KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG GIÀ
Thích Nữ Trí Hải
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà.
Chùa Tịnh Luật xuất bản PL. 2546
CHƯƠNG II
THỰC HÀNH TẤT CẢ PHÁP
TIẾT I
Đại Huệ Bồ Tát cùng Ma Đế Bồ Tát những vị đã viếng các cõi Phật, bấy giờ nương uy thần Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo bên phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay hướng Phật cung kính nói bài tụng:
Thế gian lìa sinh diệt
Như hoa đốm hư không
Trí không chấp có, không
Hưng khởi tâm đại bi
Vạn pháp đều như huyễn
Xa lìa tâm và thức
Trí không chấp có, không
Hưng khởi tâm đại bi
Thế gian thường như mộng
Xa lìa cả đoạn, thường
Trí không chấp hữu, vô
Hưng khởi tâm đại bi
Không có Phật niết bàn
Không niết bàn cho Phật
Lìa biết và bị biết
Lìa hữu cùng phi hữu
Pháp thân như huyễn mộng
Có gì để ngợi khen
Biết vô tính vô sinh
Ấy mới là khen Phật
Phật không căn, cảnh, tướng
Không thấy là thấy Phật
Làm sao trước Mâu Ni
Mà khởi sự khen chê
Ai ở trước Mâu Ni
Sinh thanh tịnh, xa lìa
Kẻ ấy đời này, sau
Lìa chấp, không chỗ thấy
Nói kệ tán Phật xong, Đại Huệ Bồ Tát tự xưng tên:
Con tên là Đại Huệ
Thông đạt pháp đại thừa
Xin đem trăm tám nghĩa
Kính hỏi đấng Vô Thượng
Nghe lời ấy, đấng Thế Gian Giải nhìn khắp hội chúng rồi dạy rằng:
Các ngươi hàng con Phật
Nay cứ tự do hỏi
Ta sẽ nói cho ngươi
Cảnh giới đã tự chứng
Được Phật chấp thuận, Đại Huệ Bồ Tát đảnh lễ dưới chân ngài xong, thưa hỏi bằng kệ tụng như sau:
Do đâu suy lường sinh ?
Làm sao sạch suy lường ?
Do đâu mê hoặc sinh ?
Làm sao hết mê hoặc ?
Sao gọi là Phật tử
Cùng thứ lớp vô ảnh (niràbhàsa) ?
Do đâu hóa cõi nước
Các tướng và ngoại đạo ?
Giải thoát đến nơi nào ?
Ai bị trói, ai mở ?
Cảnh giới thiền ra sao ?
Tại sao có ba thừa ?
Nhân duyên gì sinh pháp ?
Cái gì nhân gì quả ?
Ai nói lìa bốn nghĩa ?
Do đâu các cõi sinh ?
Sao gọi định vô sắc ?
Sao gọi Diệt Tận Định ?
Thế nào là tưởng diệt ?
Làm sao từ định giác ?
Vì sao sinh hoạt động ?
Thân đi, đứng nắm giữ ?
Làm sao thấy sự vật ?
Làm sao vào các “địa”?
Làm sao có Phật tử ?
Ai phá được ba cõi ?
Ở đâu, thân ra sao ?
Sinh và trú nơi nào ?
Làm sao đặng thần thông
Tự tại và chính định ?
Tâm tam muội ra sao ?
Nguyện Phật vì con nói
Sao gọi là tàng thức ?
Sao gọi là ý thức ?
Làm sao các kiến khởi ?
Làm sao các kiến diệt ?
Tính, phi tính là gì ?
Vì sao nói duy tâm ?
Vì sao kiến lập tướng ?
Sao gọi là Vô ngã ?
Sao là không chúng sinh ?
Sao là tùy tục nói ?
Làm sao để khỏi khởi
Thường kiến và đoạn kiến ?
Sao Phật cùng ngoại đạo
Tướng vốn không khác nhau ?
Làm sao đời vị lai
Có các bộ phái sinh ?
Sao gọi là Tính không ?
Sao gọi sát na diệt ?
Thai tạng từ đâu sinh ?
Sao thế gian bất động ?
Vì sao bảo cuộc đời
Như huyễn, lại như mộng
Như thành Càn Thát Bà
Như ánh nước sa mạc
Như vừng trăng đáy nước ?
“Bồ đề phần” là sao ?
“Giác phần” từ đâu khởi ?
Vì sao cõi nước loạn ?
Vì sao hữu kiến sinh ?
Làm sao biết thế pháp ?
Làm sao lìa văn tự ?
Sao là “như không hoa”?
Không sinh cũng không diệt ?
Chân như có mấy loại ?
“Độ tâm” có mấy loại ?
Sao là như hư không ?
Sao là lìa phân biệt ?
Và thứ tự các “địa”?
Sao là được vô ảnh ?
Sao là hai vô ngã ?
Sao là hết sở tri ?
Thánh trí có mấy loại ?
Có mấy loại giới pháp
Phật chế cho chúng sinh ?
Ngọc báu dòng tôn quý
Từ đâu mà xuất hiện ?
Ai sinh ra ngôn ngữ
Chúng sinh và các vật ?
Năm minh và kỹ thuật
Ai làm cho sáng tỏ ?
Kệ tụng (gàthà) có mấy loại ?
Trường hàng có mấy thứ ?
Đạo lý mấy bất đồng ?
Giải thích bao sai biệt ?
Ăn uống ấy ai làm ?
Ái dục vì sao khởi ?
Sao gọi Chuyển Luân Vương
Cho đến các tiểu vương ?
Làm sao vua giữ nước ?
Chúng trời có mấy loại ?
Đất, mặt trời, trăng, sao
Các thứ ấy thế nào ?
Giải thoát có mấy loại ?
Mấy loại thầy tu hành ?
Sao gọi A Xà Lê ?
Đệ tử bao nhiêu hạng ?
Như Lai có mấy loại ?
Chuyện tiền thân ra sao ?
Chúng ma và dị giáo
Mỗi thứ có bao nhiêu ?
Tự tính bao sai biệt ?
Tâm có bao nhiêu loại ?
Giả lập nghĩa là gì ?
Xin Phật giải thích cho
Từ đâu sinh mây gió ?
Niệm, trí vì sao có ?
Bụi, bờ, cây hàng lớp
Các thứ ấy ai làm ?
Những thú vật voi ngựa
Nhân gì bị bắt giữ ?
Sao có người hèn xấu ?
Xin Phật giải cho con
Sao gọi là sáu thời ?
Nhất xiển đề do đâu ?
Gái, trai và bất nam
Do đâu mà sinh khởi ?
Sao là tu tiến bộ ?
Sao là tu thụt lùi ?
Thầy du già mấy hạng
Dạy người tu pháp ấy ?
Chúng sinh sinh các đường
Hình sắc, tướng ra sao ?
Giàu có, rất an ổn
Ấy là do nhân gì ?
Sao có dòng Thích Ca ?
Sao có dòng Cam Giá ?
Tiên nhân khổ hạnh lâu
Ấy do ai chỉ giáo ?
Làm sao Phật Thế Tôn
Hiện thân khắp các cõi
Chúng Phật tử vây quanh
Đủ các loài sai biệt ?
Vì sao không ăn thịt ?
Nhân gì dạy bỏ thịt ?
Các chúng sinh ăn thịt
Do nhân gì mà ăn ?
Sao có các cõi nước
Trông như hình trời trăng
Tu Di và hoa sen
Chữ vạn, tượng sư tử ?
Sao có các cõi nước
Như lưới trời Đế Thích
Lật úp hoặc nằm nghiêng
Mà thành các món báu ?
Sao có các cõi nước
Như nhật nguyệt không dơ
Hoặc như hình hoa quả,
Ống sáo, trống eo nhỏ
Phật biến hóa là gì (Nirmànikabubdha)?
Và Phật Dị thục sinh ? (Vipàkajabuđha)
Cùng Phật Chân như trí (Tathàtàjnànabuđdha) ?
Xin giải thích cho con.
Vì sao ở Dục giới
Không thành Đẳng Chính Giác ?
Sao ở Sắc Cứu Cánh (Akanistha)?
Lìa nhiễm được trí tuệ ?
Ai sẽ giữ chính pháp ?
Phật trụ thế bao lâu ?
Chính pháp trụ dài, ngắn ?
Tất đàn có mấy loại ?
Kiến chấp có bao nhiêu ?
Vì sao lập luận tạng ?
Cho đến các Tỳ Kheo
Hết thảy các Phật tử
Độc Giác và Thanh Văn
Làm sao chuyển các thức ?
Làm sao được vô tướng ?
Làm sao được Thế thông ?
Làm sao được xuất thế ?
Lại vì nhân duyên gì
Tâm ở trong bảy địa ?
Tăng già có mấy loại ?
Sao gọi là phá tăng ?
Làm sao vì chúng sinh
Rộng nói phương cứu liệu ?
Cớ gì Đại Mâu Ni
Nói lên lời như vầy:
“Ca Diếp, Câu Lưu Tôn
Câu Na Hàm là Ta ?”
Cớ gì nói đoạn thường ?
Và nói ngã, vô ngã ?
Sao không thường nói thật:
“Hết thảy do tâm tạo”?
Sao có rừng nam nữ
Ha Lê (Harìtaki), Am Ma La (Àmalìvana)?
Kê La Bà (Kailàsa), Luân Viên (Cakravàda)?
Cho đến núi kim cương (vajrà)
Trong các chỗ ấy có
Vô lượng báu trang nghiêm
Tiên nhân, Càn thát bà
Tất cả đều sung mãn
Đấy do nhân duyên gì ?
Xin Phật vì con nói
Nghe những lời hỏi về pháp môn tối thượng, pháp môn đại thừa “tâm Phật” vi diệu ấy, đức Thế Tôn liền bảo: “Hay thay, Đại Huệ ! Hãy lắng nghe. Như chỗ ông hỏi, ta sẽ lần lượt nói.” Và ngài nói kệ tụng:
Sinh cùng với không sinh
Niết bàn và vô tướng
Lưu chuyển, vô tự tính
Ba La Mật, Phật tử
Thanh Văn, Bích Chi Phật
Ngoại đạo, hạnh vô sắc
Tu Di cùng biển núi
Cù lao, các cõi đất
Tinh tú và nhật nguyệt
Chúng trời, A tu la
Giải thoát và thần thông
Thiền định và tam muội
Diệt và các thần túc
Bồ đề phần, Bát chính
Thiền cùng vô lượng tâm
Các uẩn cùng đến, đi
Cho đến diệt tận định
Tâm sinh khởi nói năng
Tâm, ý, thức, vô ngã
Năm pháp, ba tự tính
Phân biệt, bị phân biệt
Hai loại kiến năng sở
Cội nguồn của các thức
Vàng, ma ni, trân châu
Dòng họ lớn, xiển đề
Nước hỗn loạn, một Phật
Trí, trí chướng, đắc hướng
Chúng sinh, có cùng không
Voi, ngựa, thú, nhân gì
Vì sao bị bắt giữ
Vì sao nhân, thí dụ
Tương ưng thành tất đàn ?
Sở tác và năng tác
Núi rừng và mê hoặc ?
Lý chân thật “như thị”
Duy tâm, không cảnh giới ?
Các địa không thứ lớp
Không tướng, chuyển sở y ?
Y phương, các nghệ thuật
Kỹ thuật, cùng năm minh ?
Tu Di và núi, đất
Biển, trời trăng bao lớn ?
Chúng sinh thượng, trung, hạ
Mỗi thân bao vi trần ?
Mỗi cung có mấy trữu ?
Câu lô xá mấy cung ?
Nửa do tuần ? Do tuần ?
Lông thỏ và bụi cửa ?
Mỗi thân bao vi trần ?
Rận, lông dê, bột mạch ?
Nửa đấu và một đấu
Gồm bao nhiêu hạt lúa ?
Một hộc và mười hộc
Mười vạn và thiên ức
Cho đến tầm bà la (Vimvara: 10 triệu)
Mỗi món số bao nhiêu ?
Mấy trần (anu) thành giới tử (sarsapa) ?
Mấy giới tử thành thảo tử ?
Lại có mấy thảo tử
Mới thành một hạt đậu (màsa)?
Mấy hạt đậu thành thù (Dharana)?
Mấy thù là một lượng (Karsa)?
Mấy lượng thành một cân (pala)?
Mấy cân thành tu di (meru)?
Đấy những điều nên hỏi
Vì sao hỏi chuyện khác ?
Thanh Văn, Bích Chi Phật
Các Phật và Bồ Tát
Số lượng thân bao nhiêu ?
Mỗi thân mấy vi trần ?
Lửa, gió có mấy trần ?
Mỗi căn có mấy trần ?
Lông mày, lỗ chân lông
Mấy trần thành mỗi thứ ?
Các sự việc như thế
Sao không đem hỏi ta.
Vì sao được giàu có ?
Sao là chuyển luân vương ?
Làm sao vua giữ nước ?
Làm sao được giải thoát ?
Thế nào là Trường Hàng ?
Dâm dục và ăn uống ?
Thế nào rừng nam nữ ?
Các núi, kim cương sơn ?
Như huyễn, mộng, ảo ảnh ?
Mây do từ đâu sinh ?
Thời tiết làm sao có ?
Nhân gì có mùi vị ?
Nam, nữ và bất nam
Phật, Bồ Tát trang nghiêm ?
Sao có các núi đẹp
Tiên càn thát trang hoàng ?
Giải thoát đến chỗ nào ?
Ai bị trói ? Ai mở ?
Sao là cảnh giới thiền ?
Biến hóa và ngoại đạo ?
Sao là vô nhân tác ?
Sao là hữu nhân tác ?
Sao là chuyển các kiến ?
Sao là khởi suy lường ?
Làm sao sạch suy lường ?
Hoạt động từ đâu sinh ?
Sao gọi là chuyển khứ ?
Sao là dứt các tưởng ?
Sao là sinh tam muội ?
Phá ba cõi là ai ?
Chỗ nào, thân ra sao ?
Sao gọi là không ngã ?
Sao là theo tục nói ?
Ông hỏi tướng ra sao ?
Sao gọi là phi ngã ?
Sao gọi là thai tạng
Cùng các chi phần khác ?
Sao là thấy đoạn thường ?
Sao là tâm một cảnh ?
Sao là trí ngôn thuyết ?
Giới, dòng họ, Phật tử ?
Lý luận và giải thích ?
Sao là thầy, đệ tử ?
Tính chúng sinh sai khác ?
Ăn uống và hư không ?
Thông minh, ma, giả lập ?
Vì sao hàng cây bày ?
Các câu hỏi như thế
Nhân gì hết thảy nước
Các loại tướng không đồng ?
Có cõi hình ống tiêu
Trống eo cùng hoa quả
Có chỗ không ánh sáng
Tiên nhân khổ hạnh lâu
Hoặc có giòng họ quý
Khiến chúng sinh tôn trọng
Hoặc có kẻ hạ tiện
Bị người khác khinh khi ?
Vì sao trong cõi dục
Tu hành khó thành Phật ?
Ở cõi sắc cứu cánh
Mới thành đẳng chính giác ?
Vì sao người thế gian
Lại có được thần thông ?
Sao gọi là tỳ kheo ?
Sao gọi là Tăng già ?
Sao là Hóa, Báo thân ?
Phật trí tuệ chân như ?
Làm sao khiến tâm mình
An trú trong bảy “địa”?
Nghĩa này và các nghĩa
Ông nay đều hỏi Ta
Như Phật trước đã nói
Đủ một trăm tám câu
Mỗi mỗi tướng tương ưng
Xa lìa các lỗi chấp
Lại lìa pháp thế tục
Do ngôn ngữ mà thành
Ta nay vì ông nói
Phật tử khá lắng nghe.
Khi ấy Bồ Tát Đại Huệ bạch Phật :
Bạch Thế Tôn ! Sao là 108 câu ?
Phật dạy :
Này Đại Huệ ! Cái gọi là sinh cú (mệnh đề về sinh) phi sinh, thường phi thường, trú dị phi trú dị, sát na phi sát na, tự tính phi tự tính, không phi không, đoạn phi đoạn, tâm phi tâm, trung phi trung, duyên phi duyên, nhân phi nhân, phiền não phi phiền não, ái phi ái, phương tiện phi phương tiện, thiện xảo phi thiện xảo, thanh tịnh phi thanh tịnh, tương ưng phi tương ưng, thí dụ phi thí dụ, đệ tử phi đệ tử, sư phi sư, chủng tính phi chủng tính, tam thừa phi tam thừa, vô ảnh tượng phi vô ảnh tượng, nguyện phi nguyện, tam luận phi tam luận, tiêu tướng phi tiêu tướng, hữu phi hữu, vô phi vô, câu phi câu, tự chứng thánh trí phi tự chứng thánh trí, hiện pháp lạc phi hiện pháp lạc, sát phi sát, trần phi trần, nước phi nước, cung phi cung, dòng giống lớn phi dòng giống lớn, xú lậu phi xú lậu, thần thông phi thần thông, hư không phi hư không, mây phi mây, mỹ thuật phi mỹ thuật, kỹ thuật phi kỹ thuật, gió phi gió, đất phi đất, tâm phi tâm, giả lập phi giả lập, thể tính phi thể tính, uẩn phi uẩn, chúng sinh phi chúng sinh, giác phi giác, Niết Bàn phi Niết Bàn, hiểu biết phi hiểu biết, ngoại đạo phi ngoại đạo, hỗn loạn phi hỗn loạn, huyễn phi huyễn, mộng phi mộng, lửa phi lửa, ảnh tượng phi ảnh tượng, vòng lửa phi vòng lửa, Càn thành phi Càn thành, trời phi trời, ăn uống phi ăn uống, dâm dục phi dâm dục, thấy phi thấy, đáo bỉ ngạn phi đáo bỉ ngạn, thành phi thành, nhật nguyệt tinh tú phi nhật nguyệt tinh tú, đế phi đế, quả phi quả, diệt phi diệt, diệt khởi phi diệt khởi, y phương phi y phương, tướng phi tướng, chi phần phi chi phần, thiền phi thiền, mê phi mê, hiện phi hiện, hộ phi hộ, dòng họ phi dòng họ, tiên phi tiên, vua phi vua, nhiếp thọ phi nhiếp thọ, quý phi quý, ký ức phi ký ức, nhất xiển đề phi nhất xiển đề, nữ nam bất nam phi nữ nam bất nam, mùi vị phi mùi vị, tác phi tác, thân phi thân, suy lường phi suy lường, động phi động, căn phi căn, hữu vi phi hữu vi, nhân quả phi nhân quả, sắc cứu cánh phi sắc cứu cánh, thời tiết phi thời tiết, cây dây phi cây dây, sự vật phi sự vật, diễn thuyết phi diễn thuyết, quyết định phi quyết định, luật tạng phi luật tạng, tỳ kheo phi tỳ kheo, trụ trì phi trụ trì, văn tự phi văn tự. Này Đại Huệ ! 108 nghĩa này đều là những gì Phật quá khứ đã nói.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật :
Bạch Thế Tôn ! Các thức có mấy thứ sinh trú diệt ?
Phật dạy :
- Đại Huệ, các thức có hai thứ sinh trú diệt, không phải dùng suy lường đo tính mà biết được. Ấy là tương tục sinh và tướng sinh, tương tục trú và tướng trú, tương tục diệt và tướng diệt. Các thức có ba tướng : chuyển tướng, nghiệp tướng, chân tướng. Đại Huệ ! Thức nói rộng có 8 thức, lược nói thì có hai : hiện thức và phân biệt sự thức. Đại Huệ ! Như trong gương sáng các hình sắc đều hiện rõ, hiện thức cũng thế. Đại Huệ ! Hiện thức và phân biệt sự thức, hai thức này không khác nhau, chúng làm nhân cho nhau. Hiện thức lấy sự biến hóa “bất tư nghì huân” làm nhân, phân biệt sự thức lấy sự phân biệt cảnh giới và tập khí hý luận từ vô thỉ làm nhân. Đại Huệ ! Những tập khí hư vọng phân biệt của thức A Lại Da diệt thì hết thảy căn thức diệt, ấy gọi là tướng diệt. Đại Huệ ! Tương tục diệt ấy là nhân sở y diệt cùng sở duyên diệt thì tương tục cũng diệt. Nhân sở y là tập khí hý luận hư vọng, sở duyên là cảnh giới do tự tâm thấy và phân biệt thành. Đại Huệ ! Thí như nắm bùn và vi trần không khác nhau, cũng không phải là một. Vàng và đồ trang sức cũng thế. Đại Huệ, nếu bùn và vi trần khác nhau thì đáng lẽ bùn không do vi trần hợp thành, nên nói không khác. Nếu nắm bùn và vi trần không khác, thì đáng ra không thể phân biệt nắm bùn với vi trần. Đại Huệ ! Chuyển thức và tạng thức nếu khác nhau, thì tạng thức không thể làm nhân cho các chuyển thức. Nếu không khác thì khi chuyển thức diệt, lẽ ra tạng thức cũng diệt luôn, song kỳ thật chân tướng của tạng thức không diệt. Đại Huệ ! Chân tướng của tạng thức không diệt, chỉ có nghiệp tướng của nó diệt. Nếu chân tướng diệt thì tạng thức cũng diệt hay sao ? Nếu tạng thức diệt, thì không khác gì thuyết đoạn diệt của ngoại đạo. Đaị Huệ ! Ngoại đạo lập thuyết thế này : cái thức tương tục nắm giữ cảnh giới diệt thì thức tương tục từ vô thỉ cũng diệt. Đại Huệ ! những người ngoại đạo bảo thức tương tục do một tác giả tạo ra chứ không nói nhãn thức do sắc, hình, ánh sáng hòa hợp mà sinh; chỉ nói tác giả làm nhân sinh ra. Tác giả ấy là gì ? Họ kể ra Thắng Tính (Pradhàna), trượng phu (purusa), Tự tại (Ìs’vara), Thời (kàla) và vi trần (anu) là những pháp năng tác. Lại nữa, này Đại Huệ ! có bảy món tự tính, ấy là Tập (Samudaya), Tính (Bhàva), Tướng (Laksana), Đại Chủng (Mahàbhàta), nhân (hetu), duyên (pratyaya), Thành (nispatti). Và nữa, này Đại Huệ, có bảy thứ đệ nhất nghĩa, là: Tâm sở hành (cittagocara), Trí sở hành (Jnànagocara), nhị kiến sở hành (Drstidvayagocara), siêu nhị kiến sở hành (Drstidvayàtikràntagocara), siêu tử địa sở hành, Như Lai sở hành, Như Lai tự chứng thánh trí sở hành (Tathàgatasyapratyàtma-gatigiocarah). Này Đại Huệ, ấy là pháp tự tại, tâm đệ nhất nghĩa của tất cả Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, dùng tâm này mà thành tựu các pháp tối thượng của Như Lai ở thế gian và xuất thế gian, dùng tuệ nhãn của bậc thánh mà thể nhập các tự tướng và cọng tướng, thảy đều an lập. Những gì các bậc ấy an lập không đồng với chỗ lập thuyết của ngoại đạo ác kiến. Đại Huệ ! Sao gọi là ác kiến ngoại đạo ? Ấy là không biết rằng cảnh giới vốn do tự tâm phân biệt mà hiện, đối tự tính đệ nhất nghĩa mà chấp có, không, khởi ra ngôn thuyết. Đại Huệ ! Ta nay sẽ nói, nếu biết rõ cảnh giới là như huyễn, do tự tâm hiện, thì sẽ diệt khổ vì vọng tưởng ba cõi, diệt các vô tri, ái, nghiệp, duyên. Đại Huệ, có những bà la môn và sa môn vọng chấp cái vốn không và cho rằng những pháp hiện ở ngoài y theo nhân quả, thời gian mà trú, hoặc cho rằng uẩn giới xứ theo duyên mà sinh, trú, sau khi hiện hữu thì hoại diệt. Đại Huệ ! Quan niệm của những người kia đối với các pháp như tương tục, tác dụng, sinh diệt, hiện hữu, Niết Bàn, đạo, nghiệp, quả, đế ... đều là lý luận phá hoại, đoạn diệt. Vì sao ? Bởi vì họ không đạt được hiện pháp (pratyaksa), không thấy căn bản. Đại Huệ ! Thí như chiếc bình vỡ không thể làm được việc của nó, lại như hạt giống cháy không thể sinh mầm, đây cũng thế. Nếu các pháp uẩn giới xứ đã hiện sẽ diệt, nên biết đấy tất không phải tương tục sinh, vì chúng không có nhân, chỉ có tự tâm hư vọng thấy thành. Lại nữa, Đại Huệ ! Nếu thức vốn không, do ba duyên hợp mà sinh, thì đáng lẽ rùa cũng sinh lông, cát sẽ sinh dầu; như vậy Tôn (pratijnà) của ngươi hỏng, vì trái với nghĩa quyết định (niyama); những gì lập ra tất sẽ thành vô dụng. Đại Huệ ! Ba pháp hợp làm duyên là do tính nhân quả mà nói, và như vậy có (những pháp như) hiện tại quá khứ vị lai, hữu và vô. Nếu họ cứ ở trên lập trường lý giáo (yuktyàgama) ấy, thì những gì họ chứng minh sẽ là do luận lý, lý giáo của họ, vì ký ức những quan niệm sai lầm sẽ mãi mãi huân tập họ (theo bản Suzuki). Đại Huệ ! Kẻ phàm phu ngu dốt bị ác kiến cắn rỉa, tà kiến mê hoặc, vô trí mà vọng nói là Nhất Thiết Trí. Đại Huệ ! Lại có các sa môn, bà la môn, quán hết thảy pháp không tự tính, như mây giữa hư không, như vòng lửa quay, như thành biến hóa của loài Càn Thát Bà, như huyễn hóa, như ảo ảnh, như trăng dưới nước, như cảnh chiêm bao, tất cả đều không ngoài tâm, chỉ vì cái thấy hư vọng từ vô thỉ mà chấp thật có cảnh giới bên ngoài. Quán như thế rồi, họ bặt dứt các duyên phân biệt, xa lìa danh nghĩa mà vọng tâm ôm giữ, biết rằng thân, tài sản và nhà cửa, tất cả đều là cảnh giới tạng thức, không có năng sở, không có sinh, trụ, diệt, họ thường tư duy như thế không rời. Đại Huệ ! Những đại Bồ Tát ấy không lâu sẽ xem bình đẳng giữa sinh tử và Niết Bàn (samsàranirvàna), được hạnh đại bi phương tiện không cần dụng công, quán sát chúng sinh như huyễn như hóa, như hình ảnh theo duyên mà sinh, biết ngoài tâm không có các cảnh giới. Các vị ấy sẽ thực hành đạo vô tướng, dần tiến lên các “địa”, an trú trong chính định, hiểu rõ ba cõi do tâm, chứng được định Như Huyễn (Màyopamasamà dhi), tuyệt dứt các ảnh tượng, thành tựu trí tuệ, chứng pháp vô sinh, nhập định kim cương dụ (vajravimbopama), sẽ được Phật thân (Tathàgatakàya). Nhưng vị ấy sẽ thường trú trong Như Như (Tathàta) mà khởi các thần thông biến hóa, trang sức bằng tự tại, trí tuệ, phương tiện để dạo chơi các cõi Phật, xa lìa các ngoại đạo. Tâm, ý, thức, lần lượt chuyển y mà thành tựu thân Như Lai. Đại Huệ ! Các vị đại Bồ Tát muốn được thân Phật, phải xa lìa uẩn giới xứ, vì đấy là các pháp do nhân duyên sinh, xa lìa các pháp sinh, trú, diệt, phân biệt, hí luận. Chỉ nên chú tâm quán sát ba cõi là do tập khí hư vọng từ vô thỉ khởi lên, tư duy Phật địa vốn vô tướng, vô sinh, là thánh pháp tự chứng. Như thế sẽ được tâm tự tại, hạnh không cần dụng công, như ngọc ma ni hiện đủ thứ hình sắc, đạt lý duy tâm, tuần tự nhập vào các địa. Bởi thế, này Đại Huệ, các bậc đại Bồ Tát nên siêng tu học chân lý tự chứng này.