị hiện mất mùa đói khát rồi đem
thức ăn cam lộ bố thí cho những
chúng sinh đói khổ
trở về nương tựa
chính pháp,
chúng sinh bảo rằng thật có kiếp đói; Ta còn
thị hiện trận kiếp đao binh, khiến cho
chúng sinh tổn hại lẫn nhau, nhân đó mới đem
chính pháp giáo hóa khiến họ hòa vui,
chúng sinh cho rằng thật có tai kiếp đao binh chiến trận; Ta lại
thị hiện tướng trạng
vô thường như lửa thiêu đốt, để dạy cho những
chúng sinh chấp thường,
chúng sinh đều bảo thật có
tai họa lửa dữ thiêu đốt. Mỗi loài
chúng sinh đều đồng
ngôn ngữ giống loài của mình, nhưng ai cũng cho tiếng nói loài mình hơn mọi loài khác, nên Ta
tùy thuận âm thanh họ ưa mà
hóa độ họ. Ta lại
thị hiện đủ cả bốn loại đất, nước, gió, lửa,
tùy loại chúng sinh mê đắm loài nào nhân đó độ họ. Ta lại
thị hiện làm những cây thuốc, tùy mỗi căn bệnh chữa trị
độ thoát chúng sinh bệnh đó. Ta lại
thị hiện vào chúng
ngoại đạo xuất gia làm thầy dẫn dắt bọn họ, nhưng
vô lượng kiếp Ta đã lìa hẳn nghiệp
ngoại đạo rồi,
thị hiện như vậy cốt đem
chính pháp độ họ mà thôi. Ta lại
thị hiện làm thợ khéo tay, làm thầy thuốc giỏi, làm thầy bùa chú, là để
giáo hóa mọi loài
chúng sinh và các
ngoại đạo lòng đầy
kiêu mạn, vận dụng
chính pháp hàng phục mọi loài
tà mạn,
kiêu mạn,
cống cao,
ngã mạn,
chúng sinh thấy vậy cho Ta là người
thế tục tầm thường, nhưng Phật
thường trụ lìa pháp
thế gian. Thậm chí Ta cũng
thị hiện làm kẻ tôi tớ hạ tiện để mà
tùy thuận độ cho bọn họ. Trong Diêm-phù-đề
thị hiện vô số nghiệp chủng khác nhau, kỳ thật
Như Lai chưa từng làm việc giống như bọn họ.
Thị hiện vô số tướng loài là để
tùy thuận thế gian. Trong các cõi nước, Bắc Uất-đan-viết, Tây Câu-da-ni, Đông Phất-vi-kiến, hai mươi lăm cõi[167],
cho đến ba ngàn
đại thiên thế giới, Ta đã
tùy thuận theo pháp
thế gian hóa hiện vô vàn và nói rõ trong Lăng Nghiêm tam-muội.
Như Lai thành tựu trí
đại phương tiện,
mọi việc Phật làm đều là
thị hiện,
vì vậy gọi là Đại bát-nê-hoàn.
Bậc đại bồ-tát trụ
công đức Đại bát-nê-hoàn tất có khả năng
tùy duyên biến hóa vô số giống loài chẳng hề
sợ hãi. Ông chớ
nghi ngờ Ta làm
thân phụ của La-hầu-la. Phải biết
Như Lai từ
vô số kiếp đã lìa biển lớn
sinh tử ái dục. Do đó
Như Lai là
pháp thường trụ, chẳng phải là pháp
biến đổi, hư hoại.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Nếu
Đức Như Lai là
pháp thường trụ, chẳng phải là pháp hủy diệt từ từ, chẳng phải là pháp biến dị đổi thay,
vậy thì tại sao
Như Lai khen ngợi việc nhập nê-hoàn? Thí như đèn tắt, ánh sáng của nó đi về chốn nào không ai biết được?
Phật bảo Ca-diếp:
- Ông
ví như vậy không đúng ý Ta. Này
thiện nam tử! Thí như cây đèn đựng đầy dầu mỡ thắp lên sẽ sáng, đến khi dầu hết gọi là đèn tắt, nhưng mà kỳ thật cây đèn vẫn còn.
Như Lai cũng vậy, loại dầu
phiền não đã cháy hết rồi, nhưng đèn
Như Lai vẫn còn chẳng mất. Nếu như dầu mỡ và đèn đều hết thì
đức Như Lai nê-hoàn cũng vậy. Lửa tắt đèn còn,
vì vậy Như Lai an lạc nê-hoàn chẳng còn chẳng mất. Lại nữa thiện nam! Ta nói đèn tắt là để
thí dụ bậc A-la-hán, chẳng phải để nói về pháp nê-hoàn. Bậc A-la-hán
đắc quả tăng thượng[168] thì đã diệt sạch mọi thứ
tham muốn thức ăn ô uế ở trong
cuộc đời, thí như đèn tắt. Bậc A-na-hàm nghĩa cũng như vậy.
Vì vậy Ta đã
phương tiện nói pháp
vi diệu bí mật, chẳng nói nê-hoàn.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Bậc A-na-hàm có nghĩa là gì?
Phật bảo Ca-diếp:
- Không còn
trở lại thụ thân này nữa là A-na-hàm.
Bồ-tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng:
- Kính bạch
Thế Tôn,
Như Lai cũng giống những nhà
ảo thuật, có pháp bí mật?
Phật bảo:
- Không phải! Pháp của Ta thuyết
ví như trăng thu tròn đầy không khuyết, lìa dâm, nộ, si, không có
che dấu, cũng không
bí mật. Như ông
trưởng giả lắm tiền nhiều của, chỉ có một con,
thương yêu hết mực, đem đến nhà thầy để học
bán tự[169]. Chưa được bao lâu, sợ con học vậy lâu được thành tài,
trưởng giả đem con về lại nhà mình ngày đêm
ân cần dạy cho
bán tự. Thế nào
thiện nam, người cha chỉ dạy con học
bán tự có thể biết được tất cả
các loại ký luận hay chăng?
Nếu có thể biết tất cả ký luận
vậy thì tại sao người cha chỉ dạy
bán tự mà thôi? Với đứa con yêu lẽ đâu ông ấy dấu giếm không dạy ký luận hay sao?
Ca-diếp
bạch Phật:
- Dạ không Thế Tôn! Vì đứa trẻ con chưa thể hiểu luận cho nên không dạy. Nếu ông
tham tiếc giấu kín thì mới gọi là che giấu, đằng này
lòng dạ thẳng ngay khích lệ,
tùy sức đứa trẻ từ từ dạy dỗ nên không thể nói là che giấu được.
Phật bảo Ca-diếp:
-
Lành thay! Lành thay! Này
thiện nam tử! Đúng như ông nói, với tâm giận hờn,
tham lam,
keo kiệt giữ lại
bí mật gọi là che giấu, nhưng Ta dùng
tâm từ bi thương yêu tất cả
chúng sinh y như con một, chỉ vì thấy con còn nhỏ không thể kham nhận
giáo pháp thậm thâm vi diệu cho nên chưa dạy, như ông
trưởng giả lúc đầu dạy con chỉ dạy
bán tự. Ta cũng như vậy, dạy
chín bộ kinh, mười trí,
mười lực, bốn
chân diệu đế, tám phần
thánh đạo, luận ký
thậm thâm, nhưng với
giáo pháp Đại thừa phương đẳng thì chưa thể dạy. Lại nữa thiện nam! Như ông
trưởng giả dạy đứa
con cưng, trước học
bán tự, học
bán tự xong,
lần lượt mới dạy ký luận
thâm sâu, khiến con
thông hiểu. Ta cũng như vậy, trước vì
đệ tử dạy
chín bộ kinh, khi biết
đệ tử đã
thông hiểu rồi, sau đó mới dạy luận ký
Đại thừa:
Như Lai trường tồn, chẳng phải là pháp thay đổi biến dị, khiến mọi
chúng sinh mở rộng mắt huệ. Này
thiện nam tử! Thí như
mùa hạ, khi mây kéo về, sấm chớp rền vang ắt có mưa to, trăm loại
thảo mộc đều được
thấm nhuần. Ngày nay
Như Lai cũng
y như vậy, kéo mây
sấm sét khởi
đại pháp âm
tuyên thuyết giáo pháp vi diệu bí mật Đại bát-nê-hoàn, ắt hẳn có mưa
pháp vũ cam lồ an lạc chúng sinh.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Như
Thế Tôn dạy chẳng hề giấu giếm,
rõ ràng như việc đưa cơm vào miệng. Nhưng còn
ý nghĩa như chim bay qua ở giữa bầu trời dấu vết khó tìm thì là thế nào?
Phật bảo Ca-diếp:
- Giấu là gom chứa, lấy về cho nhiều; giếm là cất giữ, cất giữ những gì đã nhận về được; đó là
ý nghĩa hai chữ giấu giếm. Giấu giếm có hai: một là
hữu vi, hai là
vô vi. Giấu giếm
hữu vi là những
Thanh văn. Giấu giếm
vô vi chính là
Như Lai. Tăng có hai loại, đó là đẳng Tăng và
vô đẳng Tăng. Đẳng
Tăng chính là hàng Tăng
Thanh văn. Hàng Tăng
Thanh văn cũng không giấu giếm,
vậy mà ngày nay tại sao có người nhận nuôi đầy tớ, cất giữ tiền bạc; đến như dầu vừng, muối ăn v.v…
Như Lai còn không cho họ cất giữ, lẽ nào
Như Lai cho họ nuôi chứa những vật như trên. Nếu ai bảo rằng
Như Lai cho phép, kẻ ấy
đời đời bị
đọa lạc vào
địa ngục Cắt Lưỡi. Đẳng Tăng
Thanh văn không có giấu giếm,
rõ ràng như việc đưa cơm vào miệng; tâm tư của họ không hề
tham tiếc,
như không tham tiếc mùi vị thức ăn, nơi mà họ đến như dấu chim qua, khó lòng tìm được. Những hạng người đó mau chóng
thành đạo Vô thượng chính giác. Dấu vết khó tìm gọi là
Như Lai. Hàng
Tăng hữu vi còn không giấu giếm, huống Tăng vô vi! Tăng
vô vi là
chư Phật Như Lai.
Chư Phật Như Lai há có bí mật? Nếu có
bí mật mới là giấu giếm. Khó tìm chính là chỉ cho nê-hoàn
an lạc bất động, không có các tướng
hư không, nhật, nguyệt, mây, mưa, đất, nước, lửa, gió, sinh già, bệnh, chết,
phiền não.
Thường trụ bất biến,
an lạc bất động gọi là nê-hoàn. Vì chứng nê-hoàn nên gọi
Như Lai đại bát-nê-hoàn. Đại có nghĩa là làm những việc lớn. Đại là tên gọi số đếm
hữu vi, nếu có người nào
thọ mạng dài lâu, thì gọi người đó là bậc
đại thọ. Người có khả năng
vận hành Phật pháp là bậc
đại nhân ở trong
loài người. Người nào
thành tựu tám điều giác ngộ của bậc
đại nhân, gọi là
đại nhân. Cho nên chữ đại là tên số đếm của
pháp hữu vi. Nê-hoàn nghĩa là lìa mọi ung nhọt. Thí như một người bị trúng tên độc,
đau đớn vô cùng, may nhờ gặp được thầy thuốc chữa trị, vết thương
đau đớn ắt được chữa lành. Người
thiện nam đó lìa khỏi ung nhọt, ông thầy thuốc ấy lại qua nước khác chữa bệnh ung nhọt cho mọi
chúng sinh.
Đức Phật Như Lai,
Ứng Cúng Đẳng Giác cũng làm như thế, tất cả
chúng sinh trong Diêm-phù-đề
từ vô lượng kiếp bị nhiễm các độc
phiền não tham dâm, giận hờn,
si mê làm cho khổ đau,
Như Lai dùng thuốc
pháp vị cam lộ Đại thừa để trị những
bệnh khổ ấy. Những
chúng sinh này dứt
bệnh khổ rồi, Ta lại
thị hiện đi qua nước khác chữa trị
bệnh khổ chúng sinh ở đó,
vì vậy nên gọi Đại bát-nê-hoàn.
Nghĩa lý chân thật và nghĩa
phương tiện đều được gọi là Đại bát-nê-hoàn. Ta
thị hiện vào
sáu nẻo luân hồi và đường
giải thoát, bất cứ chỗ nào,
tùy theo chỗ cảm thụ của
chúng sinh mà Ta
giáo hóa, vì
ý nghĩa này cho nên gọi là Đại bát-nê-hoàn.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Cách chữa trị bệnh của ông thầy thuốc,
phải chăng trị dứt
bệnh khổ mọi người ở chỗ này xong, ông lại
xuất hiện ở một
nơi khác trị bệnh cho người?
Phật bảo:
- Đúng vậy! Này
thiện nam tử, có thể
điều trị tất cả các bệnh khiến cho được lành, chỉ trừ bệnh nặng không thể chữa được. Chư
Phật Thế Tôn cũng giống như vậy, trừ nhất-xiển-đề,
mọi người còn lại đều được chữa khỏi.
Ca-diếp lại thưa:
-
Giải thoát là gì? Có bao nhiêu loại?
Phật bảo Ca-diếp:
-
Giải thoát có hai, sắc và
vô sắc.
Vô sắc chính là
giải thoát của hàng
Thanh văn,
Duyên giác. Sắc là
giải thoát của
đức Như Lai.
Giải thoát thuộc sắc, không nói đến sắc. Bởi vì sao vậy?
Ví như chúng sinh ở cõi
Phi tưởng, Phi
phi tưởng kia, thân vừa có sắc, vừa không có sắc, nhưng đâu thể nói là họ có sắc. Nếu ai hỏi rằng
chúng sinh Phi tưởng, Phi
phi tưởng kia, thân vừa có sắc, vừa không có sắc, nhưng đâu thể nói là họ có sắc, thì họ sẽ trụ vào ở chỗ nào? Khoái lạc ra sao? Ông
trả lời rằng đó là
cảnh giới của các chư Phật, chẳng phải là điều
Thanh văn,
Duyên giác có thể biết được.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Cúi xin
Thế Tôn giảng lại
ý nghĩa giải thoát nê-hoàn của
Phật Như Lai.
Phật bảo Ca-diếp:
-
Giải thoát nghĩa là
xa lìa mọi sự
trói buộc hòa hợp. Lìa
hòa hợp là sinh mà
không sinh, như có
cha mẹ mới sinh ra con thì gọi là sinh, còn như
giải thoát thì không như vậy, nó như
đề hồ tính vốn
tinh khiết, không nhờ
cha mẹ ái dục nuôi lớn, vì độ
chúng sinh thị hiện có sinh, nên
giải thoát là sinh mà chẳng sinh. Lại nữa sinh là như gieo
hạt giống nó nảy thành mầm, còn
nghĩa giải thoát thì không như vậy, nên nói
giải thoát vốn chẳng phải sinh.
Giải thoát như vậy chính là
Như Lai. Thế nên
Như Lai sinh mà
không sinh, tạo tác nhưng mà không hề tạo tác. Tạo tác thật sự là như thành quách, lầu quán do người tạo tác mà ra,
giải thoát chân thật thì không như vậy,
giải thoát nghĩa là không người tạo tác.
Giải thoát như vậy chính là
Như Lai.
Vì vậy nên biết
Như Lai nghĩa là không còn tạo tác, gọi là
vô vi. Còn nghĩa
hữu vi, thì như thợ gốm lấy đất sét nặn ra các đồ dùng, có làm có hư,
giải thoát chân thật thì không như vậy, không có tạo tác, không có hư hoại,
vì vậy giải thoát là không tạo tác, là không hư hoại.
Sự giải thoát đó tức là
Như Lai. Nên biết
Như Lai không sinh, không tử,
vì vậy Như Lai là
pháp vô vi, nên nói
Như Lai nhập đại nê-hoàn không có các tướng già suy sức yếu.
Thân thể khô gầy,
thể lực suy kém,
tóc bạc răng rụng là tướng già yếu,
giải thoát chân thật thì không như vậy,
vĩnh viễn xa lìa các tướng già suy gọi là
giải thoát,
giải thoát như vậy gọi là
Như Lai.
Như Lai không có các tướng già suy nên gọi không bệnh. Hễ nói tới bệnh thì có bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh,
ngoài ra đau ốm đột ngột thì nhiều không thể kể hết. Lìa mọi bệnh này gọi là
giải thoát,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai.
Pháp thân thanh tịnh, không có
bệnh hoạn cho nên mới nói
Như Lai vô bệnh. Vì không có bệnh nên chẳng có chết.
Chúng sinh thường chết, vì chẳng
giải thoát, có tận có tử.
Vĩnh viễn thoát khỏi sự chết
trói buộc gọi là
giải thoát.
Sự giải thoát đó tức là
Như Lai.
Như Lai thành tựu vô lượng công đức thượng diệu như vậy. Nói rằng
Như Lai vẫn còn bị chết là điều
hoang đường. Thân của
Như Lai pháp thân kim cương,
thanh tịnh không hoại, cho nên không chết, lìa mọi
cấu uế, thì làm sao có tướng của
vô thường biến hoại đổi thay. Thí như váng sữa đọng lại từng lớp trắng ngần
tuyệt đẹp,
giải thoát chân thật thì không như vậy. Giống như sen trắng,
thanh tịnh vô nhiễm,
giải thoát của Phật cũng giống như vậy,
vĩnh viễn xa lìa ái dục nhơ bẩn,
vì vậy Như Lai gọi là
vô nhiễm, lìa mọi ngăn ngại. Nếu có người chủ quản chế nghiêm ngặt gọi là ngăn ngại,
giải thoát chân thật thì không ngăn ngại,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, nên
Như Lai là
vô ngại thanh lương. Đối với người đời, chốn
thanh lương nhất chính là
cõi trời, nhưng nói như vậy là lời dối gạt, bởi vì chỉ có
giải thoát mới là
chân thật thanh lương.
Sự giải thoát đó chính là
Như Lai, nên
Như Lai là
thanh lương an ổn. Sự
an ổn đó, thí như đường đi không gặp giặc cướp gọi là
an ổn,
giải thoát chân thật thì không như vậy,
tính không sợ hãi gọi là
an ổn,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, nên
Như Lai là
an ổn vô úy, lìa mọi
sợ hãi. Sự
sợ hãi đó, thí như
quốc vương thường sợ
kẻ thù,
giải thoát chân thật trọn không
sợ hãi, thí như ông vua
Chuyển luân thánh vương chẳng có
sợ hãi,
giải thoát chân thật cũng giống như vậy,
sự giải thoát đó chính là
Như Lai.
Như Lai chuyển vận bánh xe
pháp vương tối thắng vô thượng chẳng có
kẻ thù,
vì vậy Như Lai không sợ không lo. Sự lo sợ đó, thí như
quốc vương có người mưu phản mà không khả năng để
hàng phục nó nên thường lo sợ.
Giải thoát chân thật thì không có những nỗi lo như vậy, thí như
quốc vương đã
hàng phục được
kẻ thù trong nhà không còn
lo lắng,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai.
Như Lai không có
lo âu sợ hãi, lìa mọi bợn nhơ. Sự bợn nhơ đó thí như gió xuân thổi tung bụi đất,
giải thoát chân thật lìa mọi bụi bặm, như
Chuyển luân vương cột
viên minh châu ở trong búi tóc bụi không vấy bẩn,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, cho nên
Như Lai lìa mọi bợn nhơ, lìa mọi
hư dối. Sự
hư dối đó dụ như ngói bể,
giải thoát chân thật thì không như vậy, giống như
kim cương chắc
thật không bể,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, cho nên
Như Lai là không
hư dối, luôn luôn
tự tại. Không được
tự tại là như những người bần cùng
thiếu nợ tài vật của chủ, bị chủ quản chế chẳng được
tự do.
Giải thoát chân thật thì không như vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, nên
Như Lai là
tự tại vô ngại, chẳng ai xâm hại. Sự xâm hại là, thí như một người
mùa xuân chịu nóng,
mùa hạ uống rượu,
mùa đông chịu rét, thì thân
tổn thương, tự xâm hại mình.
Giải thoát chân thật thì không như vậy, chẳng bị xâm hại,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai. Nên
Như Lai là không bị xâm hại, lìa mọi nhơ bẩn, thí như
hư không chẳng chút bợn nhơ.
Giải thoát chân thật cũng
y như vậy, chẳng có bợn nhơ,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai. Nên
Như Lai là không có bợn nhơ, không còn
ràng buộc.
Ràng buộc nghĩa là vương vấn bạn bè,
bà con quyến thuộc,
giải thoát chân thật thì không còn sự
ràng buộc như vậy, như
Chuyển luân vương vui thú
một mình không cần bè bạn,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, nên
Như Lai là chẳng ai ngang bằng. Như loài
hoa sen sinh ra trong nước là chuyện
bình thường,
hoa sen sinh ra từ ở trong lửa mới là kỳ đặc,
mọi người ưa thích,
giải thoát chân thật cũng
y như vậy,
mọi người ưa thích,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, cho nên
Như Lai là bậc
hy hữu, kỳ đặc
vô cùng chẳng ai sánh kịp. Thí như trẻ con chưa mọc răng được, thì không thể khiến cho răng mọc liền,
giải thoát chân thật cũng
y như vậy, kẻ sống
phi thời buông lung phóng túng mà được
chứng quả thì không thể có, như nhất-xiển-đề,
giải đãi làm biếng, nằm dài suốt ngày mà nói
thành Phật là chuyện
hoang đường.
Giả sử cư sĩ tại gia năm giới tin sâu
Phật pháp muốn cầu
giải thoát đến bờ bên kia còn không thể được, huống là những kẻ lười biếng nằm dài. Vì sao như vậy? Bởi vì
bản tính thì không thể nhờ kẻ khác mà thành, cho nên
giải thoát chẳng ai sánh kịp,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
vì vậy Như Lai không ai sánh kịp,
vô lượng vô số. Thí như biển lớn vẫn lường đếm được,
giải thoát chân thật chẳng lường chẳng đếm,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, nên
Như Lai là
tối thắng vô lượng. Sự
tối thắng đó chẳng thể
so sánh, thí như biển lớn không gì
sánh bằng,
sự giải thoát đó chính là
Như Lai, nên
Như Lai là vời vợi
tối thắng. Sự vời vợi đó thí như
hư không chẳng gì
vượt qua,
sự giải thoát đó chính là
Như Lai,
Như Lai vời vợi, vua trong hàng thánh, thí như
sư tử chúa tể muôn loài,
giải thoát chân thật là vua các pháp, ánh sáng
giải thoát chiếu khắp các pháp,
sự giải thoát đó chính là
Như Lai, cực kỳ cao tột. Như trong các cõi thì Uất-đan-viết[170] là
thù thắng nhất,
giải thoát tối thượng cũng
y như vậy,
sự giải thoát đó chính là
Như Lai, nên
Như Lai là
tối thượng bậc
nhất không gì cao hơn, như trong các cõi thì Uất-đan-viết là
thù thắng nhất,
vô thượng giải thoát cũng
y như vậy,
sự giải thoát đó chính là
Như Lai, nên
Như Lai là
pháp thường vô thượng. Giống như sự chết đối với trời, người là
pháp thường vậy, nhưng với
pháp thường của
sự giải thoát thì không như vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, nên
Như Lai là
thường trụ kiên cố. Cây chuối, bọt nước thì không bền chắt,
giải thoát chân thật thì không như vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, lìa mọi
tệ lậu. Thí như vách gỗ đã bị
mục nát là chỗ sinh sống của loài mối mọt, còn
sự giải thoát thì không như vậy, như tường sơn láng không gì bám trụ,
giải thoát như vậy tất cả điều ác không thể nhiễm được,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, chẳng có
giới hạn. Thí như
tụ lạc, quốc thổ mới có
ranh giới giới hạn,
giải thoát chân thật thì không như vậy, thí như
hư không khoái lạc
vô biên,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
vi diệu vô cùng, chẳng có dấu vết. Như chim bay ngang dấu vết chẳng hiện,
giải thoát không còn để lại dấu vết cũng
y như vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
thâm sâu khó lường.
Cha mẹ sinh thành,
nuôi dưỡng lớn khôn,
ân đức thậm thâm không thể đo lường,
giải thoát chân thật cũng
y như vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
thâm sâu khó thấy. Như các
chúng sinh, mỗi mỗi tự thân đều có
bản tính Như Lai của mình rất là
vi diệu nhưng lại sâu kín rất là khó thấy,
giải thoát chân thật vi diệu bí mật khó thấy hơn vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, không thể thấy được. Giống như
đỉnh tướng[171] không thể thấy được,
giải thoát như vậy chẳng phải
Thanh văn và hàng
Duyên giác có thể thấy được,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, không có nhà cửa. Gọi là nhà cửa bởi có phòng ốc làm chỗ cư trú,
giải thoát chân thật thì không như vậy, thí như
hư không,
vĩnh viễn không thể làm chỗ ở cho hai mươi lăm cõi
sinh tử cư ngụ,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, không có nắm giữ. Nắm giữ nghĩa là, như tay cầm nắm trái a-ma-lặc[172],
giải thoát chân thật thì không như vậy, như nhà
ảo thuật làm trò
biến hóa không thể nắm được,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, lìa mọi uế tạp. Uế tạp nghĩa là như dùng da trâu lốm đốm nhiều màu để làm
y phục,
giải thoát chân thật thì không như vậy, thí như lấy sữa đúng thời đúng kỳ, thì thứ sữa ấy một màu một vị,
giải thoát chân thật cũng
y như vậy, một tướng
vi diệu,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
bản tính thanh tịnh. Nước
ao tù đọng thì không
trong sạch,
giải thoát chân thật thì không như vậy, như nước trời mưa một vị
trong sạch,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
bản tính chân diệu. Giống như trăng trong chẳng chút mây che,
giải thoát cũng vậy
chân diệu vô nhiễm,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
chân diệu định tĩnh. Cứu lửa đang cháy hừng hực trên đầu thì
không định tĩnh, còn
sự giải thoát diệt sạch
tai họa phiền não đốt cháy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, tính nó
bình đẳng. Không
bình đẳng là như hai người điên,
tính không bình thường,
giải thoát chân thật thì không như vậy,
bản tính bình đẳng giống như
mẹ con,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
bản tính tịch diệt, đến
chỗ tối thượng, không còn điều gì để mong cầu nữa, giống như một người
đói khát cùng cực mà được cơm ngon no đủ thỏa ý thì chẳng mong cầu thêm điều
gì nữa,
giải thoát chân thật cũng
y như vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, tính đã đoạn tận. Thí như lưỡi câu, mồi câu, dây câu đều đã đoạn sạch,
giải thoát chân thật cũng
y như vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, đã đến bờ kia. Thí như dòng sông có bến có bờ,
sinh tử vô lượng gọi là bờ này,
giải thoát chân thật gọi là bờ kia,
giải thoát chân thật tức là
Như Lai,
thanh tịnh lắng sâu. Lắng sâu nghĩa là chẳng như nước sông mà như biển lớn,
giải thoát chân thật cũng
y như vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, chỉ thuần một vị, như cư-xá tử[173], thuần một
vị đắng,
giải thoát chân thật thì không như vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, lìa mọi
buông lung.
Buông lung tức là
đam mê năm dục,
giải thoát chân thật thì không như vậy, tính nó
thanh tịnh, lìa dâm, nộ, si,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
điều phục khát ái. Ái có hai loại: niệm ái,
pháp ái.
Pháp ái tức là
thương nhớ chúng sinh,
giải thoát chân thật không có niệm ái, lìa ngã,
ngã sở,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, tính nó diệt tận. Hết thảy
tập khí sinh tử trói buộc đều đã diệt hết gọi là
giải thoát,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
ví như thế gian là nơi
che chở mọi
sự tạo tác,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, làm chỗ nương tựa cho cả
thế gian. Thí như
quốc vương dạo chơi nước nhỏ,
giải thoát chân thật thì không như vậy,
bất động khoái lạc gọi là
giải thoát,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, ở bất cứ đâu cũng thường
an ổn. Chẳng hạn ở nơi đồng trống có nhiều hiểm nạn,
sợ hãi,
giải thoát chân thật thì không như vậy, giống như
sư tử chúa tể muôn loài chẳng có
sợ hãi,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, thoát mọi
bức bách. Thí như một người bị
thú dữ đuổi chẳng ai
cứu hộ để
thoát hiểm nạn,
giải thoát chân thật thì không như vậy. Như người lái thuyền, được con thuyền tốt
vượt qua biển lớn,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, thoát mọi nhơ bẩn. Thí như từ sữa mà làm ra lạc, rồi lại từ lạc làm ra sinh tô, rồi từ sinh tô làm ra thục tô, rồi từ thục tô làm ra
đề hồ, chỉ có
đề hồ mới có
tính chất tinh khiết bậc nhất, lìa mọi bợn nhơ,
giải thoát cũng vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
hàng phục tâm niệm
cống cao ngã mạn. Thí như
quốc vương cao mạn tự
đại bảo rằng chẳng ai có thể bằng mình,
giải thoát chân thật thì không như vậy, lìa mọi
tâm niệm cống cao ngã mạn,
vô ngã,
ngã sở,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
diệt trừ vô minh. Thí như từ sữa mà làm ra lạc
triển chuyển tương sinh
cho đến đề hồ, như vậy
đề hồ là chất
tinh khiết, tự nó không còn tạp chất, nhơ bợn,
giải thoát cũng vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, thoát dục nhàn tĩnh, không có hai pháp ngang nhau bằng nhau. Thí như voi chúa, không
ở chung đàn,
giải thoát cũng vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, lìa mọi dối lừa,
giải thoát ngã sở, vào
Như Lai tạng[174]. Thân của trời, người và a-tu-la không được chắc thật, như cây
y lan[175], cây lau, cây chuối, chẳng có bền chắc, lìa
Như Lai tạng.
Giải thoát chân thật thì
thể nhập trong
mật tạng Như Lai, lìa mọi
hư ngụy, đoạn tất cả hữu,
giải thoát cũng vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, vào
chính pháp Phật. Phi
chính pháp là như hoa bách diệp,
giải thoát chân thật thì không như vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, nhập vào
nhất tính. Muôn tính nghĩa là tính mọi
chúng sinh,
thọ mạng sai khác là
thọ mạng của tất cả
chúng sinh,
giải thoát chân thật thì không như vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, nhập vào nhất xứ. Mọi ngõ
thể nhập không có
ngã sở,
giải thoát cũng vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai.
Thiện pháp nghĩa là, thí như đứa con có hiếu
cha mẹ,
giải thoát cũng vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai. Ra khỏi
thế gian nghĩa là vượt trên tất cả các pháp, trong tất cả vị thì vị
giải thoát chân thật là nhất,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
trạm nhiên bất động. Động ở đây là như biển nổi sóng,
giải thoát chân thật thì không như vậy, phướng nhân-đà-la[176] gió bốn phương thổi vẫn không lay động,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, thẳng lên nhà Pháp. Nhà của
thế gian lớn lắm cũng như cung điện của vua,
giải thoát chân thật thì không như vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai. Ánh sáng chiếu lòa như luyện
vàng ròng,
giải thoát cũng vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai. Nghỉ ngơi khoái lạc, thì như
quốc vương vừa
hàng phục xong các nước đối địch
thân tâm khoái lạc,
giải thoát chân thật xả trừ
khổ ấm, nê-hoàn khoái lạc,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
đạt đến cứu cánh, chẳng còn dư tàn, lìa mọi
trói buộc lao ngục
sinh tử. Thí như tù nhân mãn hết tội tù được cho ra ngục,
giải thoát cũng vậy,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, lìa mọi kết độc. Như
được giải thoát vô lượng phiền não,
độc xà kết hoạn, đoạn tất cả hữu, lìa tất cả khổ, được tất cả lạc,
được giải thoát mãi,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, lìa dâm, nộ, si. Tất cả phiễn não đã đoạn hết sạch, nhổ gốc
ba độc,
giải thoát vô dư,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, lìa tất cả hữu.
Đoạn diệt hoàn toàn tất cả
chư hữu,
thể nhập nê-hoàn,
cứu cánh giải thoát,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
siêu việt các ấm.
Siêu việt tất cả các pháp
bất thiện,
giải thoát lâu dài,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, lìa nơi tự ngã và mọi
ngã sở.
Cuộc đời vô ngã,
vô ngã chân thật thì
Phật tính sẽ
hiển hiện rõ ràng,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, tính như
hư không.
Hư không nghĩa là không thể nắm bắt những gì vốn có, những gì vốn không, như các Ni-kiền có niệm
sở hữu và không
sở hữu,
giải thoát chân thật thì không như vậy. Lại nữa, về nghĩa chữ không, thì như bình mật,
nếu không có mật gọi là bình không, kỳ thật chẳng phải không có cái bình, do không có vật gì ở trong đó, nên gọi bình không, nhưng mà
hình sắc cái bình vẫn còn cho nên biết rằng chẳng phải không có, nghĩa chẳng phải không của
sự giải thoát cũng
y như vậy, có hình có sắc cho nên mới nói chẳng phải là không. Đã diệt
hoàn toàn vô lượng phiền não, hai mươi lăm cõi,
luân chuyển sinh tử,
thế giới hành xứ tới lui đã hết, giống
như không có mật ở trong bình gọi là bình không, đã diệt
hoàn toàn mọi thứ họa hoạn nên gọi là không, giống như cái bình. Lìa pháp
thế gian,
chu du khắp chốn, lòng thường khoái lạc, chẳng hề lay động,
thường trụ bất biến, nhưng cái bình kia là pháp
vô thường, còn
sự giải thoát thường trụ bất biến, cho nên gọi là không mà chẳng không,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, lìa chỗ
chấp trước.
Chấp trước nghĩa là mê làm
Đế thích,
Đại lực,
Phạm thiên.
Tuệ giác tròn đầy nghĩa là
giải thoát mọi sự
ái chấp,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai,
tham dục diệt hết. Tất cả mong cầu về sự
tham muốn cũng đều diệt hết, thoát mọi
đam mê gọi là diệt hết, sự diệt hết đó tức là
giải thoát,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai, nê-hoàn khoái lạc.
Trạng thái nê-hoàn,
ví như bầy nai thấy đám thợ săn sợ đến chết khiếp, trốn vào núi sâu, gặp động tiên nhơn liền được yên nghỉ
an ổn khoái lạc, sự khoái lạc đó gọi là nê-hoàn.
Trạng thái nê-hoàn chẳng hề
chấm dứt,
giải thoát hoàn toàn tất cả các hữu,
vô lượng sinh tử,
phiền não đảo điên,
oan gia trái thù,
phương tiện trốn vào gặp được động tiên đó là
chính pháp, nương tựa chư Phật,
chính Pháp và Tăng,
an ổn khoái lạc
vô lượng chúng sinh.
An ổn khoái lạc tức là nê-hoàn, chẳng hề diệt tận. Nếu
chúng sinh nào
quy y Tam bảo gọi là nê-hoàn, huống là
Như Lai Nhất thiết chủng trí, xả hẳn thân này mà không phải là
an ổn khoái lạc nê-hoàn hay sao! Nhập nê-hoàn là, như kẻ bị say, có người đến hỏi ông
an lạc không? Kẻ say
tỉnh lại đáp rằng
an lạc,
chúng sinh cũng vậy, trong
vô lượng kiếp say vùi
sinh tử trong hai lăm cõi, khi đã tỏ ngộ
an ổn khoái lạc,
an ổn mãi mãi,
giải thoát bất động, không phải diệt tận,
sự giải thoát đó tức là
Như Lai.
Bấy giờ bồ-tát Ca-diếp
bạch Phật:
- Kính bạch Thế Tôn!
Không sinh, không khởi tức là
giải thoát, là
Như Lai chăng?
Phật bảo Ca-diếp:
- Đúng vậy, đúng vậy! Này
thiện nam tử!
Không sinh, không khởi tức là
giải thoát, cũng là
Như Lai.
Bồ-tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng:
- Tính của
hư không,
không sinh không khởi, là
Như Lai chăng?
Phật bảo Ca-diếp:
-
Cứu cánh giải thoát chẳng như
hư không. Lại nữa thiện nam! Tiếng hót
thanh thoát,
vi diệu của chim ca-lăng-tần-già và chim
cộng mạng có giống với loài chim cú hay không?
Ca-diếp
bạch Phật:
- Dạ không, Thế Tôn!
Âm thanh của chúng khác nhau nhiều lắm, không thể
thí dụ. Vì
nhân duyên gì
chư Phật Như Lai lại dùng
phương tiện nói
thí dụ này?
Phật bảo Ca-diếp:
-
Lành thay! Lành thay! Ông khéo hiểu được thâm ý của Phật! Cho nên
giải thoát chính là
Như Lai,
Như Lai tức là
sự giải thoát ấy,
sự giải thoát này không thể ví dụ.
Chư thiên,
loài người, chúng a-tu-la… tất cả muôn loài không thể lấy cái không thể ví dụ làm ví dụ được, chỉ có
Như Lai vì để
giáo hoá mới dùng
phương tiện lấy cái chẳng phải ví dụ để làm ví dụ mà nói về
sự giải thoát. Vì sao như vậy? Bởi
sự giải thoát tức là
Như Lai,
Như Lai chính là
sự giải thoát ấy, không hai, không khác. Không thể ví dụ lấy làm ví dụ như vầng trăng tròn, thân voi trắng lớn dụ như núi tuyết, chư
Phật Thế Tôn cũng
y như vậy, nói đến những điều chẳng phải ví dụ dụ cho
giải thoát, vì để
giáo hoá chúng sinh nên
thuyết pháp phương tiện và
thuyết pháp chân thật.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Vì sao phải
thuyết pháp bằng hai cách?
Phật bảo Ca-diếp:
- Này
thiện nam tử! Thí như có người
khởi tâm sân hận với
đức Như Lai, liền lấy dao kiếm
tổn thương Như Lai, nhưng
đức Như Lai không bị
tổn thương. Này
thiện nam tử,
vậy thì người kia có bị mang tội
Vô gián hay không?
Ca-diếp
bạch Phật:
- Dạ không, Thế Tôn! Bởi vì sao vậy? Bởi thân
Như Lai vẫn được bảo toàn, không
bị thương tổn, cho nên không mắc tội nặng
Vô gián. Thân của
Như Lai pháp thân tự tại, không phải là thân cần được
nuôi dưỡng, làm sao tổn hại!
Tuy nhiên người kia
khởi tâm độc ác, vì
lý do đó mắc tội
Vô gián. Đây là cách
thuyết pháp phương tiện và
thuyết pháp chân thật.
[875c]
Phật bảo:
-
Lành thay! Lành thay! Này
thiện nam tử! Pháp của Ta thuyết cũng giống như vậy. Lại nữa thiện nam!
Ví như có một đứa con bất hiếu muốn hại mẹ mình. Bà mẹ biết được nên đã bỏ xứ chuyển đi
nơi khác. Đứa con không biết mẹ mình đã đi, nên về quê cũ,
đem theo dao gậy, rồi tự bảo rằng đã giết mẹ mình, nhưng mà kỳ thật thì chưa giết mẹ. Thế nào thiện nam! Như đứa con đó có bị đọa vào
địa ngục Vô gián?
Ca-diếp
bạch Phật:
- Dạ không, Thế Tôn! Nếu như sự việc giết mẹ đã được
thực hiện hoàn tất thì mới mang tội địa ngụcVô gián, nhưng nay
thân thể của người mẹ kia không bị
tổn thương thì chưa mang tội
địa ngục Vô gián, nhưng sẽ mang tội
tương tự Vô gián, cũng như
Vô gián, như vậy gọi đây là thuyết
phương tiện và
pháp chân thật.
Bồ-tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng:
-
Lành thay! Lành thay! Thế Tôn khéo dạy
phương tiện đáng làm và không đáng làm.
[875c]
Phật bảo Ca-diếp:
- Vì có
nhân duyên nên mới
tuyên thuyết về pháp
giải thoát, vì có
nhân duyên nên mới giảng rộng về các
thí dụ.
Thành tựu vô lượng công đức như vậy gọi là nê-hoàn, cũng là
Như Lai, và đó chính là hướng đến bên kia đại bát-nê-hoàn. Hôm nay
Như Lai sẽ nhập nê-hoàn, vì
ý nghĩa đó cho nên gọi là đại bát-nê-hoàn.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Đúng thật
Như Lai không hướng đến sự diệt tận
hoàn toàn. Chúng con nay biết
thọ mạng Như Lai là
vô cùng tận.
Phật bảo Ca-diếp:
-
Lành thay! Lành thay! Này
thiện nam tử!
Hộ trì chính pháp phải nên như vậy, phải diệt tất cả mọi tâm
nghi ngờ, học trí
quyết định. Này
thiện nam tử! Như vậy là bậc đại bồ-tát đã
thành tựu bốn pháp, khéo léo
thuyết giảng bộ kinh phương đẳng Đại bát-nê-hoàn.
Kinh Đại bát-nê-hoàn, hết quyển 3