KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG GIÀ
Thích Nữ Trí Hải
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà.
Chùa Tịnh Luật xuất bản PL. 2546
CHƯƠNG X
Bấy giờ Thế Tôn muốn nói lại các nghĩa rộng trong Tu Đa La (kinh) này nên nói bài kệ:
Các pháp không chắc thật
Đều do phân biệt sinh
Vì phân biệt là không
Bị phân biệt không có
Do hư vọng phân biệt
Mà có các thức sinh
Tám, chín thức các món
Như sóng lớn trong biển
Tập khí thường tăng trưởng (1)
Tâm chuyển theo cảnh giới
Như sắt với nam châm
Tính chúng sinh sở y
Xa lìa các suy lường
Cùng lìa trí, sở tri
Chuyển y đặng giải thoát
Được như huyễn tam muội
Siêu quá nơi thập địa
Khi quán thấy tâm vương
Tưởng thức đều xa lìa
Khi tâm đã chuyễn y
Ấy gọi là thường trụ
Ở nơi Liên Hoa cung
Khởi ra các huyễn cảnh
Đã ở cung ấy rồi
Tự tại không dụng công
Lợi ích cho chúng sinh
Như mầu ngọc ma ni
Không hữu vi, vô vi
Chỉ trừ vọng phân biệt
Phàm ngu mê chấp giữ
Như thạch nữ mộng con
Nên biết rằng linh hồn
Uẩn, giới, các thứ duyên
Các kiến hữu, phi hữu
Đều không, vô tự tính
Ta dùng phương tiện nói
Nhưng thật không có tướng
Phàm phu vọng chấp giữ
Năng tướng cùng sở tướng
Tất cả biết cùng không
Tất cả không tất cả
Do phàm ngu phân biệt
Phật không giác tự, tha
Các pháp như mộng huyễn
Không sinh, không tự tính
Vì đều là tính không
Không có, bất khả đắc
Ta chỉ nói một tính
Lìa nơi vọng kế chấp
Tự tính không có hai
Chỗ làm của các Thánh
Như tứ đại bệnh suy
Khắp cõi thấy hoa đốm
Cái thấy đó không thực
Thế gian cũng như vậy
Như huyễn hiện các tượng
Cây cỏ cùng ngói sỏi
Mà thật không có gì
Các pháp cũng như vậy
Không năng thủ sở thủ
Không trói không bị trói
Như huyễn như ảo tượng
Như mộng như hoa đốm
Nếu muốn thấy chân thật
Hãy lìa phân biệt, thủ
Nên tu quán chân thật
Tất không Phật, không nghi
Thế gian đồng như mộng
Sắc, của cải đều thế
Nếu thấy được như vậy
Là tối tôn trên đời
Ba giới do tâm khởi
Do mê hoặc thấy có
Lìa vọng không thế gian
Biết rồi chuyển nhiễm y
Sở kiến của phàm ngu
Vọng chấp có sinh diệt.
Bậc trí quán như thật
Không sinh cũng không diệt
Thường hành “vô phân biệt”
Xa lìa tâm, tâm pháp
Trú trời sắc cứu cánh
Lìa các chỗ lỗi lầm
Nơi đấy thành chính giác
Đủ thần thông tự tại
Cùng các định thù thắng
Hóa hiện nơi thành này
Hóa thân vô lượng ức
Du khắp hết các cõi
Khiến ngu phu được nghe
Như hương, khó nghĩ lường
Xa lìa đầu, giữa, cuối
Lại xa lìa hữu, vô
Không nhiều mà hiện nhiều
Không động mà biến khắp
Nói trong thân chúng sinh
Tính chân bị che lấp
Mê hoặc thành huyễn có
Không phải huyễn bị mê
Do tâm mê hoặc nên
Hết thảy đều thành có
Vì chúng trói buộc nhau
Tạng thức sinh thế gian
Như thế các thế gian
Chỉ có giả hiện bày
Các kiến như thác chảy
Có ra pháp và người
Nếu biết được như thế
Tức là chuyễn sở y
Làm con Ta đích thực
Thành tựu pháp tùy thuận
Do ngu phu phân biệt
Pháp cứng, ẩm, ấm, động
Giả danh không có thật
Lại không tướng, sở tướng
Thân hình và các căn
Đều do tám vật thành
Phàm ngu chấp sắc tướng
Thân kia bị lao lung
Phàm ngu vọng phân biệt
Nhân duyên hòa hiệp sinh
Không rõ tướng chân thật
Trôi lăn trong ba cõi
Các chủng tử trong thức
Hay hiện cảnh giới tâm
Do phàm ngu phân biệt
Vọng chấp nơi hai thủ
Vô minh cùng ái nghiệp
Các tâm do đó sinh
Vì vậy Ta biết rõ
Đó là tính y tha
Vọng phân biệt có vật
Mê hoặc các tâm pháp
Phân biệt kia đều không
Mê vọng chấp là có
Tâm bị các duyên buộc
Sinh khởi nên chúng sinh
Nếu xa lìa các duyên
Ta nói không sở kiến
Đã lìa hết các duyên
Tự tướng và phân biệt
Trong thân không sinh khởi
Ta gọi là vô vi
Tâm sở chúng sinh khởi
Năng thủ và sở thủ
Sở kiến đều vô tướng
Phàm ngu vọng phân biệt
Hiển thị A Lại Gia
Tạng thức rất thù thắng
Lìa năng thủ sở thủ
Ta nói là chân như
Trong uẩn không có người
Không ngã, không chúng sinh
Sinh chỉ là thức sinh
Diệt chỉ là thức diệt
Như tranh có cao thấp
Tuy thấy mà không thật
Các pháp cũng như vậy
Tuy thấy mà không có
Như thành càn thát bà
Lại như bóng nắng lòa
Sở kiến thường như vậy
Trí quán không thể có
Nhân duyên cùng thí dụ
Lấy đó mà lập tôn
Càn thành, mộng, vòng lửa
Ảo tượng, ánh mặt trời
Nơi lửa, và mao luân
Lấy đó làm ví dụ
Để bày nghĩa vô sinh
Thế phân biệt đều không
Mê hoặc, như huyễn mộng
Thấy các loài không sinh
Ba cõi không sở y
Trong ngoài cũng như vậy
Thành tựu vô sinh nhẫn
Được như huyễn tam muội
Cùng với Ý sinh thân
Đủ các món thần thông
Các lực và tự tại
Các pháp vốn vô sinh
Không, không có tự tính
Mê hoặc các nhân duyên
Nên nói có sinh diệt
Ngu phu vọng phân biệt
Lấy tâm hiện ra tâm
Cùng hiện các ngoại sắc
Mà thật không có gì
Như định lực quán thấy
Tượng Phật cùng khớp xương
Phân chẻ đến đại chủng
Giả bày ra thế gian
Thân, tài sản, chỗ ở
Ba pháp làm sở thủ
Ý thủ và phân biệt
Ba pháp làm năng thủ
Mê hoặc cùng vọng kế
Là phân biệt năng, sở
Chỉ theo văn tự, cảnh
Mà không thấy chân thật
Hành giả lấy tuệ quán
Các pháp không tự tính
Khi ấy trụ vô tướng
Hết thảy đều dứt bặt
Như lấy mực vẽ gà
Kẻ vô trí vọng thủ
Thật không có ba thừa
Phàm ngu không hiểu được
Nếu thấy các Thanh Văn
Cùng với Bích Chi Phật
Đều là chỗ hóa hiện
Của Bồ Tát đại bi
Ba cõi chỉ là tâm
Phân biệt hai tự tính
Chuyển y lìa nhân pháp
Ấy tức là chân như
Nhật nguyệt ánh đèn lửa
Đại chủng và ma ni
Không phân biệt tác dụng
Chư Phật cũng như vậy
Các pháp như mao luân
Xa lìa sinh, trụ, diệt
Lại lìa thường, vô thường
Nhiễm tịnh cũng như thế
Như bôi thuốc vào mắt
Thấy đất thành sắc vàng
Mà thật trong đất kia
Vốn không có tướng vàng
Kẻ ngu cũng như vậy
Tâm mê loạn vô thỉ
Vọng chấp các pháp thật
Như huyễn như ảo tượng
Nên quán một chủng tử
Cùng phi chủng đồng ẩn
Một chủng hết thảy chủng
Gọi các pháp của tâm
Các chủng tử là một
Chuyển y thành phi chủng
Bình đẳng đồng pháp ấn
Tất đều không phân biệt
Tất cả những chủng tử
Làm nhân cho các thức
Sinh các sự phiền não
Gọi là các chủng tử
Quán tự tính các pháp
Mê hoặc không bỏ đời
Tính vật vốn vô sinh
Biết rõ tức giải thoát
Bậc định quán thế gian
Các sắc do tâm khởi
Vô thỉ tâm mê hoặc
Thật không có sắc, tâm
Như huyễn và Càn thành
Mao luân và ảo tượng
Không có mà hiện có
Các pháp cũng như vậy
Hết thảy pháp không sinh
Chỉ do mê hoặc thấy
Đã do mê vọng sinh
Ngu vọng chấp có hai
Do các thứ tập khí
Sinh các làn sóng tâm
Nếu khi tập khí đoạn
Sóng tâm không còn khởi
Tâm duyên các cảnh khởi
Như tranh nương vào vách
Nếu ở giữa hư không
Làm sao mà họa được
Nếu duyên một ít phần
Khiến tâm kia được sinh
Tâm đã do duyên khởi
Nghĩa duy tâm không thành
Tính tâm vốn thanh tịnh
Cũng như hư không lặng
Đem tâm mà chấp tâm
Do tập khí không khác
Chấp trước tự tâm hiện
Do tâm mà sinh khởi
Sở kiến không ngoài tâm
Nên nói rằng duy tâm
Tạng thức gọi là tâm
Tư lương lấy làm ý
Hay rõ các cảnh giới
Ấy tức gọi là thức
Tâm thường là vô ký (avyàktra)
Ý đủ hai thứ hành
Hiện tại thức đầy đủ
Các pháp thiện, bất thiện
Tu chứng không nhất định
Các địa vào cõi nước
Vượt ra ngoài tâm lượng
An trú không quả tướng
Các sở kiến hữu, vô
Cùng với các món tướng
Đều là do phàm phu
Điên đảo vọng chấp trước
Bậc trí lìa phân biệt
Sự vật đã trái nhau
Do tâm không sắc tướng
Bởi thế vô phân biệt
Các căn đều như huyễn
Cảnh giới thì như mộng
Năng tác cùng sở tác
Hết thảy đều phi hữu
Tục đế có tất cả
Đệ nhất nghĩa tuyệt không
Vô tính của các pháp
Gọi là đệ nhất nghĩa
Trong chỗ vô tự tính
Nhân vì các ngôn thuyết
Nên có các vật khởi
Ấy gọi là tục đế
Nếu không có ngôn thuyết
Các vật khởi cũng không
Trong tục đế không có
Chỉ có lời, không sự
Pháp điên đảo hư vọng
Thật ra không có gì
Nếu đảo là thật có
Thì vô không tự tính
Vì hữu không có tính
Mà pháp điên đảo kia
Hết thảy các vật có
Đều là bất khả đắc
Ác tập huân nơi tâm
Hiện ra đủ các tướng
Mê hoặc nói ngoài tâm
Vọng thủ các sắc hình
Phân biệt vốn là không
Nên phân biệt đoạn được
Vô phân biệt sẽ thấy
Thật tính, chứng chân không
Vô minh huân nơi tâm
Nên thấy các chúng sinh
Như các voi ngựa huyễn
Cùng cây lá và vàng
Như kẻ bị đau mắt
Mê hoặc thấy mao luân
Phàm phu cũng như vậy
Vọng thủ các cảnh giới
Phân biệt, sở phân biệt
Cùng người khởi phân biệt
Chuyển, sở chuyển, nhân chuyển
Do đó sáu giải thoát
Do nơi vọng kế nên
Không địa, không các đế
Lại không có sát độ
Hóa Phật và nhị thừa
Tâm khởi hết thảy pháp
Hết thảy xứ và thân
Tâm tính thật vô tướng
Vô trí thủ các món
Phân biệt mê hoặc tướng
Gọi là y tha khởi
Trong tướng có các tên
Ấy là vì vọng kế
Các duyên pháp hòa hợp
Phân biệt thành danh, tướng
Tất cả đều không sinh
Gọi là viên thành thật
Mười phương các sát độ
Trong chúng sinh, Bồ Tát
Bao nhiêu pháp, Báo Phật
Hóa thân cùng biến hóa
Đều từ cực lạc giới
Của Di Đà mà ra
Ở trong kinh Phương Quảng
Nên biết nghĩa bí mật
Những gì Phật tử nói
Cùng của Đạo Sư dạy,
Đều do Hóa thân nói
Không phải Thật Báo Phật
Các pháp không từng sinh
Cũng không phải không có
Như huyễn, lại như mộng
Như hóa, như Càn thành
Các pháp do tâm khởi
Các pháp do tâm thoát
Tâm khởi không cách khác
Tâm diệt cũng như thế
Vì chúng sinh phân biệt
Các tướng hư vọng hiện
Duy tâm thật không cảnh
Lìa phân biệt, giải thoát
Do phân biệt, hí luận
Tích tập từ vô thỉ
Vì các ác tập huân
Khởi cảnh hư vọng này
Các pháp đều không sinh
Do tự tính vọng kế
Y chỉ nơi duyên khởi
Chúng sinh mê phân biệt
Phân biệt không tương ưng
Thì y tha cũng dứt
Sở trú rời phân biệt
Chuyển y tức chân như
Chớ vọng kế hư vọng
Vọng kế tức không thật
Mê hoặc vọng phân biệt
Năng, sở thủ đều không
Phân biệt thấy ngoại cảnh
Ấy là tính vọng kế
Do hư vọng kế ấy
Duyên khởi tự tính sinh
Tà thấy các ngoại cảnh
Không cảnh chỉ do tâm
Quán sát đúng như lý
Năng, sở thủ đều diệt
Cảnh ngoài thật không có
Tập khí nhiễm ô tâm
Mà chuyển có tợ cảnh
Khi diệt hai phân biệt
Trí tịnh thuộc chân như’
Khởi ra cảnh vô ảnh
Cảnh thánh khó nghĩ bàn
Do cha mẹ hòa hiệp
Như gia ua trong bình
A Lại Gia, ý đủ
Khiến tăng trưởng xích, bạch
Bế thi (pesì) và Trù bào (Ghanàrbuda)
Các thứ uế nghiệp sinh
Gió nghiệp tăng bốn đại
Sinh ra như trái chín
Năm cùng năm và năm
Sang khiếu có chín lỗ
Móng, răng, lông đầy đủ
Đủ rồi bèn sinh ra
Mới sinh như phân trùng
Lại như người tỉnh ngủ
Mắt mở ra thấy sắc
Phân biệt dần tăng trưởng
Phân biệt quyết xong rồi
Các môi răng hòa hiệp
Bắt đầu phát nói năng
Như giống chim anh vũ
Thuận chúng sinh ý lạc
Ta lập ra đại thừa
Không phải chỗ ác kiến
Ngoại đạo không thể thọ
Thừa do Ta tự chứng
Không thể suy lường được
Sau khi Phật diệt độ
Xin nói ai thọ trì
Đại Huệ ! Ông nên biết
Sau khi Ta Niết Bàn
Đời vị lai sẽ có
Kẻ thọ trì pháp Ta
Trong xứ
Tỳ kheo danh đức lớn
Quyết hiệu là Long Thọ
Hay phá luận hữu, vô
Trong thế gian làm rõ
Vô Thượng Đại Thừa Ta
Được Sơ Hoan Hỉ địa
Vãng sinh xứ An Lạc
Trong nghĩa lý duyên khởi
Hữu vô đều không thành
Trong duyên tưởng tượng vật
Phân biệt ra co, không
Kiến ngoại đạo như vậy
Xa lìa pháp của Ta
Danh tự của các pháp
Đã nối nhau nhiều đời
Tập (khí) quá khứ, hiện tại
Xoay vần cùng phân biệt
Nếu không nói ra tên
Tất thế gian mê hoặc
Vì muốn trừ mê hoặc
Nên lập ra danh ngôn
Kẻ ngu phân biệt pháp
Mê hoặc nơi danh tự
Mê hoặc các duyên sinh
Ấy là ba phân biệt
Chấp bất sinh bất diệt
Tự tính như hư không
Tự tính vốn không có
Đấy là tướng vọng kế
Như huyễn, bóng, ảo tượng
Mộng, bóng gương, vòng lửa
Như tiếng vang, Càn thành
Ấy là y tha khởi
Chân như, không, bất nhị
Thật tế cùng pháp tính
(Bhùtakoti, Dharmatà)
Đều không có phân biệt
Ta nói là viên thành
Ngữ ngôn thuộc về tâm
Hư vọng sa nhị biên
Tuệ phân biệt thật đế
Là tuệ không phân biệt
Nơi người trí mới hiện
Nơi người ngu không hiện
Cái hiện nơi trí ấy
Hết thảy pháp không tướng
Như chuỗi đeo vàng giả
Kẻ ngu cho là vàng
Các pháp cũng như vậy
Ngoại đạo vọng suy lường
Mọi pháp vô thủy chung
Ở nơi tướng chân thật
Thế gian đều vô tác
Vọng kế không hiểu được
Các pháp trong quá khứ
Vị lai cùng hiện tại
Hết thảy pháp như thế
Tất cả đều không sinh
Do các duyên hòa hợp
Nên nói có các pháp
Nếu lìa sự hòa hợp
Không sinh cũng không diệt
Mà các pháp duyên khởi
Một, khác đều không có
Lược nói là không sinh
Nói rộng là không diệt
Một đằng “bất sinh không”
Một đằng là “sinh không”
Bất sinh không là thắng
Sinh không tất diệt hoại
Chân như, không, thật tế
Niết Bàn cùng pháp giới
Các thứ ý sinh thân
Ta nói là dị danh
Nơi các kinh luật luận
Khởi phân biệt về tịnh
Nếu không hiểu vô ngã
Là theo lời, không nghĩa
Chúng sinh vọng phân biệt
Sở kiến như sừng thỏ
Phân biệt tức mê hoặc
Như thú khát đuổi bóng
Do nơi vọng chấp trước
Mà khởi ra phân biệt
Nếu lìa nhân vọng kế
Tức không khởi phân biệt
Đại phương quảng sâu xa
Biết các cõi tự tại
Ta vì Bồ Tát nói
Không phải vì Thanh Văn
Ba cõi không, vô thường
Xa lìa ngã, ngã sở
Ta vì các Thanh Văn
Nói tổng tướng như thế
Không trước hết thảy pháp
Đi một mình tịch tịnh
Tư niệm Bích Chi quả
Ta vì Duyên Giác nói
Thân là y tha khởi
Mê hoặc không tự thấy
Phân biệt tự tính ngoài
Mà khiến tâm vọng khởi
Nhờ chứng, nhờ gia trì
Do sinh vào các loài
Do có được trong mộng
Ấy bốn thứ thần thông
Thần thông được trong mộng
Cùng do oai lực Phật
Hay do sinh các loài
Đều không phải “báo đắc”
Do tập khí huân tâm
Nên bóng tợ – vật khởi
Kẻ phàm ngu chưa hiểu
Cho nên nói là sinh
Do nơi vọng phân biệt
Khi còn thấy ngoại tướng
Thì còn tăng thêm vọng
Vì không thấy tâm mê
Vì sao nói có sinh
Mà không nói sở kiến
Khi không vật mà thấy
Nói cho ai? Vì sao?
Thể tâm vốn thanh tịnh
Ý cùng với các thức
Do tập khí thường huân
Mà làm các uế loạn
Tạng thức xa lìa thân
Ý bèn tìm đường nẻo
Thức bày tợ cảnh giới
Thấy rồi tham nắm giữ
Sở kiến đều do tâm
Ngoại cảnh bất khả đắc
Nếu tu quán như thế
Xả vọng đạt chân như
Cảnh giới của định chứng
Nghiệp cùng oai lực Phật
Ba thứ bất tư nghì
Chỗ khó lường của trí
Quá khứ, vị lai, ngã
Hư không cùng Niết Bàn
Ta tùy thế tục nói
Chân đế lìa văn tự
Nhị thừa cùng ngoại đạo
Cùng y chỉ các kiến
Mê hoặc lý duy tâm
Vọng phân biệt ngoại cảnh
La Hán, Bích Chi Phật
Cùng với trí giác Phật
Chủng tử đã thành tựu
Mộng thấy Phật quán đảnh
Huyễn tâm tịch tịnh đến
Vì sao nói hữu vô
Ở đâu, nói cho ai?
Cớ gì, nguyện Phật giải
Vì kẻ mê duy tâm
Ta nói huyễn, hữu, vô
Khi sinh, diệt tương ưng
Tướng sở tướng bình đẳng
Ý thức tên “phân biệt”
Cùng với năm thân thức
Như bóng hình trôi chảy
Từ tâm khởi chủng tử
Nếu tâm cùng với ý
Các thức thân không khởi
Thì được ý sinh thân
Lại được đến Phật địa
Các duyên cùng uẩn, giới
Tự tướng của nhân, pháp
Đều do tâm bày ra
Như mộng cùng mao luân
Quán thế gian huyễn mộng
Y chỉ nơi chân thật
Chân thật lìa các tướng
Lại lìa nhân tương ưng
Cảnh chứng của bậc thánh
Thường trú nơi vô niệm
Mê hoặc nhân tương ưng
Chấp thế gian làm thật
Hết thảy hí luận diệt
Thì mê hoặc không sinh
Mê theo pháp, phân biệt
Si tâm thường hiện khởi
Các pháp không, vô tính
Nói thường hay vô thường
Là kiến của “sinh luận” (utpàdavàdin)
Không phải vô sinh luận (anutpàdavàdin)
Nhất, dị, câu, bất câu
Tự nhiên cùng tự tại
Thời, vi trần, thắng tính
Duyên, phân biệt thế gian
Thức là giống sinh tử
Có giống nên có sinh
Như họa nương nơi tướng
Biết rõ tức liền diệt
Thí như thấy người huyễn
Mà có sinh tử huyễn
Phàm ngu cũng như vậy
Do si có buộc, mở
Hai thứ pháp trong, ngoài
Cùng các nhân duyên kia
Kẻ tu hành quán sát
Đều trụ nơi vô tướng
Tập khí không lìa tâm
Cũng không cùng với tâm
Tuy tập khí trói buộc
Tướng tâm không sai khác
Tâm như áo sắc trắng
Bị tập ý thức nhiễm
Cấu tập làm ô uế
Khiến tâm không hiện rõ
Ta nói như hư không
Không hữu cũng không vô
Tạng thức cũng như vậy
Hữu, vô đều xa lìa
Nếu ý thức chuyển y
Thì tâm lìa cấu loạn
Ta nói tâm là Phật
Đã rõ hết thảy pháp
Đoạn dứt ba tương tục
Lại lìa nơi bốn cú
Hữu, vô đều xa lìa
Các hữu (bhava) thường như huyễn
Bảy địa do tâm khởi
Nên có hai tự tính
Hai địa cùng Phật địa
Chính là viên thành thật
Dục, sắc, vô sắc giới
Cùng với cõi Niết Bàn
Đều ở nơi thân này
Đều là tâm cảnh giới
Khi còn có sở đắc
Thì còn mê hoặc khởi
Nếu biết tự tâm khởi
Thì mê hoặc không sinh
Ta lập hai thứ pháp
Các tướng và thực chứng
Dùng đủ thứ nguyên tắc
Mà phương tiện lập thuyết
Thấy các thứ danh, tướng
Là mê hoặc, phân biệt
Nếu lìa xa danh tướng
Là tính tịch cảnh thánh
Do phân biệt năng, sở
Tất có tướng vọng kế
Nếu lìa phân biệt kia
Tự tính là chỗ thánh
Tâm đã được giải thoát
Là chân lý thường tồn
Chủng tính và pháp tính
Chân như lìa phân biệt
Đã có thanh tịnh tâm
Thì có tạp nhiễm hiện
Không tịnh tức không nhiễm
Là chân tịnh của thánh
Thế gian do duyên sinh
Tăng trưởng thêm phân biệt
Quán nó như huyễn mộng
Khi ấy tức giải thoát
Các thứ ác tập khí
Cùng với tâm hòa hiệp
Chúng sinh thấy ngoại cảnh
Không thấy pháp tính tâm
Tâm tính vốn thanh tịnh
Không sinh các mê hoặc
Mê do ác tập khởi
Cho nên không thấy tâm
Mê hoặc tức là chân
Chân không ở chỗ khác
Không nơi hành, phi hành
Cũng không thấy nơi khác
Nếu quán các hữu vi
Xa lìa tướng, sở tướng
Vì đã lìa các tướng
Thấy thảy đều là tâm
An trụ nơi duy tâm
Không phân biệt ngoại cảnh
Trú sở duyên chân như
Vượt quá ngoài tâm lượng
Khi siêu đến tâm lượng
Cũng siêu đến vô tướng
Đã trú ở vô tướng
Không thấy cả đại thừa
Hành tịch, không dụng công
Tịnh tu các đại nguyện
Trí tối thắng vô ngã
Vô tướng nên không thấy
Hãy quán tâm sở hành
Lại quán trí sở hành
Quán thấy tuệ sở hành
Nơi tướng không mê hoặc
Khổ đế thuộc về tâm
Tập là cảnh của trí (jnàna)
Diệt, đạo và Phật địa
Đều là cảnh của tuệ
Đắc quả và Niết Bàn
Cùng với tám thánh đạo
Khi biết các pháp ấy
Là trí Phật thanh tịnh
Nhãn căn cùng sắc cảnh
Không, minh và tác ý
Nên khiến từ tạng thức
Sinh nhãn thức chúng sinh
Năng, sở thủ, thủ giả
Mỗi thứ đều không có
Không nhân vọng phân biệt
Ấy là kẻ vô trí
Danh, nghĩa không sinh nhau
Riêng danh nghĩa cũng thế
Do nhân, vô nhân sinh
Đều không ngoài phân biệt
Vọng nói trụ chân đế
Tùy kiến giải bày nói
Một tính, năm không thành
Xa lìa nơi đế nghĩa
Hí luận về hữu, vô
Nên vượt các ma ấy
Khi đã thấy vô ngã
Không vọng cầu các cõi
Chấp tác giả là thường
Chú thuật hưng tranh luận
Chân đế lìa ngôn thuyết
Mà thấy pháp tịch tịnh
Do nương vào tạng thức
Mà có mạt na chuyển
Dựa vào tâm và ý
Mà có các thức sinh
Các pháp hư vọng lập
Cùng tâm tính, chân như
Định giả quán như thế
Thông đạt tính duy tâm
Quán ý cùng tưởng, sự
Không nghĩ thường, vô thường
Cùng với sinh, bất sinh
Không phân biệt hai nghĩa
Do nơi A Lại Gia
Các thức đều sinh khởi
Trọn không nơi một nghĩa
Mà sinh hai món tâm
Do thấy duy tự tâm
Lìa không, lìa ngôn thuyết
Nếu không thấy tự tâm
Bị lưới tà kiến trói
Các duyên không từng sinh
Các căn không chỗ có
Không tham, không uẩn, giới
Tất không các hữu vi
Vốn không các nghiệp báo
Không tác không hữu vi
Xưa nay không chấp trước
Không buộc cũng không mở
Pháp hữu, vô, vô ký
Pháp, phi pháp, đều không
Không thời, không Niết Bàn
Pháp tính bất khả đắc
Không Phật không chân đế
Không nhân cũng không quả
Không điên đảo, Niết Bàn
Không sinh cũng không diệt
Lại không mười hai chi
Biên, vô biên không có
Hết thảy kiến đều đoạn
Ta nói là duy tâm
Phiền não nghiệp cùng thân
Quả sở đắc của nghiệp
Đều như huyễn như mộng
Như Càn Thát Bà thành
Vì trụ nơi duy tâm
Nên thấy có đoạn thường
Niết Bàn không các uẩn
Không ngã cũng không tướng
Đã nhập vào duy tâm
Chuyển y được giải thoát
Do ác tập làm nhân
Ngoài hiện ra đại địa
Cùng với các chúng sinh
Duy tâm không thấy gì
Hình bóng, thân, tài sản
Do tập chúng sinh hiện
Tâm không là hữu, vô
Tập khí khiến không rõ
Cấu hiện ra trong tịnh
Không phải tịnh trong cấu
Như mây che hư không
Tâm không hiện cũng thế
Tính vọng chấp nói có
Nơi duyên khởi tất không
Vì vọng kế mê chấp
Duyên khởi không phân biệt.
Không sở tạo đều (là) sắc
Có sắc không sở tạo
Mộng, huyễn, ánh, Càn thành
Đều không phải được tạo.
Nếu nơi pháp duyên sinh
Nói thật cùng không thật
Kẻ ấy tất tin theo
Các kiến nhất cùng dị.
Thanh Văn có ba hạng:
Nguyện sinh và biến hóa
Và lìa tham, sân si
Từ chính pháp sinh ra.
Bồ Tát cũng ba hạng
Chưa có các Phật tướng
Vì nhớ nghĩ chúng sinh
Mà hiện hình tướng Phật
Các loại tâm chúng hiện
Đều từ tập khí sinh
Các loại hình và bóng
Như sao, mây, trời, trăng
Nếu đại chủng thật có
Sẽ có “sở-tạo” sinh
Vì đại chủng vô tính
Nên không tướng năng, sở
Đại chủng là năng tạo
Địa thủy là sở tạo
Đại chủng vốn vô sinh
Nên không sở-tạo-sắc
Sắc giả, thật các thứ
Cùng huyễn sở tạo sắc
Sắc mộng, sắc Càn thành
Sắc nắng là thứ năm
Năm hạng nhất xiển đề
Năm chủng tính cũng vậy
Ngũ thừa cùng phi thừa
Niết Bàn có sáu loại
Các uẩn hai mươi bốn
Các sắc có tám món
Phật có hai mươi bốn
Phật tử có hai loại
Pháp môn trăm lẻ tám
Thanh Văn có ba hạng
Các cõi Phật chỉ một
Một Phật cũng như vậy
Giải thoát có ba loại
Tâm lưu chú có bốn
Vô ngã có sáu thứ
Sở tri cũng có bốn
Xa lìa nơi tác giả
Cùng lìa các lỗi kiến
Trong tự chứng bất động
Là vô thượng đại thừa
Sinh cùng với bất sinh
Có tám thứ chín thứ
Một niệm cùng niệm thứ
Chứng đắc chỉ có một
Vô sắc giới tám thứ
Thiền sai biệt có sáu
Các Phật tử, Bích Chi
Xuất ly có bảy hạng
Ba cõi tất không có
Thường vô thường cũng không
Tác nghiệp và quả báo
Đều như chuyện trong mộng
Chư Phật vốn không sinh
Vì đệ tử Thanh Văn
Tâm thường không thấy được
Các pháp đều như huyễn
Nên ở nơi các cõi
Từ Đâu Suất nhập thai
Sở sinh và xuất gia
Không từ bào thai sinh
Vì chúng sinh lưu chuyển
Mà nói pháp Niết Bàn
Các đế cùng các cõi
Tùy cơ khiến giác ngộ
Thế gian, các châu, rừng
Vô ngã, ngoại đạo, hành
Thiền, thừa, A lại Gia
Quả, cảnh bất tư nghì
Các loài tinh tú, trăng
Các vua, các loài trời
Loài Càn Thát, dạ xoa
Đều do nghiệp ái sinh
Biến-dị-tử khôn lường
Cũng cùng hiệp tập khí
Đến khi chết vĩnh tận
Lưới phiền não đã dứt
Tiền lúa cùng vàng bạc
Ruộng vườn và tôi tớ
Voi ngựa và trâu dê
Đều không nên nuôi giữ
Không nằm giường có lỗ
Không bôi bùn trát đất
Bát bằng vàng, bạc đồng
Đều không được nắm giữ
Ứng khí (vỏ) ốc, pha lê
Đất, đá, cùng bằng sắt
Đấy một lượng Ma kiệt
Tùy bát Ta cho phép
Thường mặc màu thanh tịnh
Nhuộm các mảnh giẻ trắng
Bằng phân trâu, bùn , lá
Thành sắc áo ca sa
Con dao dài bốn ngón
Có hình nửa mặt trăng
Dùng để cắt vải áo
Kẻ tu hành được giữ
Chớ học các kỹ thuật
Lại không được mua bán
Nếu cần, sai tịnh nhân
Đấy là pháp Ta dạy
Thường giữ gìn các căn
Khéo rõ nghĩa kinh luật
Không giao thiệp người tục
Ấy là bậc tu hành
Dưới cây trong hang núi
Nhà thô, trong mả mồ
Hang cỏ cùng đất trống
Kẻ tu hành nên trú
Trong mồ và chỗ khác
Ba y mang theo mình
Nếu khi thiếu áo mặc
Có kẻ cho nên nhận
Khi ra đi khất thực
Nhìn phía trước một tầm
Nhiếp niệm mà xin ăn
Cũng như ong hút mật
Chỗ có nhiều người nhóm
Có chúng tỳ kheo ni
Sinh sống với thế tục
Đều không nên khất thực
Các vua cùng con vua
Quan lớn, kẻ giàu sang
Kẻ tu hành khất thực
Đều không nên thân gần
Nhà có kẻ sinh và chết
Nhà bạn bè, bà con
Chỗ tăng ni hỗn tạp
Người tu hành không ăn
Trong chùa khói không dứt
Thường nấu các món ăn
Nếu vì mình mà nấu
Người tu hành không ăn
Hàng giả quán thế gian
Năng tướng cùng sở tướng
Đều xa lìa sinh diệt
Lại xa lìa hữu vô.