KIỀU-TRẦN-NHƯ
Phẩm thứ mười ba – Phần một
Khi ấy,
đức Thế Tôn bảo ông Kiều-trần-như rằng: “Sắc [ấm] là
vô thường. Nhờ phá trừ cái sắc [
vô thường] này mà
đạt được cái sắc
giải thoát, thường còn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng là
vô thường. Nhờ phá trừ [những thọ, tưởng, hành] thức [
vô thường] này mà
đạt được [thọ, tưởng, hành] thức
giải thoát, thường còn.
“Kiều-trần-như! Sắc tức là khổ. Nhờ phá trừ cái sắc [là khổ] này mà
đạt được cái sắc
giải thoát, an vui. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như! Sắc tức là không. Nhờ phá trừ cái sắc [là không] này mà
đạt được cái sắc
giải thoát, chẳng phải không. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như! Sắc là
vô ngã. Nhờ phá trừ cái sắc [
vô ngã] này mà
đạt được cái sắc
giải thoát,
chân ngã. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như! Sắc là
bất tịnh. Nhờ phá trừ cái sắc [
bất tịnh] này mà
đạt được cái sắc
giải thoát,
thanh tịnh. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như! Sắc là tướng của sanh, già, bệnh, chết. Nhờ phá trừ cái sắc [là tướng của sanh, già, bệnh, chết] này mà
đạt được cái sắc
giải thoát, chẳng phải tướng của sanh, già, bệnh, chết. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như! Sắc là nhân của
vô minh cho đến sanh.[161] Nhờ phá trừ cái sắc [là nhân của
vô minh cho đến sanh] này mà
đạt được cái sắc
giải thoát, chẳng phải nhân của
vô minh [
cho đến sanh]. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như! Sắc là
nguyên nhân của
bốn sự điên đảo.[162] Nhờ phá trừ cái sắc [
điên đảo] này mà
đạt được cái sắc
giải thoát, chẳng phải
nguyên nhân của
bốn sự điên đảo. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như! Sắc là
nguyên nhân của
vô số pháp xấu ác như thân nam, thân nữ,
ham muốn sự
ăn uống,
ái dục,
tham lam,
sân hận, tật đố, tâm xấu ác, tâm
keo kiệt bủn xỉn... những sự
ăn uống [nuôi sống] bằng cách nhai nuốt, [nuôi sống] bằng thức, [nuôi sống] bằng
tư tưởng, [nuôi sống] bằng
cảm xúc; sự sanh ra bằng trứng, bằng
bào thai, bằng sự ẩm ướt, bằng cách
biến hóa...
cho đến năm món
dục lạc, năm sự ngăn che... Những
pháp như vậy đều có
nguyên nhân từ sắc. Nhờ phá trừ sắc này mà
đạt được cái sắc
giải thoát, không có
vô số sự xấu ác như vậy. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như! Sắc là
trói buộc. Nhờ phá trừ cái sắc
trói buộc mà
đạt được cái sắc
giải thoát, không
trói buộc. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như! Sắc là sự
lưu chuyển. Nhờ phá trừ cái sắc
lưu chuyển mà
đạt được cái sắc
giải thoát, không
lưu chuyển. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như! Sắc chẳng phải nơi
quay về nương dựa. Nhờ phá trừ cái sắc này mà
đạt được cái sắc
giải thoát, là nơi
quay về nương dựa. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như! Sắc là ung nhọt [
đau đớn đáng ghê tởm]. Nhờ phá trừ cái sắc [như ung nhọt] này mà
đạt được cái sắc
giải thoát, không phải ung nhọt. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như!
Sắc không phải
vắng lặng yên tĩnh. Nhờ phá trừ cái sắc [không
vắng lặng yên tĩnh] này mà
đạt được cái sắc Niết-bàn,
vắng lặng yên tĩnh. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
“Kiều-trần-như! Nếu ai rõ biết những điều như trên, người ấy đáng gọi là sa-môn, bà-la-môn,
thành tựu trọn vẹn các pháp của sa-môn, bà-la-môn.
“Kiều-trần-như! Nếu lìa pháp Phật thì không hề có sa-môn, bà-la-môn, cũng không có các pháp của sa-môn, bà-la-môn. Tất cả
ngoại đạo chỉ tự xưng một cách
giả dối, không hề có
đạo hạnh chân thật. Tuy họ khởi sanh
tư tưởng rằng [trong nhóm của họ] có sa-môn và bà-la-môn, nhưng
thật không thể có. Vì sao vậy?
Nếu không có các
pháp sa môn, bà-la-môn, làm sao nói là có sa-môn, bà-la-môn?
“Ta thường ở giữa
đại chúng này
lên tiếng [
thuyết giảng Chánh pháp rền vang như tiếng]
sư tử rống; các ông cũng nên ở giữa
đại chúng lên tiếng [
thuyết giảng Chánh pháp rền vang như tiếng]
sư tử rống.”
Bấy giờ, có
vô số ngoại đạo nghe những lời ấy rồi sanh lòng
giận dữ, nghĩ rằng: “Nay ông Cồ-đàm nói rằng trong
chúng ta không có sa-môn và bà-la-môn, cũng không có các pháp sa-môn và bà-la-môn.
Chúng ta phải làm sao tìm mọi cách
thích hợp để nói với ông Cồ-đàm rằng trong số
chúng ta cũng có sa-môn và có pháp sa-môn, cũng có bà-la-môn và có pháp bà-la-môn.”
Lúc ấy, trong chúng [
ngoại đạo] có một
Phạm chí đứng lên nói rằng: “Thưa các vị,
lời nói của ông Cồ-đàm chẳng khác nào lời của người điên, làm sao có thể khảo xét? Những người điên ở
thế gian khi thì ca hát, nhảy múa, lúc lại khóc lóc, cười đùa, hoặc chưởi mắng, hoặc
ngợi khen, đối với kẻ oán người thân đều không thể
phân biệt. Sa-môn Cồ-đàm cũng giống như vậy. Hoặc có khi nói là sanh trong
gia đình vua
Tịnh Phạn, có khi lại nói là không sanh; có khi nói là sanh ra rồi liền đi bảy bước, có khi lại nói là không đi; có khi nói là thuở nhỏ học tập các
môn học thế gian, có khi lại nói là người [tự mình] rõ biết tất cả; có khi ở trong cung điện
thọ hưởng khoái lạc, sanh ra con trai, có khi lại
chán ngán,
chê trách đó là
xấu xa hèn hạ; có khi chính mình
tu tập khổ hạnh sáu năm, có khi lại
quở trách sự
khổ hạnh của các đạo khác; có khi nói là theo học với các ông Uất-đầu-lam-phất, A-la-la[163]... được nghe nhận những điều chưa biết, có khi lại nói rằng các ông ấy không
hiểu biết chi cả; có khi nói là
chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề dưới gốc cây bồ-đề, có khi lại nói là không có đến chỗ cây ấy, không có
chứng đắc gì cả; có khi nói rằng thân này của ta tức là Niết-bàn, có khi lại nói thân này diệt mất rồi mới là Niết-bàn. Những lời Cồ-đàm nói ra [như vậy]
thật không khác gì lời của người điên, sao các vị lại vì đó mà
ưu sầu, bối rối?”
Những người bà-la-môn liền đáp rằng: “Thưa ông!
Chúng tôi hôm nay làm sao có
thể không ưu sầu? Trước kia, sau khi
xuất gia, sa-môn Cồ-đàm thuyết dạy những lẽ
vô thường, khổ, không,
vô ngã,
bất tịnh. Những
đệ tử của
chúng tôi nghe vậy lấy làm sợ sệt: ‘Làm sao
chúng sanh lại là
vô thường, khổ, không,
vô ngã, bất tịnh?’ Nên họ chẳng
tin theo lời ấy. Nay ông Cồ-đàm lại đến rừng Sa-la này, vì
đại chúng mà thuyết dạy rằng có những
pháp thường, lạc, ngã, tịnh. Những
đệ tử của
chúng tôi nghe được lời này rồi, ắt sẽ bỏ
chúng tôi mà đi,
tin theo lời dạy của Cồ-đàm. Vì
nhân duyên ấy mà
chúng tôi vô cùng sầu khổ.”
Bấy giờ lại có một vị bà-la-môn nói rằng: “Này các vị! Hãy lắng nghe cho kỹ lời tôi nói đây! Sa-môn Cồ-đàm xưng là người tu hạnh
từ bi,
lời nói ấy là
hư dối, không
chân thật. Nếu có
lòng từ bi, sao lại dạy các
đệ tử của
chúng ta thọ nhận
giáo pháp của ông ấy? Kết quả của [sự tu hạnh]
từ bi là
thuận theo ý người khác, nay ông ấy làm trái
ý nguyện của
chúng ta, sao có thể nói là từ bi?
“Nếu nói rằng sa-môn Cồ-đàm không bị
tám pháp của
thế gian đắm nhiễm, cũng là lời
hư dối. Nếu nói Cồ-đàm có ít
ham muốn, lòng tự biết đủ, vì sao hôm nay lại cướp mất những
lợi ích của chúng ta?
“Nếu nói rằng Cồ-đàm thuộc
dòng họ cao quý, đó cũng là lời
hư dối. Vì sao vậy?
Xưa nay chưa từng nghe thấy việc chúa
sư tử lớn tàn hại loài chuột nhỏ. Nếu Cồ-đàm thuộc
dòng họ cao quý, sao hôm nay lại gây
rối loạn phiền não cho chúng ta?
“Nếu nói rằng Cồ-đàm có đầy đủ
thế lực mạnh mẽ, đó cũng là lời
hư dối. Vì sao vậy?
Xưa nay chưa từng nghe thấy việc chim chúa kim sí đi
tranh giành với chim quạ. Nếu nói [Cồ-đàm thật] có
sức mạnh thì việc gì lại cùng
chúng ta tranh đấu?
“Nếu nói rằng Cồ-đàm có đủ trí Tha tâm, đó cũng là lời
hư dối. Vì sao vậy? Nếu có đủ trí Tha tâm thì do
nhân duyên gì lại không biết được tâm của chúng ta?
“Thưa các vị!
Thuở trước, tôi từng được nghe các
bậc trí giả kỳ cựu nói rằng: Sau một trăm năm nữa,
thế gian sẽ có một con yêu tinh huyễn hoặc
xuất hiện, chính là ông Cồ-đàm này đó. Nay yêu tinh huyễn hoặc ấy đang ở rừng Sa-la này, không bao lâu nữa sẽ [tự hoại] diệt mất. Vậy các vị không nên
sầu não.”
Bấy giờ, có một người thuộc phái Ni-kiền
đáp lại: “Thưa các vị! Nay tôi
sầu khổ không phải vì việc
đệ tử cúng dường cho tôi, mà chỉ vì người
thế gian ngu si tăm tối không có mắt nhìn, chẳng
phân biệt được đâu là
ruộng phước, nên
từ bỏ những vị bà-la-môn
kỳ cựu có trí mà
chạy theo cúng dường những người
tuổi trẻ. Vì thế nên tôi sầu khổ!
“Sa-môn Cồ-đàm rất giỏi
chú thuật. Nhờ sức
chú thuật nên có thể làm cho một thân hóa làm
vô số thân, lại làm cho
vô số thân
trở lại thành một thân; hoặc có thể tự thân
hóa thành kẻ nam, người nữ, bò, dê, voi, ngựa... Sức tôi có
thể diệt trừ
chú thuật như vậy. Khi
chú thuật của sa-môn Cồ-đàm bị diệt rồi, các vị sẽ được
cúng dường trở lại rất nhiều,
thọ hưởng sự an vui.”
Bấy giờ, lại có một vị bà-la-môn nói rằng: “Này các vị! Sa-môn Cồ-đàm
thành tựu đầy đủ
vô lượng công đức, vì thế các vị chớ nên tranh [hơn thua] với ông ấy.”
Đám đông
ngoại đạo đáp rằng: “Kẻ
ngu si kia! Sao ông lại nói rằng sa-môn Cồ-đàm có đầy đủ
công đức lớn? Ông ấy sanh ra vừa được bảy ngày thì mất mẹ, đó có thể gọi là tướng
phước đức hay sao?”
Vị bà-la-môn kia đáp: “Khi bị
mắng chửi mà không tức giận, khi bị đánh đập mà không đánh trả, nên biết rằng đó chính là tướng
phước đức lớn. Thân ông ấy có đủ
Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
vô lượng thần thông, cho nên biết rằng đó là tướng
phước đức. Lòng không
kiêu ngạo, thường
tùy ý [người khác] mà hỏi han;
lời nói ra nhẹ nhàng êm dịu, không
thô tục; tuổi tác và chí khí
đang lúc thanh xuân
cường tráng cũng không hấp tấp,
nóng nảy; [ở cương vị sẽ] làm vua trị nước có nhiều
của cải nhưng không
tham tiếc,
buông bỏ tất cả như nhổ bãi nước bọt ra đi
xuất gia; cho nên tôi nói rằng sa-môn Cồ-đàm
thành tựu đầy đủ
vô lượng công đức.”
Chúng
ngoại đạo đáp rằng: “Lành thay!
Quả thật đúng như lời ông nói, sa-môn Cồ-đàm
thành tựu vô lượng thần thông biến hóa.
Chúng ta không so đo với ông ta việc ấy. Nhưng sa-môn Cồ-đàm sanh ra tánh tình nhu nhuyễn, không chịu nỗi sự
khổ hạnh; sanh trưởng trong cung cấm, không thấu rõ những việc ngoài đời. Ông ấy chỉ biết nói lời êm dịu mà thôi, không
thông thạo các môn kỹ nghệ, sách sử,
luận nghị... Hãy mời ông ấy cùng
chúng ta tranh biện rõ ràng những điều cốt yếu trong
chánh pháp. Nếu ông ấy thắng,
chúng ta sẽ theo hầu hạ ông ấy; nếu
chúng ta thắng, ông ấy sẽ phải
phụng sự chúng ta.”
Bấy giờ có
vô số ngoại đạo cùng họp nhau,
đồng lòng đi đến chỗ vua A-xà-thế, nước Ma-già-đà. Nhìn thấy họ, nhà vua liền hỏi: “Này các vị! Các vị thảy đều
tu tập Thánh đạo, là người
xuất gia,
lìa bỏ của cải cùng những
việc gia đình.
Nhân dân trong nước này đều cùng nhau
cúng dường,
cung kính chiêm ngưỡng các vị, không ai dám
xúc phạm. Vì sao các vị lại
đồng lòng họp nhau đến đây?
“Này các vị! Các vị đều thọ nhận những pháp khác nhau,
giữ giới khác nhau,
xuất thân từ hoàn cảnh
gia đình khác nhau, mỗi vị lại
tùy theo giới luật và
giáo pháp của riêng mình mà
xuất gia tu đạo. Nay có
nhân duyên thế tục chi mà các vị một lòng
hợp lại cùng nhau, như đám lá rụng bị cơn gió xoáy gom về một chỗ? Hãy nói ra
nhân duyên gì mà các vị đến đây? Trẫm đây vẫn thường
hết lòng ủng hộ những người
xuất gia, chẳng tiếc
thân mạng.”
Bấy giờ, tất cả
ngoại đạo đồng tâu lên rằng: “Đại vương! Xin hãy nghe cho kỹ. Nay
đại vương là cây cầu lớn của
giáo pháp, là sự khuyến khích lớn của
giáo pháp, là đòn cân lớn của
giáo pháp, là nơi chứa đựng tất cả
công đức, là tánh
chân thật của tất cả
công đức, là
con đường của
giáo pháp chân chánh. Ngài là ruộng tốt để gieo
hạt giống, là
căn bản của tất cả đất nước, là
gương sáng của cả nước, là
hình tượng của tất cả
chư thiên, là bậc
cha mẹ của tất cả
nhân dân trong nước.
“Đại vương! Thân ngài là kho báu chứa tất cả
công đức của
thế gian. Vì sao gọi là kho chứa công đức? Đức vua phân xử việc nước không
phân biệt kẻ oán người thân, giữ
tâm bình đẳng [
vô tư] như đất, nước, lửa, gió; vì thế nên tôn xưng vua là kho chứa
công đức.
“Đại vương! Tuy
hiện tại đời sống của
chúng sanh là ngắn ngủi, nhưng
công đức của vua
lâu dài như những vị vua
trường thọ an vui thuở xưa; lại cũng như các vua Đỉnh Sanh,
Thiện Kiến,
Nhẫn Nhục, Na-hầu-sa, Da-da-đế, Thi-tỳ, Nhất-xoa-cưu... Những vị vua ấy đều có đầy đủ pháp lành, nay
đại vương cũng [đầy đủ pháp lành] như họ.
“Đại vương! Nhờ có nhà vua mà đất nước được an vui,
nhân dân giàu mạnh, cho nên tất cả người
xuất gia đều
ưa thích đất nước này, [cùng đến đây]
giữ giới tinh cần,
tu tập đạo chân chánh.
“Đại vương! Trong kinh
chúng tôi có nói: ‘Nếu người
xuất gia ở tại nước nào mà
trì giới tinh tấn,
chuyên cần tu tập đạo chân chánh, thì vua nước ấy cũng có phần [
công đức]
tu thiện.
“Đại Vương! Tất cả giặc cướp vua đều đã dẹp yên, những người
xuất gia không còn phải sợ sệt. Nay chỉ còn
duy nhất một kẻ
đại ác là sa-môn Cồ-đàm. Vua chưa khảo xét người ấy,
chúng tôi rất lo sợ. Người ấy ỷ mình [
xuất thân] dòng tộc cao quý, có
thân hình đẹp đẽ, lại nhờ
phước báo bố thí đời trước nên được
cúng dường nhiều, liền
dựa vào những việc đó mà sanh ra
hết sức kiêu mạn.
Hoặc nhân ở
chú thuật mà sanh
kiêu mạn. Vì
nhân duyên ấy nên không chịu
khổ hạnh mà vẫn
thọ lãnh, chứa trữ mọi thứ áo quần, mền gối mềm mại
tốt đẹp. Vì thế, tất cả những kẻ xấu ác khắp
thế gian, vì sự
lợi dưỡng mà
tụ họp đến chỗ ông ấy làm
quyến thuộc, chẳng chịu
tu hành khổ hạnh. Ông ấy
dùng sức chú thuật mà
điều phục Ca-diếp với bọn các ông Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên...
“Nay ông ấy lại đến chỗ của
chúng tôi trong rừng Sa-la, lớn tiếng thuyết dạy rằng thân này là thường, lạc, ngã, tịnh để
dụ dỗ đệ tử của
chúng tôi.
“Đại Vương! Trước đây Cồ-đàm thuyết dạy về
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh,
chúng tôi còn có thể nhịn được; nhưng nay ông ấy lớn tiếng thuyết dạy là thường, lạc, ngã, tịnh,
chúng tôi thật không nhịn được nữa. Xin
đại vương cho phép chúng tôi cùng với ông Cồ-đàm kia mở cuộc
tranh biện.”
Vua [A-xà-thế] liền đáp rằng: “Này các vị! Nay các ông đã nghe ai xúi giục mà trong lòng
cuồng loạn chẳng yên, khác nào như nước nổi sóng, như lửa
cuồn cuộn,
như khỉ chuyền cành? Việc này thật đáng
hổ thẹn. Người có trí
nghe được ắt lấy làm
thương xót, kẻ
ngu si nghe được ắt phải
chê cười. Những điều các ông nói đó, chẳng phải tướng trạng của người
xuất gia. Nếu các ông mắc phải các bệnh thời khí hay ung nhọt, ta đều có thuốc để trị. Nếu các ông vướng phải bệnh
quỷ thần thì
chú thuật Kỳ-bà nhà ta có thể
trừ khử. Nhưng nay các ông lại muốn dùng móng tay mà cào cấu núi Tu-di, dùng răng trong miệng mà cắn nghiến
kim cương, [
thật không thể cứu chữa]!
“Này các vị!
Ví như có người
ngu si, thấy chúa
sư tử lúc đói đang
nằm ngủ lại toan
đánh thức, hoặc như người lấy ngón tay đưa vào miệng
rắn độc, lại như người muốn dùng tay chạm vào đống tro che phủ than lửa. Nay các ông cũng [
ngu si giống] như vậy!
“Này các vị!
Ví như con chồn hoang [muốn] rống tiếng
sư tử, như con muỗi đọ sức nhanh chậm với
chim kim sí, như con thỏ [muốn] lội qua biển và đưa chân chạm đến đáy. Nay các ông cũng [
điên cuồng] giống như vậy! Nếu như các ông có
nằm mộng thấy mình thắng được sa-môn Cồ-đàm, thì
giấc mộng ấy cũng chỉ là
điên cuồng huyễn hoặc, không thể tin được.
“Này các ông! Nay các ông khởi lên
ý định ấy, chẳng khác gì con thiêu thân lao vào đống lửa lớn. Các ông nên
nghe lời trẫm, đừng nói thêm nữa. Tuy các ông
ngợi khen trẫm là
bình đẳng như đòn cân, nhưng
thật không nên để cho người ngoài
nghe được lời ấy.”
Lúc ấy, bọn
ngoại đạo lại tâu rằng: “Đại vương! Hẳn là huyễn thuật của sa-môn Cồ-đàm đã đến được chỗ ngài rồi chăng, nên mới khiến ngài sanh lòng
hồ nghi, chẳng tin vào các vị
thánh nhân.
Đại vương không nên khinh miệt những vị
đại sĩ ở đây.
“Đại vương!
Mặt trăng khi tròn khi khuyết, nước trong biển cả đều mặn, núi Ma-la-diên kia, những sự vật ấy do ai làm ra? Há chẳng phải những vị bà-la-môn của
chúng tôi đó sao?
Đại vương lẽ nào không nghe việc tiên A-kiệt-đa ngăn dòng
nước sông Hằng suốt mười hai năm trong lỗ tai [ông ấy] hay sao?
Đại vương lẽ nào không nghe việc tiên Cồ-đàm hiện
thần thông lớn,
trong suốt mười hai năm tự biến mình
thành thân Đế-thích, biến thân Đế-thích
thành thân con dê đực, lại biến ra một ngàn cái
nữ căn[164] trên thân Đế-thích?
Đại vương lẽ nào không nghe việc tiên Kỳ-nậu chỉ trong một ngày uống cạn nước bốn biển, khiến đất đai khô kiệt?
Đại vương lẽ nào không nghe việc tiên Bà-tẩu vì vị trời
Tự tại mà tạo ra ba con mắt đó sao?
Đại vương lẽ nào không nghe việc tiên A-la-la làm cho thành Ca-la-phú hóa ra vùng đất chai mặn đó sao?
“Đại vương! Trong đạo bà-la-môn có các vị tiên
thần lực lớn lao như vậy,
hiện có thể khảo xét, vì sao
đại vương lại có lòng khinh miệt?”
Vua đáp: “Các vị! Nếu các vị không tin lời ta,
cố ý muốn làm, thì đức
Chánh giác Như Lai hiện đang ở trong rừng Sa-la
gần đây. Các ông có thể đến để
tùy ý chất vấn.
Đức Như lai sẽ vì các ông mà
phân biệt giải đáp,
phù hợp với tâm ý của các ông.”
Bấy giờ, vua A-xà-thế với các người
ngoại đạo và
đồ chúng quyến thuộc của họ cùng đi đến chỗ Phật. Vua cúi đầu và mặt làm lễ sát dưới
chân Phật, rồi đi quanh Phật ba vòng theo chiều bên phải.
Lễ nghi cung kính vừa xong, vua
lui lại đứng sang một bên,
bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Những
ngoại đạo này muốn được
tùy ý chất vấn, xin
Như Lai tùy ý giải đáp.”
Phật dạy: “Được, xin
đại vương cứ tạm chờ ở đó, ta tự biết lúc
thích hợp [để
giải đáp cho họ].
Lúc ấy, trong
chúng hội có một bà-la-môn tên Xà-đề-thủ-na
lên tiếng hỏi: “Cồ-đàm! Có phải ông nói rằng Niết-bàn là
pháp thường còn?
Phật đáp: “Đại bà-la-môn, quả đúng như vậy!”
Bà-la-môn ấy nói tiếp: “Cồ-đàm! Nếu nói rằng Niết-bàn là thường, nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy?
Như pháp thế gian, từ hạt sanh quả,
tiếp nối nhau chẳng dứt; như từ đất sét mà tạo ra bình, từ sợi chỉ mà [dệt] thành áo.
“Cồ-đàm thường nói: ‘Nhờ
tu tập pháp
quán tưởng vô thường mà
đạt được Niết-bàn.’ Nhân là
vô thường, quả làm sao là thường?
“Cồ-đàm lại nói: ‘Giải
thoát khỏi lòng tham trong
Dục giới tức là Niết-bàn.
Giải thoát khỏi lòng tham trong
Sắc giới và
Vô sắc giới tức là Niết-bàn.
Diệt trừ vô minh với tất cả
phiền não tức là Niết-bàn.’ Từ dục cho tới
vô minh,
phiền não đều là
vô thường. Nhân là
vô thường thì [quả] Niết-bàn
đạt được đó lẽ ra cũng phải là vô thường!
“Cồ-đàm lại nói: ‘Do nhân [đã tạo] mà được sanh lên
cõi trời; do nhân [đã tạo] mà phải đọa xuống
địa ngục; do nhân [đã tạo] mà
được giải thoát. Vì thế, các pháp đều do nhân mà sanh.’ Nếu do nhân sanh mà
được giải thoát, thì
giải thoát ấy sao có thể nói là thường?
“Cồ-đàm cũng nói: ‘Sắc do
duyên sanh nên gọi là
vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.’ Như vậy, nếu
giải thoát là sắc thì nên biết đó là
vô thường. [Nếu là] thọ, tưởng, hành, thức thì cũng như vậy. Còn nếu lìa cả
năm ấm [sắc, thọ, tưởng, hành, thức] mà có
giải thoát, thì nên biết
giải thoát ấy tức là
hư không. Nếu là
hư không thì không thể nói là do
nhân duyên sanh. Vì sao vậy? Vì
hư không là thường còn, là
duy nhất, là khắp cả
mọi nơi.
“Cồ-đàm cũng nói: ‘Do nhân mà sanh tức là khổ.’ Nếu đã là khổ, vì sao lại nói
giải thoát là [an] lạc?
“Cồ-đàm lại nói: ‘Vô thường
tức khổ, khổ tức
vô ngã. Nếu là
vô thường, khổ,
vô ngã, tức là
bất tịnh. Tất cả các pháp do nhân sanh ra đều là
vô thường, khổ,
vô ngã,
bất tịnh, vì sao lại nói Niết-bàn tức là thường, lạc, ngã, tịnh?
“Nếu Cồ-đàm nói rằng [Niết-bàn] là thường, cũng là
vô thường; là lạc, cũng là khổ; là ngã, cũng là
vô ngã; là tịnh, cũng là
bất tịnh; như vậy chẳng phải là nói hai lời đó sao? Tôi từng được nghe những
vị trí giả
kỳ cựu trước đây nói rằng: ‘Nếu Phật ra đời thì không nói hai lời.’ Nay [nếu là như
vậy thì] Cồ-đàm đã nói hai lời.
“Cồ-đàm lại nói: ‘Phật chính là thân này của ta hiện nay.’ Nghĩa ấy thế nào?”
Phật dạy: “Bà-la-môn! Theo những gì ông vừa nói, nay ta sẽ hỏi ông, ông cứ
tùy ý trả lời.”
Bà-la-môn đáp: “Lành thay! Cồ-đàm, [xin ông cứ hỏi]!
Phật hỏi: “Bà-la-môn! Tánh của ông là
thường hay vô thường?”
Bà-la-môn đáp: “Tánh của tôi là thường.”
Phật hỏi: “Bà-la-môn! Tánh ấy có thể làm nhân cho tất cả các pháp trong [thân] và ngoài [thân] hay chăng?”
Đáp: “Đúng vậy, Cồ-đàm!”
Phật lại hỏi: “Bà-la-môn! Làm nhân như thế nào?”
Bà-la-môn đáp: “Cồ-đàm!
Do nơi tánh sanh ra đại;
do nơi đại sanh ra mạn,
do nơi mạn sanh ra mười sáu pháp, đó là: địa, thủy, hỏa, phong, không, năm căn
nhận biết [gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân], năm căn tạo nghiệp [gồm tay, chân, miệng nói và hai căn nam, nữ] và căn
tâm bình đẳng. Mười sáu pháp vừa kể
do nơi năm pháp mà sanh, đó là
hình sắc,
âm thanh, mùi hương, vị nếm và xúc chạm. Cả hai mươi mốt pháp này có
căn bản là ba pháp: nhiễm, thô và đen. Nhiễm gọi là ái; thô gọi là sân; đen gọi là
vô minh.
“Cồ-đàm! Hai mươi lăm pháp này đều
do nơi tánh sanh ra.”[165]
Đức Phật lại hỏi: “Bà-la-môn! Pháp đại và tất cả các pháp kia là
thường hay vô thường?”
Vị bà-la-môn đáp: “Cồ-đàm! Theo pháp của
chúng tôi thì tánh là thường, còn pháp đại và tất cả các pháp kia đều là
vô thường.”
Phật dạy: “Bà-la-môn! Theo pháp của các ông [như vậy] thì nhân là thường, quả là
vô thường. Vậy pháp của ta dạy nhân tuy
vô thường nhưng quả lại
thường có gì là sai?
“Này bà-la-môn! Trong pháp của các ông có [
phân biệt] hai loại
nguyên nhân chăng?”
Đáp: “Thưa có.”
Phật hỏi: “Thế nào là có hai nguyên nhân?”
Bà-la-môn đáp: “Một là
nguyên nhân sanh ra, hai là
nguyên nhân soi rõ.”
Phật lại hỏi: “Thế nào là nhân sanh ra? Thế nào là nhân soi rõ?”
Bà-la-môn đáp: “Nguyên nhân sanh ra là như từ đất sét làm thành cái bình;
nguyên nhân soi rõ là như
ánh đèn soi rõ đồ vật.”
Phật hỏi: “Hai loại nhân này vẫn cùng một tánh [là làm nhân cho pháp khác]. Nếu là một [tánh], vậy có thể lấy nhân sanh ra làm nhân soi rõ hoặc ngược lại hay chăng?”
Bà-la-môn đáp: “Không thể, Cồ-đàm!
Phật hỏi: “Nếu nhân sanh ra không thể làm nhân soi rõ hoặc ngược lại, vậy có thể nói là có tướng trạng của nhân hay chăng?”
Bà-la-môn đáp: “Tuy không thể thay
thế cho nhau, nhưng
vẫn có tướng trạng của nhân.”
Phật lại hỏi: “Bà-la-môn! Đối tượng soi rõ của nhân soi rõ ấy có đồng nhất với tự thân nó chăng?”
Đáp: “Thưa Cồ-đàm, không phải!”
Phật dạy: “Trong
giáo pháp của ta [cũng vậy], tuy từ nơi
vô thường mà
đạt được Niết-bàn, nhưng [Niết-bàn] chẳng phải
vô thường, [không đồng nhất với
vô thường.
“Bà-la-môn! Do nhân rõ biết mà
đạt được, cho nên là thường, lạc, ngã, tịnh. Do nhân sanh ra mà có, cho nên là
vô thường, khổ,
vô ngã,
bất tịnh. Vì thế, chỗ thuyết dạy của
Như Lai tuy có phân thành hai [nghĩa], nhưng sự phân hai này
không thật có hai [nghĩa], cho nên
Như Lai không hề nói hai lời.
“Như lời ông vừa nói là đã từng nghe những
bậc trí giả kỳ cựu trước đây nói rằng: ‘Nếu Phật ra đời thì không nói hai lời.’ Lời ấy đúng thay! Chỗ thuyết dạy của tất cả chư Phật
ba đời trong
mười phương đều không có
sai biệt, cho nên nói rằng: ‘Phật không nói hai lời.’ Thế nào là không sai biệt? Nếu là có thì [tất cả chư Phật] đều nói là có; nếu là không thì [tất cả chư Phật] đều nói là không. Cho nên gọi là một nghĩa đồng nhất.
“Bà-la-môn!
Đức Như Lai Thế Tôn tuy [có lúc] gọi tên [sự việc] dùng đến hai lời, nhưng đó đều là vì để làm rõ một lời. Thế nào là [dùng đến] hai lời để làm rõ một lời? Như [nói về] mắt và
hình sắc là hai, [nói] sanh ra [nhãn] thức là một.
Cho đến ý và các pháp [sanh ra các thức khác] cũng giống như vậy.”[166]
Bà-la-môn [Xà-đề-thủ-na] nói: “Cồ-đàm thật khéo
phân biệt những
ý nghĩa như vậy. Nhưng nay tôi còn chưa hiểu chỗ nói ra hai lời để làm rõ một lời.”
Bấy giờ,
đức Thế Tôn liền vì bà-la-môn [Xà-đề-thủ-na] mà
tuyên thuyết Bốn chân đế. Sau đó Phật dạy:
“Này bà-la-môn! Nói
Khổ đế đó, cũng là hai, cũng là một;
cho đến Đạo đế cũng là hai, cũng là một.”
Bà-la-môn [Xà-đề-thủ-na] liền nói: “Bạch Thế Tôn! Con đã hiểu rồi.”
Phật hỏi: “Thiện nam tử! Ông hiểu như thế nào rồi?”
Bà-la-môn [Xà-đề-thủ-na] thưa: “Bạch Thế Tôn!
Khổ đế đối với tất cả
phàm phu là hai, đối với
thánh nhân là một;
cho đến Đạo đế cũng giống như vậy.”
Phật dạy: “Lành thay! Ông đã hiểu.”
Bà-la-môn [Xà-đề-thủ-na] thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Nay con được nghe
Chánh pháp, đã được sự thấy biết chân chánh. Con xin
quy y Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng. Cúi xin đức
Đại từ nhận cho con được
xuất gia.”
Bấy giờ,
đức Thế Tôn bảo ông Kiều-trần-như: “Ông hãy vì Xà-đề-thủ-na mà cạo bỏ râu tóc,
cho phép ông ấy
xuất gia.”
Kiều-trần-như
vâng lời Phật dạy, liền
cạo tóc cho Xà-đề-thủ-na. Ngay lúc vừa đưa dao cạo, cả râu tóc và
phiền não đều
đồng thời rơi rụng hết. Xà-đề-thủ-na ngay nơi chỗ ngồi [khi ấy] liền
chứng đắc thánh quả A-la-hán.
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN BA MƯƠI TÁM
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN BA MƯƠI CHÍN
KIỀU-TRẦN-NHƯ
Phẩm thứ mười ba – Phần hai
Tiếp đó lại có một vị
Phạm chí[167] họ Bà-tư-trá
lên tiếng hỏi rằng: “Cồ-đàm! Theo lời ông nói thì có phải Niết-bàn là thường chăng?”
Phật đáp: “Đúng vậy, Phạm chí!
Bà-tư-trá nói: “Cồ-đàm! Ông cũng nói rằng, không có
phiền não là Niết-bàn?”
Phật đáp: “Đúng vậy, Phạm chí!”
Bà-tư-trá nói: “Trong
thế gian có bốn
trường hợp được gọi là không.
“Một là pháp chưa
xuất hiện gọi là không, như cái bình khi còn là đất sét thì gọi là không có bình.
“Hai là pháp đã dứt mất gọi là không, như khi cái bình đã vỡ thì gọi là không có bình.
“Ba là tướng trạng khác biệt nên [đã là tướng này thì] không [là tướng kia], như trong [tướng] bò không có ngựa, trong [tướng] ngựa không có bò.
“Bốn là [những sự vật]
hoàn toàn không có nên gọi là không, như lông rùa,
sừng thỏ.
“Cồ-đàm! Nếu do
diệt trừ hết
phiền não mà gọi là Niết-bàn, thì Niết-bàn tức là không. Nếu [Niết-bàn đã] là không, sao lại nói rằng có thường, lạc, ngã, tịnh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Niết-bàn như vậy chẳng phải
trường hợp là không trước [khi
xuất hiện], như cái bình lúc còn là đất sét; cũng chẳng phải
trường hợp là không vì dứt mất, như cái bình [sau khi] đã vỡ; cũng chẳng phải là không vì
hoàn toàn không có, như lông rùa,
sừng thỏ. Niết-bàn rơi vào
trường hợp là không vì tướng trạng khác biệt.
“Thiện nam tử! Theo lời ông vừa nói, tuy trong [tướng trạng của] bò không có ngựa, nhưng không thể nói bò cũng là không; tuy trong [tướng trạng của] ngựa không có bò, nhưng không thể nói ngựa cũng là không. Niết-bàn
cũng thế. Trong
phiền não không có Niết-bàn, trong Niết-bàn không có
phiền não. Vậy nên gọi là tướng trạng khác biệt, nếu là tướng này thì không có tướng kia.”
Bà-tư-trá nói: “Cồ-đàm! Nếu nói rằng cái không vì [tướng trạng] khác biệt là Niết-bàn, thì cái không vì [tướng trạng] khác biệt đó không có thường, lạc, ngã, tịnh, vì sao Cồ-đàm nói rằng Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Cứ theo lời ông nói thì trong cái không vì [tướng trạng] khác biệt đó có đủ ba
trường hợp không. Bò, ngựa... đó trước kia vốn không, rồi sau mới có, đó là
trường hợp không trước [khi
xuất hiện]; đã có rồi, về sau [diệt mất]
trở lại thành không, đó là
trường hợp không vì dứt mất. Còn
trường hợp không vì tương trạng khác biệt thì như ông vừa nói.
“Thiện nam tử! Ba
trường hợp không ấy đều không có trong Niết-bàn. Cho nên Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh. Như bệnh ở
thế gian, một là bệnh nhiệt, hai là bệnh thời khí, ba là bệnh hàn. Ba loại bệnh này có ba loại thuốc trị. Bơ [làm từ sữa] trị được bệnh nhiệt; dầu [gió] trị được bệnh thời khí; mật ngọt trị được bệnh hàn. Ba loại thuốc ấy có thể trị được ba loại bệnh hại [người].
“Thiện nam tử! Trong [bệnh] nhiệt không có bơ, trong bơ không có [bệnh] nhiệt. Trong [bệnh] phong không có dầu [gió], trong dầu [gió] không có [bệnh] phong.
Cho đến trong mật ngọt không có [bệnh] hàn, trong [bệnh] hàn không có mật ngọt. Vì thế [nên
các loại thuốc này] mới có thể trị bệnh.
“Tất cả
chúng sanh cũng giống như vậy, có ba loại bệnh là tham, sân và si. Ba loại bệnh này có ba loại thuốc trị. Pháp
quán bất tịnh là thuốc trị [bệnh] tham. Pháp
quán từ bi là thuốc trị [bệnh] sân.
Trí tuệ [khởi sanh từ] pháp
quán nhân duyên là thuốc trị [bệnh] si.
“Thiện nam tử! Vì muốn trừ tham nên
thực hành pháp quán không tham; vì muốn trừ sân nên
thực hành pháp quán không sân; vì muốn trừ si nên
thực hành pháp quán không si.
“Trong ba loại bệnh ấy không có ba thứ thuốc; trong ba thứ thuốc ấy không có ba loại bệnh.
“Thiện nam tử! Vì trong ba loại bệnh không có ba thứ thuốc, nên đó là
vô thường,
vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Vì trong ba thứ thuốc không có ba loại bệnh, nên có thể gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.”
Bà-tư-trá liền thưa hỏi: “Thế Tôn!
Như Lai vì tôi nói
lẽ thường và
vô thường. Thế nào là thường? Thế nào là vô thường?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Sắc là
vô thường,
giải thoát [ra khỏi] sắc là thường.
Cho đến thức là
vô thường,
giải thoát [ra khỏi] thức là thường.[168]
“Thiện nam tử! Nếu
thiện nam tử,
thiện nữ nhân nào có thể quán xét từ sắc
cho đến thức đều là
vô thường, nên biết rằng người ấy đã
đạt được pháp thường.”
Bà-tư-trá bạch rằng: “Thế Tôn! Nay con đã rõ biết về
pháp thường và pháp
vô thường.”
Phật hỏi: “Thiện nam tử! Ông rõ biết
pháp thường và pháp
vô thường như thế nào?”
Bà-tư-trá thưa: “Bạch Thế Tôn! Nay con biết rằng
hình sắc của con đây là
vô thường,
đạt được sự giải thoát [ra khỏi sắc] là thường. [Từ sắc]
cho đến thức cũng đều như vậy.”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Lành thay! Nay ông đã trả được món nợ mang thân này!”[169]
Đức Phật quay sang bảo Kiều-trần-như: “Ông Bà-tư-trá đã
chứng quả A-la-hán, hãy đưa cho ông ấy bộ y ba tấm và
bình bát [
khất thực].”
Bấy giờ, Kiều-trần-như
vâng lời Phật dạy trao đủ
y bát.
Thọ lãnh y bát rồi, Bà-tư-trá liền nói: “Đại đức Kiều-trần-như! Nay tôi nhân nơi cái thân xấu ác này mà
đạt được quả báo tốt lành. Cảm phiền
đại đức thay tôi đến chỗ
Thế Tôn thưa rõ tấm lòng tôi: ‘Trước đây tôi là kẻ xấu ác,
xúc phạm Như Lai, dám gọi trổng Phật bằng họ Cồ-đàm.’ Nguyện
đại đức thay tôi
sám hối tội ấy. Nay tôi không thể ở lâu trong
thân độc hại này, sẽ vào Niết-bàn.”
Bấy giờ, Kiều-trần-như liền đến trước Phật, bạch rằng: “Thế Tôn! Tỳ-kheo Bà-tư-trá sanh lòng
hổ thẹn, tự nói rằng mình đã
ngu si dại dột xúc phạm Như Lai, dám gọi trổng Phật bằng họ Cồ-đàm. Ông ấy không thể ở lâu trong
thân độc hại nên muốn
xả thân, nhờ con thay mặt
sám hối.”
Phật dạy: “Kiều-trần-như! Tỳ-kheo Bà-tư-trá đã
thành tựu căn lành trước
vô lượng chư Phật
quá khứ. Nay ông ấy vâng nhận lời ta, sống theo đúng pháp. Nhờ sống theo đúng pháp nên
đạt được Chánh quả. Các ông nên
cúng dường [nhục] thân vị ấy.”
Lúc ấy,
nghe lời Phật dạy, Kiều-trần-như
trở lại nơi [tỳ-kheo Bà-tư-trá] xả bỏ xác thân, thiết lễ
cúng dường.
Bấy giờ, khi xác thân đang được
hỏa thiêu, [tỳ-kheo] Bà-tư-trá liền
hóa hiện đủ mọi phép
thần thông.
Những kẻ
ngoại đạo thấy việc ấy rồi liền lớn tiếng nói rằng: “Bà-tư-trá đã
đạt được chú thuật của sa-môn Cồ-đàm. Không bao lâu nữa ông này sẽ thắng được sa-môn Cồ-đàm kia.”
Bấy giờ, trong chúng
ngoại đạo có một
Phạm chí tên là Tiên-ni[170]
lên tiếng hỏi rằng: “Cồ-đàm! Thật có ngã chăng?”
Đức Như Lai lặng thinh.
Phạm chí Tiên-ni lại hỏi: “Cồ-đàm!
Thật không có ngã chăng?
Đức Như Lai vẫn lặng thinh.
Phạm chí Tiên-ni lại hỏi đến lần thứ nhì, thứ ba như vậy,
đức Như Lai vẫn lặng thinh [không đáp].
Phạm chí Tiên-ni liền nói: “Cồ-đàm! Nếu tất cả
chúng sanh đều có ngã, thì cái ngã ấy phải bao
trùm khắp mọi nơi, là do một
đấng sáng tạo làm ra,
vì cớ gì Cồ-đàm [không nói như thế mà] lặng thinh chẳng đáp?”
Đức Phật hỏi: “Tiên-ni! Ông nói cái ngã ấy bao
trùm khắp mọi nơi, có phải vậy chăng?”
Phạm chí Tiên-ni đáp: “Cồ-đàm! Chẳng riêng gì tôi, tất cả những người có trí đều nói như vậy.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu cái ngã ấy bao
trùm khắp mọi nơi, thì lẽ ra phải
cùng lúc thọ nhận
quả báo trong
năm cảnh giới.[171] Nếu là
cùng lúc thọ nhận
quả báo trong
năm cảnh giới, vì
nhân duyên gì những
Phạm chí các ông tránh không tạo ác để khỏi vào
địa ngục và
tu tập các pháp lành để được thân cõi trời?”
Tiên-ni nói: “Cồ-đàm! Trong pháp của
chúng tôi có hai loại ngã, một là cái ngã trong thân tạo tác, hai là cái ngã trong thân thường tồn. Vì cái ngã trong thân tạo tác nên phải lìa xa pháp xấu ác để không vào
địa ngục và tu các pháp lành để sanh lên
cõi trời.”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Theo như ông vừa nói thì cái ngã ấy bao
trùm khắp mọi nơi. Như vậy, nếu nói cái ngã ấy ở trong thân tạo tác thì nên biết rằng nó là
vô thường. Còn nếu nó không ở trong thân tạo tác thì sao có thể nói là bao trùm khắp?”
Tiên-ni nói: “Cồ-đàm! Theo
lập luận về ngã của
chúng tôi thì cái ngã ấy cũng ở trong thân tạo tác mà cũng là
pháp thường.
“Cồ-đàm!
Ví như có người gây ra hỏa hoạn. Khi nhà cháy thì chủ nhà đã thoát ra khỏi. Vậy không thể nói rằng nhà bị cháy thì ông chủ cũng chết cháy.
Giáo pháp [về ngã] của
chúng tôi cũng vậy. Thân tạo tác này tuy là
vô thường, nhưng khi
vô thường xảy đến thì cái ngã [trong thân] đã thoát ra khỏi. Vì thế, cái ngã theo
chúng tôi là bao
trùm khắp, cũng là thường còn.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như lời ông vừa nói, cái ngã là bao
trùm khắp, cũng là thường còn, nghĩa ấy không đúng.
“Vì sao vậy? Sự
trùm khắp có hai loại, hoặc là thường, hoặc là
vô thường; lại có hai loại, hoặc là
hình sắc, hoặc là không
hình sắc. Cho nên, nếu nói đến tất cả mọi sự
hiện hữu thì [trong đó] là thường, cũng là
vô thường; là
hình sắc, cũng là không
hình sắc.
“Nếu nói chủ nhà đã thoát ra khỏi [căn nhà bị cháy] nên không gọi là
vô thường, nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Nhà không phải chủ, chủ không phải nhà. Cái bị cháy và người ra khỏi [đám cháy] là hai
thực thể khác nhau, cho nên mới [thoát ra] được như vậy. Về cái ngã thì không phải như thế. Vì sao vậy? Vì cái ngã [mà các ông nói đó] tức là
hình sắc,
hình sắc tức là ngã; ngã tức là không
hình sắc, không
hình sắc tức là ngã; sao lại nói rằng: ‘Trong khi
hình sắc là
vô thường thì cái ngã đã thoát ra khỏi?’
“Thiện nam tử! Nếu ông cho rằng tất cả
chúng sanh đều
cùng chung một cái ngã, như vậy là trái ngược với cả pháp
thế gian và
xuất thế gian. Vì sao vậy? Pháp
thế gian có những tên gọi [
phân biệt] như cha, mẹ, con trai, con gái... Nếu cái ngã là một, thì cha tức là con trai, con trai tức là cha; mẹ tức là con gái, con gái tức là mẹ; kẻ oán tức là người thân, người thân tức là kẻ oán; cái này tức là cái kia, cái kia tức là cái này... [không còn có sự
phân biệt]. Cho nên, nếu nói tất cả
chúng sanh cùng chung một cái ngã tức là trái ngược với cả pháp
thế gian và
xuất thế gian.”
Tiên-ni liền nói: “Tôi không nói tất cả
chúng sanh cùng chung một cái ngã, mà nói là mỗi người có riêng một cái ngã.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu nói mỗi người có riêng một cái ngã, tức là có nhiều cái ngã, nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Như trước đây ông đã nói: ‘Cái ngã bao
trùm khắp.’ Nếu cái ngã là bao
trùm khắp thì cội gốc
nghiệp quả của tất cả
chúng sanh đáng lẽ phải đồng như nhau, khi
chư thiên nhìn thấy [điều gì] thì Phật cũng thấy [như vậy]; khi
chư thiên tạo tác [việc gì] thì Phật cũng tạo tác [như vậy]; khi
chư thiên nghe được [điều gì] thì Phật cũng
nghe được [như vậy]... Tất cả các pháp cũng đều như thế. Nếu chỗ
chư thiên thấy không phải chỗ Phật thấy thì không nên nói rằng: ‘Cái ngã bao
trùm khắp mọi nơi.’ Nếu [cái ngã] không bao
trùm khắp thì đó là
vô thường.”
Tiên-ni nói: “Cồ-đàm! Cái ngã của tất cả
chúng sanh tuy bao
trùm khắp mọi nơi, [nhưng] pháp và
phi pháp không
trùm khắp. Vì nghĩa ấy nên Phật tạo tác khác,
chư thiên tạo tác khác. Do đó Cồ-đàm không nên nói rằng: ‘Khi Phật thấy [điều gì] thì
chư thiên lẽ ra cũng thấy [như vậy] ; khi Phật nghe [điều gì] thì
chư thiên lẽ ra cũng nghe [như vậy].’”
Phật hỏi: “Thiện nam tử! Pháp và
phi pháp, chẳng phải do nghiệp tạo thành đó sao?”
Tiên-ni đáp: “Cồ-đàm! Đúng là do nghiệp tạo thành.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu pháp và
phi pháp đều do nghiệp tạo thành, tức là đồng một
pháp như nhau, sao lại nói là khác nhau? Vì sao vậy? Trong chỗ [đã thành] nghiệp của Phật có cái ngã [được làm]
chư thiên; trong chỗ [đã thành] nghiệp của
chư thiên, có cái ngã [được làm] Phật. Vì thế, khi Phật tạo tác [điều gì] thì
chư thiên cũng tạo tác [như vậy]. Pháp và
phi pháp lẽ ra cũng phải như vậy.
“Thiện nam tử! Cho nên đối với tất cả
chúng sanh, nếu pháp và
phi pháp là như
vậy thì chỗ nhận lãnh
quả báo lẽ ra không khác biệt nhau.
“Thiện nam tử! Từ nơi
hạt giống mà sanh ra quả.
Hạt giống ấy không hề
suy xét phân biệt: ‘Ta sẽ tạo
thành quả [cho hàng] bà-la-môn thôi, không tạo
thành quả cho [những
giai cấp] sát-lợi, tỳ-xá, thủ-đà.’ Vì sao vậy? Từ nơi
hạt giống mà sanh ra quả, không hề có ngăn ngại gì [bởi sự
phân biệt]
bốn giai cấp như thế. Pháp và
phi pháp cũng giống như vậy, không thể
phân biệt rằng: ‘Ta sẽ tạo
thành quả [đối với] Phật mà thôi, không tạo
thành quả [đối với]
chư thiên; hoặc tạo
thành quả [đối với]
chư thiên mà thôi, không tạo
thành quả [đối với] Phật.’ Vì sao vậy? Vì nghiệp [quả] là
bình đẳng.”
Tiên-ni nói: “Cồ-đàm!
Ví như trong một căn phòng có trăm ngàn
ngọn đèn, tuy tim đèn khác nhau mà ánh sáng đều như nhau. Tim đèn khác nhau là
ví như pháp và
phi pháp; ánh sáng như nhau là
ví như cái ngã của [tất cả]
chúng sanh.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ông dùng ánh sáng đèn để ví với cái ngã [của tất cả
chúng sanh], nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Căn phòng với
ngọn đèn là [hai
thực thể] khác nhau. Ánh sáng của đèn vừa là ở nơi tim đèn, mà cũng là chiếu khắp căn phòng. Cái ngã mà ông nói đó, nếu cũng giống như
vậy thì ở cả hai bên pháp và
phi pháp lẽ ra đều là có ngã; và trong cái ngã lẽ ra cũng có cả pháp và
phi pháp. Nếu pháp và
phi pháp không [cùng] có ngã thì không thể nói rằng bao
trùm khắp mọi nơi. Còn nếu cả hai đều có ngã, làm sao có thể dùng tim đèn với ánh sáng [
ngọn đèn] để làm ví dụ?
“Thiện nam tử! Nếu ý ông cho rằng tim đèn và ánh sáng
quả thật khác nhau, vậy do
nhân duyên gì khi tim đèn khêu cao thì ánh sáng mạnh, khi tim đèn khô kiệt thì ánh sáng mất đi?
Vì vậy, không nên đem pháp và
phi pháp mà ví với đèn và tim đèn; [việc tim đèn có] ánh sáng như nhau mà ví với cái ngã [của tất cả
chúng sanh]. Vì sao vậy? Pháp,
phi pháp và ngã, cả ba thứ ấy chỉ là một thôi.”
Tiên-ni nói: “Cồ-đàm! Ngài dẫn ra ví dụ
ngọn đèn, việc đó thật là không tốt. Vì sao vậy? Nếu ví dụ
ngọn đèn là [ví dụ] hay thì [cũng là do] tôi đã dẫn ra trước rồi. Nếu là [ví dụ] không hay, sao ngài còn lặp lại?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ta đưa ra ví dụ đó
hoàn toàn không [
lưu tâm đến việc nó là] hay hoặc không hay. Việc [ví dụ ấy là] hay hoặc không hay chỉ
do nơi ý của ông nói ra đó thôi. Trong ví dụ ấy [ta] cũng nêu rõ rằng: ‘Có ánh sáng chiếu ra xa tim đèn nhưng cũng có ánh sáng ở ngay tại tim đèn.’ Vì tâm ông không
bình đẳng nên mới nói rằng: ‘Đèn và tim đèn ví với pháp và
phi pháp, ánh sáng ví với cái ngã.’ Vì thế ta mới
vặn hỏi ông [về lẽ] ngay nơi tim đèn có ánh sáng, rời xa tim đèn cũng có ánh sáng. Pháp tức là ngã, ngã tức là pháp;
phi pháp tức là ngã, ngã tức là
phi pháp [cũng như tim đèn với ánh sáng vốn không phải hai
thực thể khác biệt]. Tại sao nay ông chỉ
nhận biết một bên, không nhận một bên? [Vì thế,] ví dụ như vậy là không tốt đối với [
lập luận phía] ông, nên nay ta mới quay lại dùng chính cái ví dụ ấy để
dạy bảo ông.
“Thiện nam tử! Ví dụ [ông đưa ra] như vậy là không thành ví dụ. Vì không thành ví dụ nên đối với [
lập luận phía] ta là tốt, mà đối với [
lập luận phía] ông là không tốt.
“Thiện nam tử! Nếu ý ông cho rằng: ‘Đối với tôi không tốt, đối với ông cũng phải không tốt.’ Nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Hãy nhìn như việc của người
thế gian, [có khi] tự
dùng sức mình làm hại mình, [có khi] mình làm ra mà kẻ khác dùng lấy. Ví dụ mà ông đưa ra cũng giống như vậy; đối với ta là tốt mà đối với ông là không tốt.”
Tiên-ni nói: “Cồ-đàm! Ngài vừa trách tôi có
tâm không bình đẳng, nay lời ngài nói ra cũng không
bình đẳng. Vì sao vậy? Nay Cồ-đàm nhận lấy việc tốt về mình, việc không tốt về tôi. Từ đó suy ra,
thật không bình đẳng.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Sự không
bình đẳng của ta có thể phá trừ sự không
bình đẳng của ông, [nhờ đó] nên ông được
bình đẳng; vậy sự không
bình đẳng của ta là tốt. Sự không
bình đẳng của ta phá trừ sự không
bình đẳng của ông, giúp ông được
bình đẳng, [như vậy] cũng tức là ta
bình đẳng. Vì sao vậy? Vì được sự
bình đẳng không khác các bậc
thánh nhân.”
Tiên-ni nói: “Cồ-đàm! Cái ngã thường còn [nên là]
bình đẳng, sao ngài lại nói là phá trừ sự không
bình đẳng của tôi? Tất cả
chúng sanh đều có ngã
bình đẳng như nhau, sao ngài lại nói là tôi không bình đẳng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ông cũng có nói việc sẽ thọ thân
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh; sẽ thọ thân
cõi người,
cõi trời. Nếu cái ngã trước đã là
trùm khắp năm cảnh giới, vì sao lại nói là sẽ thọ thân trong các
cảnh giới [khác nhau] ấy? Ông cũng nói rằng
cha mẹ hợp nhau rồi mới sanh con. Nếu đứa con vốn đã có trước, sao lại nói rằng hợp nhau rồi mới có? Cho nên, một người có [thể thọ] thân ở [một trong]
năm cảnh giới. Nếu ở
năm cảnh giới ấy trước vốn đã có thân, vậy do
nhân duyên gì phải vì [sự thọ] thân mà tạo nghiệp [lành, tránh
nghiệp ác]? Cho nên [ta nói] là không
bình đẳng.
“Thiện nam tử! Nếu ý ông cho rằng ngã là chủ thể tạo tác [các nghiệp], nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Nếu là ngã tạo tác, vì
nhân duyên gì tự nó tạo tác sự khổ, [vốn là điều mà nó không ưa muốn]? Nhưng nay
chúng sanh thật có chịu khổ, cho nên biết rằng
ngã không phải là chủ thể tạo tác [các nghiệp].
“Nếu nói sự khổ này chẳng phải do ngã tạo tác, [vì sự khổ] không do nhân sanh ra, thì tất cả các pháp lẽ ra cũng đều như vậy, đều không do nhân sanh ra, vậy
nhân duyên gì lại nói rằng [tất cả các pháp là] do ngã tạo tác?
“Thiện nam tử! Sự khổ, vui của
chúng sanh quả thật là do
nhân duyên [sanh ra]. Sự khổ, vui ấy có thể gây ra
lo lắng hay
vui mừng.
Đang khi lo lắng không có
vui mừng,
đang khi vui mừng không có
lo lắng. Khi thì lo, khi thì mừng, người có trí làm sao lại nói [như vậy] là thường?
“Thiện nam tử! Ông nói ngã là thường còn. Nếu nói là thường, vì sao nói rằng có mười
thời kỳ [phát triển] khác nhau? Nếu ngã là
pháp thường, lẽ ra không có từ
thời kỳ tượng hình trong
bào thai cho tới
thời kỳ già suy. Như
hư không kia là
pháp thường, dù là một
thời kỳ cũng còn không có, huống chi lại có đến mười
thời kỳ [khác nhau]?
“Thiện nam tử! Cái ngã đó không phải là
thời kỳ tượng hình trong thai...
cho đến cũng không phải là
thời kỳ già suy, vì sao nói rằng có mười
thời kỳ khác nhau?
“Thiện nam tử! Nếu ngã là chủ thể tạo tác [các nghiệp], thì ngã ấy cũng có lúc thạnh lúc suy, [vì]
chúng sanh cũng có lúc thạnh lúc suy. Nếu ngã là như vậy, sao lại là thường?
“Thiện nam tử! Nếu ngã là chủ thể tạo tác [các nghiệp], vì sao một người có sự nhanh nhạy [với việc này], chậm lụt [với việc kia]?
“Thiện nam tử! Nếu ngã là chủ thể tạo tác [các nghiệp], ngã ấy có thể tạo
tác nghiệp của thân, nghiệp của miệng. Nếu nghiệp của thân và nghiệp của miệng là do ngã tạo tác, tại sao miệng lại nói rằng ‘Có ngã chăng, không có ngã chăng’? Vì sao tự [cái ngã ấy lại]
sanh nghi ngờ [chính nó] là có hay không có?
“Thiện nam tử! Nếu ý ông cho rằng lìa khỏi con mắt mà có sự thấy, nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Nếu lìa con mắt mà có sự thấy nào khác thì đâu cần đến con mắt này?
Cho đến [sự xúc chạm] của thân cũng vậy.[172]
“Nếu ý ông cho rằng tuy cái ngã có thể thấy nhưng phải nhân nơi con mắt, nghĩa ấy cũng không đúng. Vì sao vậy? Như có người nói rằng hoa tu-man-na có thể đốt cháy xóm làng, [rồi
giải thích rằng:] ‘Làm thế nào có thể đốt cháy? Là nhân nơi lửa mà có thể đốt cháy.’
Lập luận của ông về sự thấy của cái ngã cũng [
vô lý] như vậy.”
Tiên-ni nói: “Cồ-đàm! Như người cầm liềm có thể cắt cỏ; cái
ngã nhân nơi năm
giác quan [là mắt, tai...] mà có thể thấy, nghe... cho tới xúc chạm, cũng giống như vậy.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Cái liềm với người [cầm liềm] là [hai
thực thể] khác nhau, nên khi [người] cầm liềm thì có thể làm được việc [cắt cỏ]. Còn như lìa khỏi [các] căn thì
hoàn toàn không riêng có cái ngã nào khác, vậy sao có thể nói rằng cái
ngã nhân nơi các căn mà làm được [những việc thấy, nghe...]?
“Thiện nam tử! Nếu ý ông cho rằng [nhờ] cầm liềm [mà] có thể cắt cỏ, cái ngã cũng giống như thế. Vậy cái ngã đó có tay hay là không tay? Nếu là có tay, sao chẳng tự cầm lấy? Nếu là không có tay, sao lại nói rằng ngã là chủ thể tạo tác [tất cả]?
“Thiện nam tử!
Công năng cắt được cỏ là ở nơi cái liềm, không ở nơi ngã, không ở nơi người [cắt]. Nếu cái ngã hay người [cắt] có thể cắt được cỏ, sao phải nhờ đến cái liềm?
“Thiện nam tử! Người [cắt cỏ] có hai
hành vi, một là vơ nắm lấy cỏ, hai là cầm liềm [cắt]. Cái liềm chỉ có
duy nhất một
công năng là cắt được mà thôi.
Chúng sanh tiếp xúc với các pháp cũng giống như vậy. [Việc] con mắt có thể thấy được
hình sắc là do sự
hòa hợp [các
điều kiện] mà sanh ra. Nếu là do
nhân duyên hòa hợp mà có sự thấy, người có trí sao lại nói rằng [trong sự thấy đó] có ngã?
“Thiện nam tử! Nếu ý ông cho rằng cái thân tạo tác, cái ngã thọ nhận, nghĩa ấy cũng không đúng. Vì sao vậy? Vì trong
thế gian không thấy có việc
chư thiên tạo nghiệp mà
Phật thọ quả!
“Nếu nói rằng chẳng phải do thân tạo tác, cái ngã cũng không do nhân [đã tạo] mà thọ [
quả báo], vì sao [hàng
Phạm chí] các ông lại
do nơi nhân duyên để cầu sự giải thoát? [Như] thân này của ông [nếu] trước không do
nhân duyên sanh ra, [thì sau] khi
đạt được giải thoát rồi, lẽ ra cũng không do
nhân duyên mà
sanh thân. Giống như thân, tất cả
phiền não lẽ ra cũng đều như vậy.”
Tiên-ni nói: “Cồ-đàm! Có hai loại ngã, một là cái ngã có
nhận biết, hai là cái
ngã không nhận biết. Cái
ngã không nhận biết có thể nhận được thân, cái ngã có
nhận biết có thể
lìa bỏ thân. Cũng như cái bình [bằng đất sét] nặn ra chưa nung, sau khi nung rồi thì mất đi màu sắc trước đó, [màu sắc ấy] cũng chẳng bao giờ sanh ra
trở lại.
Phiền não của người trí cũng giống như vậy, đã dứt trừ rồi thì chẳng bao giờ sanh ra
trở lại.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ông nói về
nhận biết đó, là
trí nhận biết hay ngã nhận biết? Nếu trí có thể
nhận biết, sao ông lại nói cái ngã nhận biết? Nếu cái ngã có thể
nhận biết, sao rốt cùng lại phải
cần dùng đến
phương tiện là trí?
“Nếu ý ông cho rằng cái
ngã nhân ở trí mà
nhận biết thì cũng [
vô lý] như ví dụ hoa [tu-man-na đốt cháy xóm làng] đã bị
bác bỏ.
“Thiện nam tử!
Ví như cây gai nhọn,
bản tánh của nó là có thể đâm, không thể nói là thân cây cầm gai đâm. Trí cũng giống như vậy, [
bản tánh của] trí tự có thể
nhận biết, sao lại nói rằng cái ngã
sử dụng trí để biết?
“Thiện nam tử! Theo
giáo pháp của các ông, khi ngã
đạt được giải thoát, đó là cái
ngã không nhận biết được giải thoát hay cái ngã có
nhận biết được giải thoát? Nếu cái
ngã không nhận biết được giải thoát thì nên biết rằng vẫn còn đầy đủ
phiền não. Nếu là cái ngã có
nhận biết được giải thoát thì nên biết rằng đã sẵn có năm tình thức và các căn. Vì sao vậy? Vì lìa ngoài các căn không riêng có sự biết nào khác nữa. Nếu có đủ các căn, sao có thể gọi là giải thoát? Còn nếu nói rằng tánh của cái ngã này là
thanh tịnh, lìa khỏi năm căn, vì sao lại nói là [cái ngã]
trùm khắp năm cảnh giới đều có? Lại do
nhân duyên gì mà vì
sự giải thoát nên
tu tập các pháp lành?
“Thiện nam tử!
Ví như có người muốn nhổ gai trong
hư không, [thật là làm chuyện
vô lý, vì làm gì có gai để nhổ?]. Ông cũng giống như vậy. Nếu cái ngã là
thanh tịnh, vì sao lại nói [đến việc] dứt trừ phiền não? Nếu ý ông cho rằng không
do nơi nhân duyên mà
đạt được giải thoát, vậy sao tất cả
chúng sanh không được giải thoát?”
Tiên-ni nói: “Cồ-đàm! Nếu là không có ngã thì [chủ thể nào] có thể nhớ lại [những chuyện đã qua]?
Phật hỏi: “Tiên-ni! Nếu là có ngã, do
duyên cớ gì [người ta] lại cũng [có lúc] quên đi [chuyện cũ]?
Thiện nam tử! Nếu [khả năng] nhớ lại đó là ngã, vậy do
nhân duyên gì [người ta] lại nhớ những điều xấu ác, [lại có khi] nhớ những việc không muốn nhớ, [có khi] không nhớ được những việc muốn nhớ?”
Tiên-ni lại nói: “Cồ-đàm! Nếu là không có ngã thì [chủ thể nào] nhìn thấy, nghe biết?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Trong có sáu căn, ngoài có
sáu trần; trong ngoài
hòa hợp sanh ra sáu loại thức. Sáu thức ấy do
nhân duyên [của mỗi thức] mà có tên gọi [khác nhau].
“Thiện nam tử!
Ví như lửa chỉ có một [loại], nhưng khi đốt củi gọi là lửa củi, khi đốt cỏ khô gọi là lửa cỏ khô, khi đốt trấu gọi là lửa trấu, khi đốt phân bò khô gọi là lửa phân bò.
Ý thức của
chúng sanh cũng vậy, nhân nơi [các
yếu tố] con mắt,
hình sắc, ánh sáng và
ý muốn thấy nên gọi là
nhãn thức.
“Thiện nam tử!
Nhãn thức ấy không ở nơi con mắt,
cho đến cũng không ở nơi
ý muốn thấy. Do cả bốn
yếu tố hòa hợp [nói trên] mới sanh ra
nhãn thức.
Cho đến ý thức lại cũng như vậy.[173] Nếu là do
nhân duyên hòa hợp sanh ra thì người trí không nên nói rằng ‘sự thấy là ngã’...
cho đến ‘sự xúc chạm là ngã’.
“Thiện nam tử! Cho nên ta nói rằng
từ nhãn thức
cho đến ý thức, tất cả các pháp thảy đều
như huyễn hóa. Vì sao là
như huyễn hóa? Vì trước vốn không mà nay thành có, đã có rồi
trở lại thành không.
“Thiện nam tử!
Ví như dùng bơ, bột, đường, gừng, tiêu, tất-bạt,
bồ đào, hồ đào,
thạch lựu, tuy tử, các thứ ấy
hòa hợp gọi là hoàn thuốc
hoan hỷ. Lìa khỏi sự
hòa hợp ấy không có hoàn thuốc
hoan hỷ. Sáu căn bên trong [
hòa hợp] với
sáu trần bên ngoài, đó gọi là
chúng sanh, là tự ngã, là người [khác], là
thần thức...[174] Lìa khỏi sáu căn bên trong và
sáu trần bên ngoài thì không hề riêng có [những
thực thể được gọi là]
chúng sanh, tự ngã, người [khác],
thần thức... đó.”
Tiên-ni nói: “Cồ-đàm!
Nếu không có ngã, vì sao lại nói: tôi thấy, tôi nghe, tôi khổ, tôi vui, tôi lo, tôi mừng...?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu [do những câu] nói: tôi thấy, tôi nghe... mà cho là có ngã, vậy
duyên cớ gì người
thế gian cũng nói: ‘Tội lỗi ông đã làm không phải chỗ thấy nghe của tôi’?[175]
“Thiện nam tử!
Ví như bốn binh chủng[176]
hợp lại thành quân đội. Bốn binh chủng ấy tuy không phải một, nhưng cũng [gồm chung mà] nói rằng ‘quân ta mạnh mẽ’, ‘quân ta thắng địch’... Chỗ tạo thành [do sự
hòa hợp] của sáu căn bên trong và
sáu trần bên ngoài cũng giống như vậy. Tuy không phải là một [thể], nhưng cũng có thể rằng: tôi thấy, tôi nghe, tôi khổ, tôi vui, tôi lo, tôi mừng...”
Tiên-ni nói: “Cồ-đàm!
Theo như ngài vừa nói, sáu căn bên trong hợp với
sáu trần bên ngoài [gọi đó là ngã], vậy chủ thể nào phát ra
âm thanh lời nói rằng: tôi làm, tôi chịu...?”
Phật dạy: “Tiên-ni! Do
nhân duyên là
vô minh,
tham ái... sanh ra nghiệp; do nghiệp sanh ra sự
hiện hữu; do sự
hiện hữu mà sanh ra
vô số các
trạng thái của tâm, [tức là
tâm sở]. Do các
tâm sở sanh ra đủ mọi suy niệm
vọng tưởng; do những suy niệm
vọng tưởng này làm chuyển động luồng khí [trong người]; khí [chuyển động]
tùy theo tâm mà xúc chạm đến cổ họng, lưỡi, răng, môi [tạo thành
âm thanh tương ứng]. Do
chúng sanh có
tư tưởng điên đảo, [khi nghe]
âm thanh phát ra liền nói rằng [đó là những tiếng]: tôi làm, tôi chịu, tôi thấy, tôi nghe...
“Thiện nam tử! Như cái
chuông nhỏ gắn trên đầu ngọn cờ, do
nhân duyên là gió mà phát ra
âm thanh. Khi gió mạnh thì
âm thanh lớn, gió nhẹ thì
âm thanh nhỏ,
thật không có ai làm ra
âm thanh ấy.
“Thiện nam tử!
Ví như sắt đang nóng [đỏ] cho vào nước liền phát ra nhiều loại
âm thanh. Các
âm thanh ấy
thật không có ai làm ra cả.
“Thiện nam tử!
Phàm phu không thể
suy xét phân biệt như vậy nên nói rằng có ‘ta’ và ‘vật của ta’, rằng có
bản ngã tạo tác, có
bản ngã nhận chịu...”
Tiên-ni liền thưa hỏi: “Như Cồ-đàm nói: Không có cái ta và vật của ta, vậy
duyên cớ gì ngài lại nói [có] thường, lạc, ngã, tịnh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ta cũng không nói rằng sáu căn bên trong,
sáu trần bên ngoài và sáu thức là thường, lạc, ngã, tịnh. Nhưng ta thuyết dạy rằng: Trừ dứt sáu thức do sáu căn trong hợp với
sáu trần ngoài sanh ra, đó gọi là thường. Vì là thường, nên gọi là ngã. Có thường, có ngã, nên gọi là lạc. Vì là thường, ngã, lạc nên gọi là tịnh.
“Thiện nam tử!
Chúng sanh chán bỏ sự khổ, dứt trừ
nguyên nhân của sự khổ ấy,
tùy ý lìa xa, đó gọi là
vô ngã. Vì
nhân duyên ấy, nay ta thuyết dạy sự
chân thật về thường, lạc, ngã, tịnh.”
Tiên-ni nói: “Bạch Thế Tôn! Nguyện đức
Đại từ vì con thuyết dạy. Nay con phải làm thế nào để
đạt được những sự thường, lạc, ngã, tịnh như thế?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tất cả người
thế gian từ xưa vốn đã luôn có đủ sự
kiêu mạn[177] rất lớn, thường làm
tăng trưởng sự
kiêu mạn ấy, lại cũng tạo ra những
nguyên nhân của
kiêu mạn, những nghiệp
kiêu mạn, vì thế mà ngày nay phải thọ nhận
quả báo kiêu mạn, không thể lìa xa tất cả
phiền não để
đạt được thường, lạc, ngã, tịnh. [Cho nên,]
chúng sanh muốn lìa xa tất cả
phiền não thì trước hết phải thường lìa xa sự
kiêu mạn.”
Tiên-ni
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Quả đúng vậy, đúng vậy!
Lời Phật dạy không sai! Con trước đây thật có nhiều
kiêu mạn. Do
nhân duyên kiêu mạn nên mới dám gọi trổng
đức Như Lai bằng họ Cồ-đàm! Nay con đã
lìa bỏ sự
kiêu mạn rất lớn ấy nên mới
thành tâm thưa
thỉnh cầu nghe
Chánh pháp. [Nguyện
đức Như Lai dạy bảo cho] phải làm thế nào để
đạt được thường, lạc, ngã, tịnh?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Hãy lắng nghe cho kỹ, nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ông mà
phân biệt giảng nói.
“Thiện nam tử!
Nếu có thể [
nhận thức rằng tất cả pháp đều là] không phải ta, không phải người khác, không phải
chúng sanh, liền lìa xa [tất cả các] pháp ấy.”
Tiên-ni thưa: “Bạch Thế Tôn! Con đã rõ biết,
đạt được cách nhìn theo
Chánh pháp.”
Phật hỏi: “Thiện nam tử! Vì sao ông nói là đã rõ biết,
đạt được cách nhìn theo Chánh pháp?”
Tiên-ni thưa: “Bạch Thế Tôn! Cái gọi là sắc đó không phải ta, không phải người khác, không phải
chúng sanh;
cho đến thức cũng là như vậy.[178] Con quán xét như vậy nên
đạt được cách nhìn theo
Chánh pháp.
“Bạch Thế Tôn! Nay con rất muốn
xuất gia tu đạo, xin Phật
chấp thuận.”
Phật dạy: “Lành thay đó, tỳ-kheo!”
[Lời Phật vừa dứt,] Tiên-ni
tức thời được trọn đủ
Phạm hạnh thanh tịnh, chứng được
thánh quả A-la-hán.
Trong chúng
ngoại đạo lại có một
Phạm chí họ Ca-diếp
lên tiếng hỏi rằng: “Cồ-đàm! Thân này tức là mạng sống, hay thân với mạng sống là khác nhau?”
Đức Như Lai lặng thinh. [
Phạm chí] lại hỏi đến lần thứ hai, thứ ba, Phật vẫn lặng thinh.
Phạm chí Ca-diếp liền nói: “Cồ-đàm! Như khi một người đã bỏ thân [đời này], chưa được thân
đời sau;
trong khoảng trung gian ấy chẳng phải thân và mạng sống là khác nhau hay sao? Nếu là khác nhau, vì sao Cồ-đàm [không nói là khác nhau mà] lặng thinh chẳng đáp?”
Phật nói: “Thiện nam tử! Ta có dạy rằng thân và mạng sống đều do
nhân duyên, chẳng phải không do
nhân duyên. Lại cũng giống như thân và mạng sống, tất cả các pháp đều [do
nhân duyên] như vậy.”
Phạm chí lại nói: “Cồ-đàm! Tôi thấy ở
thế gian có những
pháp không do
nhân duyên.”
Phật hỏi: “Phạm chí! Ông thấy như thế nào [mà nói rằng]
thế gian có những
pháp không do nhân duyên?”
Phạm chí đáp: “Tôi thấy lửa mạnh thiêu cháy cây cối,
núi rừng; gió thổi những tàn lửa bay rơi xuống chỗ khác. Đó chẳng phải là không do
nhân duyên sao?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ta nói lửa ấy cũng do nhân mà sanh, chẳng phải không do nhân.”
Phạm chí nói: “Cồ-đàm! Những tàn lửa khi bay đi không
do nơi than củi, sao lại nói rằng
do nơi nhân duyên?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tuy không có than củi, nhưng là nhân nơi gió mà bay đi. Do
nhân duyên là gió nên tàn lửa [từ đám lửa] bay ra không dứt.”
Phạm chí hỏi: “Cồ-đàm! Như có một người đã bỏ thân [đời này], chưa được thân
đời sau, vậy mạng sống của người này
trong khoảng trung gian ấy lấy gì làm nhân duyên?”
Phật dạy: “Phạm chí!
Vô minh và
tham ái là
nhân duyên. Do
nhân duyên là
vô minh và
tham ái nên mạng sống được
duy trì.
“Thiện nam tử! Có khi do
nhân duyên nên thân tức là mạng sống, mạng sống tức là thân; có khi do
nhân duyên nên thân khác với mạng sống. Người trí không nên chỉ nói một chiều rằng thân khác với mạng sống.”
Phạm chí bạch rằng: “Thế Tôn! Xin ngài vì tôi
phân biệt giảng nói, khiến tôi thấu hiểu được
rõ ràng về
nhân quả.”
Phật dạy: “Phạm chí! Nhân tức là
năm ấm, quả cũng là
năm ấm. Nếu
chúng sanh nào không đốt lửa thì sẽ không thể có khói.”
Phạm chí thưa: “Bạch Thế Tôn! Con đã
nhận biết được rồi; con đã
hiểu rõ được rồi.”
Phật hỏi: “Thiện nam tử! Ông
nhận biết như thế nào? Ông
hiểu rõ như thế nào?”
Phạm chí thưa: “Bạch Thế Tôn! Lửa đó là
phiền não, có thể thiêu đốt trong các
cõi địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh,
cõi trời,
cõi người. Khói đó là
quả báo của
phiền não. Vì là
vô thường,
bất tịnh,
xấu xa, nhơ nhớp, đáng
chán ghét nên gọi là khói. Nếu
chúng sanh nào không gây tạo
phiền não, những người ấy quyết sẽ không có
quả báo của
phiền não. Cho nên
Như Lai nói: ‘Không đốt lửa sẽ không thể có khói.’
“Bạch Thế Tôn! Con đã
đạt được sự thấy biết chân chánh,
nguyện Phật từ bi thương xót cho phép con
xuất gia.”
Bấy giờ,
Thế Tôn bảo Kiều-trần-như rằng: “Hãy nhận cho
Phạm chí này
xuất gia thọ giới.”
Kiều-trần-như
vâng lời Phật dạy, liền hội họp
chúng tăng để nhận cho
Phạm chí họ Ca-diếp
xuất gia,
thọ giới cụ túc.
Trải qua năm ngày,
Phạm chí Ca-diếp liền chứng được
thánh quả A-la-hán.
Trong chúng
ngoại đạo lại có một
Phạm chí tên Phú-na
lên tiếng hỏi: “Cồ-đàm! Có phải ngài thấy
thế gian là
pháp thường tồn nên nói là thường chăng?
Ý nghĩa như vậy là
chân thật hay hư dối? Là
thường hay vô thường? Hay cũng là thường cũng là vô thường? Hay chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường? Là có
giới hạn hay
không giới hạn? Hay vừa có
giới hạn lại vừa
không giới hạn? Hay chẳng có
giới hạn cũng chẳng phải
không giới hạn? Thân này tức là mạng sống hay thân và mạng sống là khác nhau? Sau khi
Như Lai diệt độ rồi là như đi [mất] hay không như đi [mất]? Hay vừa như đi [mất] vừa không như đi [mất]? Hay là không phải như đi [mất] cũng không phải không như đi [mất]?”
Phật dạy: “Phú-na! Ta không nói [
ý nghĩa]
thế gian thường tồn [đó là]
hư dối hay
chân thật. [Ta cũng không nói
thế gian là]
vô thường, hay cũng là thường cũng là
vô thường; là chẳng phải thường chẳng phải
vô thường; là có
giới hạn hay
không giới hạn; là vừa có
giới hạn vừa không có
giới hạn; là chẳng phải có
giới hạn cũng chẳng phải
không giới hạn; hoặc thân này tức là mạng sống hay thân và mạng sống khác nhau; hoặc
Như Lai diệt độ rồi như đi [mất] hay chẳng như đi [mất]; hoặc vừa như đi [mất] vừa không như đi [mất]; hoặc không phải như đi [mất] cũng chẳng phải không như đi [mất].”
Phú-na lại hỏi: “Cồ-đàm! Nay ngài thấy được những điểm
sai trái tai hại nào mà không nói những điều như trên?”
Phật dạy: “Phú-na! Nếu có người nói rằng: ‘Thế gian là thường tồn’ rồi cho đó là điều
duy nhất chân thật, còn
ngoài ra đều là
hư dối. Đó gọi là [định] kiến. [Do
định kiến này nên] chỗ [mà người ấy] thấy biết gọi là
kiến hành,[179] gọi là chỗ thấy biết tạo nghiệp; gọi là chỗ thấy biết
vướng mắc; gọi là chỗ thấy biết
trói buộc; gọi là chỗ thấy biết [gây ra] sự
khổ não; gọi là chỗ thấy biết chấp giữ; gọi là chỗ thấy biết [gây ra] sự sợ sệt; gọi là chỗ thấy biết
nóng nảy; gọi là chỗ thấy biết buộc ràng chằng chịt.
“Này Phú-na! Kẻ
phàm phu bị cái [định] kiến [như thế] buộc trói chằng chịt, không thể lìa xa sanh, già, bệnh, chết, trôi lăn trong sáu nẻo, chịu
vô số khổ não.
“Cho đến [cái
định kiến rằng ‘sau khi
Như Lai diệt độ rồi] chẳng phải như đi [mất] cũng chẳng phải không như đi [mất],’ cũng là như vậy.[180]
“Này Phú-na! Ta thấy [những định] kiến ấy có sự
sai trái tai hại như thế nên không
vướng mắc vào, cũng không thuyết dạy [những điều ấy] với người khác.”
Phú-na lại thưa hỏi: “Cồ-đàm! Nếu [ngài] đã thấy được những
sai trái tai hại như vậy nên không
vướng mắc vào, cũng không thuyết dạy [những điều ấy với người khác], vậy nay Cồ-đàm thấy biết những gì,
vướng mắc những gì, thuyết dạy những gì?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Sự
vướng mắc vào chỗ thấy biết là pháp
sanh tử.
Như Lai đã lìa khỏi pháp
sanh tử nên không có
vướng mắc.
“Thiện nam tử!
Như Lai là bậc có thể thấy biết
rõ ràng và có thể thuyết dạy, không có sự
vướng mắc.
Phú-na lại thưa hỏi: “Cồ-đàm! Thế nào là có thể thấy biết rõ ràng? Thế nào là có thể thuyết dạy?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ta có thể thấy rõ [các
sự thật là] khổ,
nguyên nhân của khổ, [tức là tập], sự dứt trừ
hoàn toàn các
nguyên nhân của khổ, [tức là diệt] và
con đường dẫn đến sự
diệt khổ, [tức là đạo]; có thể
phân biệt thuyết giảng về bốn
chân lý ấy.
“Ta thấy rõ như vậy nên có thể lìa xa hết thảy mọi kiến [chấp],[181] hết thảy mọi
tham ái, hết thảy mọi sự
lưu chuyển [trong
sanh tử], hết thảy mọi sự
kiêu mạn; vì thế ta có đủ
Phạm hạnh thanh tịnh, sự
vắng lặng an tĩnh không gì hơn được, và
đạt được [Pháp] thân thường tồn. [Pháp] thân này cũng không thuộc về các [
phương hướng] đông, tây, nam, bắc.”[182]
Phú-na lại hỏi: “Thưa Cồ-đàm, do
nhân duyên gì mà [Pháp] thân thường tồn đó không thuộc về [các
phương hướng] đông, tây, nam, bắc?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nay ta sẽ hỏi ông, cứ
tùy ý mà
trả lời. Này
thiện nam tử, ý ông nghĩ sao, nếu
trước mặt ông đốt lên một đống lửa lớn,
đang khi lửa cháy ông có biết là cháy hay không?”
Phú-na đáp: “Thưa Cồ-đàm, có biết như vậy.”
Phật hỏi: “Khi lửa ấy tắt, ông có biết là tắt hay không?”
Phú-na đáp: “Thưa Cồ-đàm, có biết như vậy.”
Phật hỏi: “Nếu có người hỏi ông rằng, đống lửa
trước mặt ông đó, khi đốt lên thì lửa từ đâu đến, khi tắt rồi thì lửa đi về đâu, ông sẽ đáp thế nào?
Phú-na đáp: “Thưa Cồ-đàm, tôi sẽ đáp rằng: Lửa ấy khi sanh ra là
dựa vào các duyên [
hòa hợp], khi các duyên trước đó đã hết, các duyên mới chưa đến thì lửa phải tắt.”
Phật nói: “Nếu lại hỏi sau khi tắt lửa đi về phương nào thì ông đáp thế nào?”
Phú-na đáp: “Thưa Cồ-đàm, tôi sẽ đáp rằng: Lửa ấy vì hết duyên nên phải tắt, chẳng đi đến phương nào cả.”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế. Nếu có sắc
vô thường cho đến thức
vô thường, đó là nhân nơi
tham ái mà cháy. [Nói] ‘cháy’ đó tức là sự thọ thân trong
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Vì thế nên khi đang cháy có thể nói rằng lửa ấy ở nơi phương đông, phương tây, phương nam hoặc phương bắc. Khi
tham ái hiện tại dứt rồi,
quả báo trong
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu không còn cháy nữa. Vì lửa ấy không còn cháy nữa nên không thể nói là có các
phương hướng đông, tây, nam, bắc.
“Thiện nam tử!
Như Lai đã
diệt trừ sắc
vô thường cho đến thức
vô thường, nên thân
Như Lai là thường. Nếu thân
Như Lai là thường thì không thể nói là có các
phương hướng đông, tây, nam, bắc.”
Phú-na nói: “Bạch Thế Tôn! Nay con xin nói ra một
thí dụ, mong được
Thế Tôn nhận nghe.”
Phật dạy: “Lành thay,
lành thay! Ông cứ
tùy ý nói ra.”
Phú-na thưa: “Bạch Thế Tôn! Như phía ngoài thôn lớn kia có một khu rừng sa-la. Trong rừng ấy có một cây lớn sanh ra trước cả khu rừng, đã được trăm năm tuổi.
Lúc ấy, người giữ rừng thường tưới nước cho cây và
tùy theo thời tiết mà chăm sóc. Cây ấy [ngày càng] già đi, hư hoại dần, rồi vỏ cây, cành lá thảy đều rơi rụng, chỉ còn lại
duy nhất phần [lõi cây]
chân thật.
“Thế Tôn!
Đức Như Lai cũng thế, những gì già cũ đều đã trừ sạch, chỉ còn
duy nhất là
pháp chân thật.
“Bạch Thế Tôn! Nay con rất muốn được
xuất gia tu tập Chánh đạo.”
Đức Phật liền gọi: “Lành thay, hãy đến đây, tỳ-kheo!”
Lời Phật vừa dứt, Phú-na
lập tức [
trở thành người]
xuất gia, dứt sạch mọi
phiền não,
chứng đắc quả A-la-hán.[183]
Lại có một
Phạm chí tên
Thanh Tịnh lên tiếng hỏi rằng: “Cồ-đàm! Tất cả
chúng sanh do không
hiểu biết pháp nào mà thấy rằng
thế gian là thường, hoặc thấy là
vô thường, hoặc cũng là thường cũng là
vô thường, hoặc chẳng phải thường chẳng phải
vô thường...
cho đến [thấy rằng
Như Lai diệt độ rồi] chẳng phải như đi [mất] cũng chẳng phải không như đi [mất]?”[184]
Phật dạy: “Thiện nam tử! [Tất cả
chúng sanh] vì không
hiểu biết về sắc...
cho đến không
hiểu biết về thức,[185] nên thấy rằng
thế gian là thường...
cho đến [thấy rằng
Như Lai diệt độ rồi] chẳng phải như đi [mất] cũng chẳng phải không như đi [mất].”
Phạm chí lại hỏi: “Cồ-đàm!
Chúng sanh nhờ
hiểu biết pháp nào mà không thấy rằng
thế gian là thường...
cho đến [không thấy rằng
Như Lai diệt độ rồi] chẳng phải như đi [mất] cũng chẳng phải không như đi [mất]?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Chúng sanh nhờ
hiểu biết về sắc...
cho đến hiểu biết về thức, nên không thấy rằng
thế gian là thường...
cho đến [không thấy rằng
Như Lai diệt độ rồi] chẳng phải như đi [mất] cũng chẳng phải không như đi [mất].”
Phạm chí thưa: “Bạch Thế Tôn! Xin ngài vì con
phân biệt giảng nói về sự thường và
vô thường của
thế gian.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu người nào
buông bỏ mọi nghiệp cũ, không tạo
tác nghiệp mới, người ấy có thể rõ biết về thường và
vô thường.”
Phạm chí [
Thanh Tịnh] thưa: “Bạch Thế Tôn! Con đã
nhận biết, con đã
hiểu rõ.”
Phật hỏi: “Thiện nam tử! Ông
nhận biết như thế nào?
Hiểu rõ như thế nào?”
Phạm chí thưa: “Bạch Thế Tôn! Nói ‘cũ’ đó là
vô minh và
tham ái; nói ‘mới’ đó là [sự chấp] thủ và [hiện] hữu. Nếu người nào lìa xa
vô minh và
tham ái, không tạo tác [các nghiệp chấp] thủ và [hiện] hữu, người ấy rõ biết một cách
chân thật về thường và
vô thường.
“Bạch Thế Tôn! Nay con đã
đạt được cách nhìn
thanh tịnh đúng theo
Chánh pháp, xin
quy y Tam bảo, nguyện
đức Như Lai cho phép con
xuất gia.”
Phật bảo Kiều-trần-như: “Hãy cho vị
Phạm chí này
xuất gia thọ giới.”
Bấy giờ, Kiều-trần-như
vâng lời Phật dạy, liền đưa
Phạm chí Thanh Tịnh đến trước
chư tăng, làm pháp kiết-ma cho vị này
xuất gia. Mười lăm ngày sau đó,
Phạm chí Thanh Tịnh dứt sạch
phiền não,
chứng đắc quả A-la-hán.
[Khi ấy lại có vị]
Phạm chí tên
Độc Tử đứng lên nói: “Cồ-đàm! Nay tôi muốn hỏi, ngài có
cho phép chăng?”
Đức Như Lai lặng thinh.
Độc Tử lại hỏi đến lần thứ nhì, rồi lần thứ ba,
đức Như Lai vẫn lặng thinh [không đáp].
Độc Tử lại nói: “Cồ-đàm! Tôi với ngài là chỗ
thân hữu đã lâu, ngài với tôi nghĩa tình như một; nay tôi muốn hỏi, tại sao ngài lặng thinh?”
Bấy giờ,
đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Vị
Phạm chí này tánh tình nho nhã,
hiền lành,
thẳng thắn, thường vì sự
hiểu biết mới đến thưa hỏi chứ không có ý
quấy rối. Nếu ông ấy thưa hỏi, ta sẽ
tùy ý đáp.”
Phật liền nói: “Lành thay,
lành thay! Độc Tử, ông cứ tùy chỗ
nghi ngờ mà hỏi, ta sẽ
giải đáp.”
Độc Tử liền hỏi: “Cồ-đàm!
Thế gian này có
pháp thiện hay chăng?”
Phật đáp: “Phạm chí, có
pháp thiện.”
Lại hỏi: “Có pháp
bất thiện hay chăng?”
Phật đáp: “Phạm chí, có pháp
bất thiện.”
Độc Tử liền nói: “Cồ-đàm! Xin ngài vì tôi
giảng giải, giúp tôi
hiểu biết được về các
pháp thiện và
bất thiện.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Về những nghĩa ấy ta có thể
phân biệt giảng rộng, nhưng nay sẽ vì ông mà
giảng giải sơ lược.
“Thiện nam tử!
Tham dục là
bất thiện,
giải thoát khỏi
tham dục là thiện.
Sân khuể và
ngu si cũng vậy, [đều là
bất thiện,
giải thoát khỏi hai pháp này là thiện].
“Giết hại là
bất thiện, không giết hại là thiện...
cho đến tà kiến cũng là như vậy.[186]
“Thiện nam tử! Nay ta đã giảng với ông ba loại
pháp thiện và
bất thiện [là tham, sân, si], cũng đã giảng mười loại
pháp thiện và
bất thiện. Nếu trong các
đệ tử của ta, ai có thể
phân biệt được ba
pháp thiện và
bất thiện ấy,
cho đến mười
pháp thiện và
bất thiện, nên biết rằng người ấy có thể dứt hết
tham dục,
sân khuể,
ngu si, tất cả
phiền não, dứt trừ [sự
tái sanh trong] tất cả các
cảnh giới hiện hữu.”
Phạm chí thưa rằng: “Cồ-đàm! Trong pháp Phật liệu có một tỳ-kheo nào có thể dứt hết
tham dục,
sân khuể,
ngu si, tất cả
phiền não, dứt trừ [sự
tái sanh trong] tất cả các
cảnh giới hiện hữu hay không?
Phật dạy: “Thiện nam tử! Trong pháp Phật không chỉ có một, hai, ba...
cho đến năm trăm, mà có đến
vô số các vị tỳ-kheo có thể dứt hết
tham dục,
sân khuể,
ngu si, tất cả
phiền não, dứt trừ [sự
tái sanh trong] tất cả các
cảnh giới hiện hữu như vậy.”
Phạm chí nói: “Cồ-đàm! Hãy tạm gác lại chuyện một tỳ-kheo. Trong pháp Phật liệu có một tỳ-kheo ni nào có thể dứt hết
tham dục,
sân khuể,
ngu si, tất cả
phiền não, dứt trừ [sự
tái sanh trong] tất cả các
cảnh giới hiện hữu hay không?
Phật nói: “Thiện nam tử! Trong pháp Phật không phải chỉ có một, hai, ba...
cho đến năm trăm, mà có đến
vô số các vị tỳ-kheo ni có thể dứt hết
tham dục,
sân khuể,
ngu si, tất cả
phiền não, dứt trừ [sự
tái sanh trong] tất cả các
cảnh giới hiện hữu như vậy.”
Độc Tử lại nói: “Cồ-đàm! Hãy tạm gác lại chuyện một tỳ-kheo, một tỳ-kheo ni. Trong pháp Phật liệu có một ưu-bà-tắc nào
giữ giới tinh cần,
thanh tịnh Phạm hạnh,
vượt qua được sự
ngờ vực, dứt sạch mọi mối nghi hay chăng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Trong pháp Phật không phải chỉ có một, hai, ba...
cho đến năm trăm, mà có đến
vô số ưu-bà-tắc
giữ giới tinh cần,
thanh tịnh Phạm hạnh, trừ được năm mối
trói buộc,[187]
chứng đắc quả A-na-hàm,
vượt qua được sự
ngờ vực, dứt sạch mọi mối nghi.”
Độc Tử lại hỏi: “Cồ-đàm! Hãy tạm gác lại chuyện một tỳ-kheo, một tỳ-kheo ni, một ưu-bà-tắc. Trong pháp Phật liệu có một ưu-bà-di nào
giữ giới tinh cần,
thanh tịnh Phạm hạnh,
vượt qua được sự
ngờ vực, dứt sạch mọi mối nghi hay chăng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Trong pháp Phật không phải chỉ có một, hai, ba...
cho đến năm trăm, mà có đến
vô số ưu-bà-di
giữ giới tinh cần,
thanh tịnh Phạm hạnh, trừ được năm mối
trói buộc,
chứng đắc quả A-na-hàm,
vượt qua được sự
ngờ vực, dứt sạch mọi mối nghi.”
Độc Tử nói: “Cồ-đàm! Hãy tạm gác lại những chuyện một tỳ-kheo, một tỳ-kheo ni dứt hết
phiền não, một ưu-bà-tắc, một ưu-bà-di
giữ giới tinh cần,
thanh tịnh Phạm hạnh, dứt sạch mọi mối nghi. Trong pháp Phật liệu có một ưu-bà-tắc nào [
đạt đến mức]
thọ hưởng sự
vui thích năm món dục mà lòng không có mối nghi nào hay chăng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Trong pháp Phật không phải chỉ có một, hai, ba...
cho đến năm trăm, mà có đến
vô số ưu-bà-tắc đã dứt trừ ba mối
trói buộc,[188]
chứng đắc quả Tu-đà-hoàn; lại làm cho các tâm tham, sân và si chỉ còn rất
yếu ớt,
chứng đắc quả Tư-đà-hàm.
“Cũng giống như ưu-bà-tắc, [có
vô số] ưu-bà-di [
đạt được] như vậy.”
Độc Tử thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Nay con muốn nói ra một
thí dụ.”
Phật dạy: “Lành thay! Ông đã muốn nói, vậy hãy nói đi!”
Độc Tử nói: “Bạch Thế Tôn!
Ví như các vị
long vương Nan-đà, Bà-nan-đà... đổ trận mưa lớn đều khắp; trận mưa
Chánh pháp của
Như Lai cũng giống như vậy,
bình đẳng rưới xuống
cho đến hàng ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.
“Bạch Thế Tôn! Nếu những người
ngoại đạo muốn đến đây
xuất gia, không biết
Như Lai sẽ
thử thách họ trong mấy tháng?”
Phật nói: “Thiện nam tử! Thường
thử thách trong bốn tháng, nhưng không
nhất định chỉ có một hạng [như vậy].”
Độc Tử thưa: “Bạch Thế Tôn!
Nếu không [
nhất định] chỉ có một hạng [phải chịu
thử thách trong bốn tháng], vậy nguyện đức
Đại từ cho phép con
xuất gia.”
Lúc ấy,
đức Thế Tôn bảo Kiều-trần-như: “Hãy nhận cho
Phạm chí Độc Tử xuất gia thọ giới.”
Kiều-trần-như
vâng lời Phật dạy liền ở giữa
chúng tăng làm pháp kiết-ma cho
Độc Tử [
xuất gia thọ giới]. Sau khi
xuất gia được mười lăm ngày,
Độc Tử chứng đắc quả Tu-đà-hoàn.
Chứng đắc quả Tu-đà-hoàn rồi,
Độc Tử lại
suy nghĩ rằng: “Nếu thật có
trí tuệ do sự
học hỏi mà
đạt được thì nay ta đã
đạt được [
trí tuệ ấy] rồi, ta có thể đến gặp Phật.”
[Nghĩ như vậy rồi,] ông liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu và mặt
lễ kính, rồi lui xuống đứng sang một bên,
bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nay con đã
đạt được trí tuệ do sự
học hỏi, nguyện
đức Thế Tôn vì con mà
phân biệt thuyết dạy
một lần nữa, giúp con
đạt đến trí tuệ của bậc
vô học.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ông nên
chuyên cần tu tập hai pháp, một là
pháp chỉ, hai là pháp quán.[189]
“Thiện nam tử! Nếu tỳ-kheo nào muốn
chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, cũng phải
chuyên cần tu tập hai pháp ấy. Nếu ai muốn
chứng đắc các quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, cũng đều phải
tu tập hai pháp ấy.
“Thiện nam tử! Nếu tỳ-kheo nào muốn
đạt được Bốn mức thiền,
Bốn tâm vô lượng, Sáu
thần thông,
Tám sự buông xả,[190]
Tám thắng xứ,
Vô tranh trí, Đỉnh trí,
Tất cánh trí,
Tứ vô ngại trí, Tam-muội
Kim cang,
Tận trí,
Vô sanh trí, cũng đều phải
tu tập hai pháp ấy.
“Thiện nam tử! Nếu ai muốn
đạt đến Thập trụ địa,
Vô sanh pháp nhẫn,
Vô tướng pháp nhẫn,
Bất khả tư nghị pháp nhẫn,
Thánh hạnh,
Phạm hạnh,
Thiên hạnh,
Bồ Tát hạnh, Tam-muội
Hư không, Tam-muội
Trí ấn, các
Tam-muội Không,
Vô tướng,
Vô tác; Tam-muội Địa, Tam-muội
Bất thối, Tam-muội
Thủ Lăng Nghiêm, Tam-muội
Kim cang,
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, Phật hạnh, cũng đều phải
tu tập hai pháp ấy.”
Nghe Phật dạy rồi, tỳ-kheo
Độc Tử liền
lễ bái lui ra. Ngay trong rừng sa-la, ông [
chuyên cần]
tu tập hai
pháp chỉ và quán, không bao lâu liền
chứng đắc quả A-la-hán.
Bấy giờ, lại có
vô số tỳ-kheo muốn đi đến chỗ Phật.
Độc Tử nhìn thấy liền hỏi: “Chư đại đức! Quý thầy muốn đi đến đâu?” Các vị tỳ-kheo đáp: “Chúng tôi muốn đi đến chỗ
đức Phật.”
Độc Tử liền nói: “Chư đại đức! Nếu quý thầy đi đến chỗ Phật, xin vì tôi trình lên
đức Thế Tôn rằng: ‘Tỳ-kheo
Độc Tử đã
tu tập hai
pháp chỉ và quán,
đạt được trí tuệ vô học. Nay muốn
báo ơn Phật nên sẽ [xả bỏ thân này mà] nhập Niết-bàn.”
Lúc ấy, các vị tỳ-kheo đi đến chỗ
đức Phật rồi liền bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo
Độc Tử nhờ chúng con trình lên
đức Thế Tôn rằng: ‘Tỳ-kheo
Độc Tử nhờ
tu tập hai
pháp chỉ và quán, đã
đạt được trí tuệ vô học. Nay muốn
báo ơn Phật nên sẽ [xả bỏ thân] nhập Niết-bàn.’”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tỳ-kheo
Độc Tử đã
chứng đắc quả A-la-hán, các ông nên đến đó
cúng dường nhục thân.”
Các vị tỳ-kheo
vâng lời Phật dạy,
trở lại chỗ tỳ-kheo
Độc Tử [
xả thân], tổ chức
đại lễ cúng dường.
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN BA MƯƠI CHÍN
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN BỐN MƯƠI
KIỀU-TRẦN-NHƯ
Phẩm thứ mười ba – Phần ba
Bấy giờ lại có
Phạm chí Nạp Y lên tiếng nói rằng: “Cồ-đàm! Ông nói rằng [người ta] trong
vô số kiếp từng làm những
việc thiện hay
bất thiện, đến đời
vị lai sẽ
trở lại thọ lãnh các
thân thiện và
bất thiện [
tương ứng với
việc đã làm]. Nghĩa ấy là không đúng.
“Vì sao vậy? Như Cồ-đàm có nói: Nhân nơi
phiền não mà có thân này. Nếu nhân nơi
phiền não mà có thân, vậy thân có trước hay
phiền não có trước? Nếu
phiền não có trước, vậy ai tạo tác? [Khi chưa có thân thì]
phiền não ấy ở nơi nào? Còn nếu thân có trước, sao lại nói rằng nhân nơi
phiền não mà có thân?
“Cho nên, không thể nói là
phiền não có trước thân, cũng không thể nói thân có trước
phiền não. Cũng không thể nói hai thứ ấy có cùng một lúc. Như vậy, trước, sau hay
cùng lúc đều không hợp nghĩa. Cho nên tôi nói rằng: ‘Tất cả các pháp đều có
tự tánh, không do
nhân duyên.’
“Lại nữa, Cồ-đàm! Tánh chất của đất là cứng chắc, tánh chất của nước là ẩm ướt, tánh chất của lửa là nóng ấm, tánh chất của gió là chuyển động, tánh chất của
hư không là không ngăn ngại. Tánh chất của năm đại ấy không phải do
nhân duyên mà có. Nếu như ở
thế gian có tánh của một pháp [nào đó] không do
nhân duyên mà có, thì tánh của tất cả pháp lẽ ra cũng vậy, không do
nhân duyên mà có. Nếu có một pháp [nào đó] do
nhân duyên, vậy do
nhân duyên gì mà tánh của năm đại lại không do nhân duyên?
“Cồ-đàm! Những
thân thiện và
bất thiện của
chúng sanh đạt được sự giải thoát đều là do
tự tánh, không do
nhân duyên. Cho nên tôi nói: ‘Tất cả các pháp do
tự tánh mà có, chẳng phải do
nhân duyên sanh ra.’
“Lại nữa, Cồ-đàm! Các pháp
thế gian đều có chỗ dùng
nhất định.
Ví như người thợ mộc nói: ‘Loại gỗ này dùng làm xe, làm kiệu... loại gỗ này dùng làm cửa, làm giường, ghế...’ Lại như người thợ kim hoàn làm ra những vật trang sức, đội trên trán gọi là tràng [hoa], đeo nơi cổ gọi là vòng cổ, đeo nơi tay gọi là vòng xuyến, đeo ở ngón tay lại gọi là nhẫn...
“Vì chỗ dùng đã sẵn định, nên gọi là tánh cố định. Nên biết rằng tất cả
chúng sanh cũng vậy, vì sẵn có tánh của
năm cảnh giới nên mới có
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh,
cõi người,
cõi trời. Nếu là như vậy, sao lại nói rằng [sự thọ sanh là] do nhân duyên?
“Lại nữa, Cồ-đàm! Tánh của tất cả
chúng sanh thảy đều khác nhau, cho nên nói là mỗi
chúng sanh đều tự có tánh riêng.
“Cồ-đàm! Như con rùa sanh ở
đất liền, nhưng tự nó có khả năng sống
dưới nước. Con bê con vừa sanh ra tự có thể bú vú mẹ. Con cá thấy mồi ở lưỡi câu
tự nhiên đớp ăn. Con
rắn độc lúc sanh ra
tự nhiên ăn đất... Những việc như vậy, có ai dạy
chúng nó chăng? Như mũi gai khi sanh ra
tự nhiên có đầu nhọn. Như loài chim
tự nhiên bộ lông có những màu sắc khác nhau...
“Chúng sanh ở
thế gian cũng vậy, có người
lanh lợi, có kẻ
ngu độn, có người giàu, kẻ nghèo; người đẹp, kẻ xấu, có người
được giải thoát, có kẻ không được... Cho nên biết rằng: ‘Trong tất cả các pháp, mỗi pháp đều sẵn có tự tánh’.
“Lại nữa, Cồ-đàm! Như ông có nói:
tham dục,
sân khuể và
si mê đều do
nhân duyên sanh ra;
ba độc này có
nhân duyên là năm
trần cảnh: [
hình sắc,
âm thanh, mùi hương, vị nếm và sự xúc chạm]. Nghĩa ấy
thật không đúng!
“Vì sao vậy?
Chúng sanh trong lúc ngủ là lìa xa năm
trần cảnh, nhưng vẫn sanh tham, sân, si. Lúc còn trong
bào thai cũng vậy. Khi vừa mới ra khỏi
bào thai, chưa thể
phân biệt được sự tốt xấu của năm
trần cảnh, nhưng vẫn sanh tham, sân, si. Các vị tiên, các bậc
thánh hiền dù ở nơi vắng vẻ yên tĩnh, không hề có năm
trần cảnh, cũng có thể sanh tham, sân, si. Lại có những người dù nhân ở năm
trần cảnh mà không hề sanh ra tham, sân, si. Cho nên, không
nhất thiết phải do
nhân duyên sanh ra tất cả các pháp, đó đều là do tánh [của các pháp] tự sẵn có.
“Lại nữa, Cồ-đàm! Tôi thấy ở đời có những kẻ không đủ năm
giác quan nhưng có nhiều
tài sản,
vật báu, được sống rất
tự do; lại có những người tuy đầy đủ các
giác quan nhưng nghèo túng, hèn hạ, không được sống
tự do, phải làm tôi tớ hầu hạ người khác. Nếu có
nhân duyên, vì sao lại như vậy? Cho nên các pháp thảy đều sẵn có
tự tánh, không do
nhân duyên.
“Lại nữa, Cồ-đàm! Những trẻ thơ ở
thế gian chưa biết
phân biệt năm
trần cảnh, lúc khóc lúc cười. Khi thấy trẻ cười liền biết chúng vui; khi thấy khóc liền biết chúng buồn. Cho nên biết rằng: Trong tất cả các pháp, thảy đều sẵn có
tự tánh.
“Lại nữa, Cồ-đàm! Pháp
thế gian có hai loại, một là pháp có, hai là
pháp không. Pháp có là như
hư không...,
pháp không là như
sừng thỏ... Trong hai pháp ấy, pháp thứ nhất vì là có nên không do
nhân duyên; pháp thứ hai vì là không nên cũng không do
nhân duyên. Cho nên, các pháp đều vì sẵn có
tự tánh mà không do
nhân duyên.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như ông vừa nói: ‘Tánh của tất cả các pháp lẽ ra cũng giống như tánh của năm đại.’ Nghĩa ấy không đúng.
“Vì sao vậy?
Thiện nam tử! Như trong pháp của các ông cho rằng năm đại là thường. Vậy do
nhân duyên gì mà tất cả các pháp đều vô thường? Nếu sự vật
thế gian thật là
vô thường, vậy do
nhân duyên gì mà tánh của năm
đại không phải vô thường? Nếu năm đại là thường thì sự vật
thế gian lẽ ra cũng phải là thường! Cho nên, lời ông nói rằng: ‘Năm đại sẵn có
tự tánh không do nhân duyên’, lại cho rằng ‘tất cả các pháp cũng đồng như năm đại’, thật là vô lý!
“Thiện nam tử! Ông nói rằng: ‘Vì [sự vật đều] có chỗ dùng
nhất định nên [biết là] sẵn có
tự tánh.’ Nghĩa ấy cũng không đúng. Vì sao vậy? Tất cả đều
do nơi nhân duyên nên mới có tên gọi. Nếu do nhân mà có tên, thì cũng do nhân mà có nghĩa. Sao gọi là do nhân mà có tên? Như [đều là] những cái vòng tròn, [nhưng] đội trên trán gọi là
tràng hoa, đeo nơi cổ gọi là vòng cổ, đeo ở tay gọi là vòng xuyến, dùng trong xe lại gọi là bánh xe...; [lại như] lửa do cỏ khô, củi... đốt lên thì gọi là lửa cỏ khô, lửa củi...
“Thiện nam tử! Cái cây mới mọc lên không hề có tánh chất của mũi tên hay ngọn giáo. Do
nhân duyên, người thợ làm thành những mũi tên; cũng do
nhân duyên, người thợ làm thành những ngọn giáo... Vì thế, không nên nói rằng: ‘Tất cả các pháp đều sẵn có
tự tánh.’
“Thiện nam tử! Ông nói rằng: ‘Con rùa sanh ở
đất liền, tánh của nó là tự
đi xuống nước; con bê con vừa sanh ra, tánh của nó là có thể bú vú mẹ.’ Nghĩa ấy cũng không đúng.
“Vì sao vậy? Nếu nói con rùa
đi xuống nước không do
nhân duyên, vậy cũng là không do
nhân duyên, sao rùa chẳng
đi vào trong lửa? [Nếu nói] con bê con sanh ra rồi, tánh
tự nhiên của nó là có thể bú vú mẹ chứ không do
nhân duyên, vậy cũng là không do
nhân duyên, sao bê con lại chẳng bú cái sừng?
“Thiện nam tử! Nếu nói các pháp thảy đều sẵn có
tự tánh, không cần có
sự giáo hóa học tập, không có sự
tăng trưởng. Nghĩa ấy cũng không đúng.
“Vì sao vậy? Hiện nay
trước mắt thấy rõ có
sự giáo hóa, và nhờ
giáo hóa nên được
tăng trưởng.
Vì vậy, phải biết rằng [các pháp thật] không có
tự tánh [
nhất định].
“Thiện nam tử! Nếu hết thảy các pháp đều sẵn có
tự tánh [
nhất định], thì tất cả các vị bà-la-môn không nên giết dê tế thần để làm
trong sạch cái thân. Nếu còn vì [muốn làm
trong sạch]
thân thể mà tế thần, vậy nên biết rằng không hề sẵn có
tự tánh [
nhất định].
“Thiện nam tử! Trong ngữ pháp của
thế gian có phân ra ba cách [
diễn đạt sự việc], một là [nói về việc] muốn làm, hai là [nói về việc] đang làm, ba là [nói về việc] đã làm xong.[191] Nếu tất cả các pháp đều sẵn có
tự tánh [
nhất định], vì sao trong
thế gian lại có ba cách
diễn đạt [khác nhau] ấy? Vì có ba cách
diễn đạt [thay đổi khác nhau], nên biết rằng tất cả các
pháp không hề sẵn có
tự tánh [
nhất định].
“Thiện nam tử! Nếu nói rằng các pháp sẵn có
tự tánh [
nhất định], thì nên biết rằng mỗi pháp đều phải có tánh chất cố định. Nếu có
tính chất cố định, vậy do
duyên cớ gì mà từ cây mía lại có thể làm ra [các thứ khác nhau như] nước ngọt, đường, đường phèn, rượu, rượu thuốc...? Nếu chỉ có một tánh [cố định], vậy do
duyên cớ gì [từ một sự vật mà] tạo ra được nhiều
mùi vị khác nhau? Nếu từ một vật [có thể] làm ra nhiều loại như vậy, nên biết rằng trong các
pháp không thể mỗi pháp đều có
tính chất cố định.
“Thiện nam tử! Nếu tất cả pháp đều có
tính chất cố định, tại sao bậc
thánh nhân uống nước ngọt của mía, ăn
các loại đường phèn, đường tán... nhưng khi mía làm ra rượu thì các vị không uống, sau đó chế thành rượu thuốc thì lại uống được? Cho nên phải biết rằng [các pháp đều] không có
tính chất cố định.
Nếu không có
tính chất cố định, vì sao lại [nói là] không do
nhân duyên mà có?
“Thiện nam tử! Ông nói các pháp [đều sẵn] có
tự tánh, vậy vì sao [khi giảng] nói [có thể dùng] thí dụ?[192] Nếu có các
thí dụ, nên biết rằng các pháp là không có
tự tánh [cố định]. Nếu [các pháp đều] có
tự tánh [cố định], nên biết rằng không thể có
thí dụ. Nhưng người có trí ở
thế gian đều nói
thí dụ, nên biết rằng các
pháp không hề có
tự tánh, không hề có một tánh cố định.
“Thiện nam tử! Ông có hỏi: ‘Thân có trước hay
phiền não có trước?’ Câu hỏi ấy không hợp nghĩa. Vì sao vậy? Nếu ta nói rằng thân có trước, hẳn ông có thể vặn lại rằng: ‘Ngài cũng đồng như tôi.’[193] [Còn nếu ta nói] thân không có trước thì do
nhân duyên gì ông lại
vặn hỏi như thế?[194]
“Thiện nam tử! Thân và
phiền não của tất cả
chúng sanh đều không có trước sau,
đồng thời hiện hữu. Tuy
đồng thời hiện hữu nhưng phải nhân nơi
phiền não mà có thân, chứ không thể nhân nơi thân mà có
phiền não.
“Nhưng nếu ông có ý cho rằng thân và
phiền não cũng giống như hai con mắt người
cùng lúc mà có, không nương chờ nhau; mắt trái không
phụ thuộc mắt phải, mắt phải cũng không
phụ thuộc mắt trái, thì nghĩa ấy không đúng.
“Vì sao vậy?
Thiện nam tử! Như ở
thế gian, mắt tuy
cùng lúc nhìn thấy tim đèn và ánh sáng, nhưng ánh sáng phải nhân nơi tim đèn [mà có],
tuyệt đối không thể nhân nơi ánh sáng mà có tim đèn!
“Thiện nam tử! Nếu ý ông cho rằng vì thân trước đó không có [
nhân duyên][195] nên biết rằng [thân ấy] không do nhân [mà có], nghĩa ấy cũng không đúng. Vì sao vậy? Nếu nói vì thân có trước nên không có
nhân duyên, do đó gọi là không [
nhân duyên] thì ông càng không nên nói [như vậy].
“Tất cả các pháp đều có
nhân duyên. Nếu nói rằng vì không thấy nên không nói, thì hiện nay thật có nhìn thấy những vật [
trước mắt] như cái bình.v.v... đều do
nhân duyên mà có, vì sao không thể nói rằng những
nhân duyên trước đó của thân cũng giống như [
trường hợp] cái bình...?
“Thiện nam tử! Cho dù nhìn thấy hay không nhìn thấy, tất cả các pháp đều do
nhân duyên, không sẵn có
tự tánh.
“Thiện nam tử! Nếu nói rằng tất cả các pháp đều có
tự tánh, không do
nhân duyên, vậy vì sao ông nói về năm đại? Tánh của năm đại ấy chính là
nhân duyên.
“Thiện nam tử! Tuy rằng năm đại là
nhân duyên, nhưng cũng không thể nói rằng các pháp đều có
cùng nhân duyên là năm đại. Cũng như người đời nói rằng: ‘Tất cả những người
xuất gia nên
tinh cần giữ giới.’ Nhưng [thật ra đến cả] hạng chiên-đà-la cũng nên
tinh cần giữ giới như vậy.
“Thiện nam tử! Ông nói rằng năm đại có tánh cố định là cứng chắc, [ẩm ướt].v.v... Ta quán xét thấy những tánh chất ấy là
biến chuyển chứ không cố định.
“Thiện nam tử! Trong pháp của các ông gọi các thứ bơ, sáp ong, hồ, keo... là thuộc chất đất. Chất đất ấy không [có
tính chất]
nhất định,
hoặc đồng với nước,
hoặc đồng với đất, cho nên không thể nói rằng tánh của nó [cố định] là cứng chắc.
“Thiện nam tử! Trong pháp của các ông gọi
các loại như hợp kim chì pha thiếc,[196] chì, thiếc, đồng, sắt, vàng, bạc... là thuộc chất lửa. Chất lửa ấy lại có đủ bốn tánh chất là: khi chảy là tánh nước, khi động là tánh gió, khi nóng là tánh lửa, khi cứng là tánh đất.[197] Sao có thể nói rằng tánh lửa là cố định?
“Thiện nam tử! Tánh của nước là tuôn chảy. Khi nước đông đặc, người ta không gọi là đất, nên gọi là tánh lửa, vậy do
nhân duyên gì mà khi sóng nước động chẳng gọi là gió?[198] Nếu khi nước động chẳng gọi là gió, thì khi nước đông đặc lẽ ra cũng không thể gọi là lửa! Nếu bốn tánh ấy đều do
nhân duyên, vì sao lại nói rằng: ‘Tất cả các
pháp không do nhân duyên?’
“Thiện nam tử! Nếu nói tánh của năm
giác quan là có thể thấy, nghe, rõ biết, xúc chạm, đều là
tự tánh sẵn có chứ không do
nhân duyên. Nghĩa ấy cũng không đúng.
“Vì sao vậy?
Thiện nam tử!
Tự tánh là tánh chất không thể thay đổi. Nếu nói [tự] tánh của mắt là thấy, lẽ ra mắt phải thường thấy, không thể có lúc thấy lúc không. [Nhưng thật ra không phải vậy,] nên phải biết là do
nhân duyên mà thấy, chứ không phải không có
nhân duyên.
“Thiện nam tử! Ông nói rằng không phải nhân nơi năm
trần cảnh: [
hình sắc,
âm thanh, mùi hương, vị nếm và sự xúc chạm] mà sanh ra tham, [sân, si...
cho đến được]
giải thoát. Nghĩa ấy cũng không đúng.
“Vì sao vậy?
Thiện nam tử! Tuy việc sanh tham, [sân, si...
cho đến được]
giải thoát không do
nhân duyên là năm
trần cảnh, nhưng do các suy niệm
vọng tưởng xấu ác nên mới sanh
tham dục...; và nhờ các
suy tưởng tốt lành nên mới
được giải thoát.[199]
“Thiện nam tử! Do các
nhân duyên bên trong mà khởi sanh tham, [sân, si...
cho đến được]
giải thoát; do các
nhân duyên bên ngoài mà
tăng trưởng tham, [sân, si...
cho đến được]
giải thoát. Cho nên lời ông nói rằng: ‘Tất cả các pháp đều riêng có
tự tánh, không do năm trần mà sanh tham, [sân, si...
cho đến được]
giải thoát,’ đó là không
hợp lý.
“Thiện nam tử! Ông nói rằng: ‘Có những kẻ năm
giác quan chẳng đủ, nhưng có nhiều
tài sản,
vật báu, được sống rất
tự do; lại có những người tuy đầy đủ các
giác quan nhưng nghèo túng, không được sống
tự do. Do đó biết rằng họ sẵn có
tự tánh, không do
nhân duyên.’ Nghĩa ấy cũng không đúng.
“Vì sao vậy?
Thiện nam tử!
Chúng sanh do nghiệp mà có
quả báo.
Quả báo ấy có ba loại, một là
quả báo ngay
trong đời hiện tại, hai là
quả báo vào đời
kế tiếp, ba là
quả báo vào những
đời sau nữa. Sự nghèo túng,
giàu sang hoặc đầy đủ hay không đầy đủ các
giác quan đều là những nghiệp khác nhau. Nếu là có
tự tánh thì những người đầy đủ các căn lẽ ra cũng phải
giàu có sung túc; những kẻ
giàu có lẽ ra cũng phải đầy đủ các căn [vì là
tự tánh tốt đẹp]. Nhưng
thực tế trước mắt không phải như thế, nên biết chắc rằng không sẵn có
tự tánh, thảy đều do
nhân duyên.
“Thiện nam tử! Như lời ông nói: ‘Những trẻ con ở
thế gian chưa biết
phân biệt nhân duyên năm
trần cảnh, nhưng chúng cũng khóc, cũng cười, cho nên tất cả đều sẵn có
tự tánh.’ Nghĩa ấy cũng không đúng.
“Vì sao vậy? Nếu chúng sẵn có
tự tánh thì nếu cười ắt phải cười luôn, nếu khóc thì phải khóc mãi, không thể có lúc cười lúc khóc. Nếu đã có lúc cười lúc khóc, nên biết rằng tất cả đều do
nhân duyên.
Vì vậy, không nên nói rằng: ‘Tất cả các pháp đều sẵn có
tự tánh, không do
nhân duyên.’”
Phạm chí Nạp Y lại hỏi: “Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các pháp đều do
nhân duyên mà có, vậy cái thân này do
nhân duyên gì?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Nhân duyên của thân này là
phiền não và nghiệp.”
Phạm chí [
Nạp Y] hỏi: “Thế Tôn! Như thân này là do
phiền não và nghiệp, vậy
phiền não và nghiệp ấy có thể dứt trừ chăng?”
Phật dạy: “Đúng vậy, đúng vậy! Thật có thể dứt trừ.”
Phạm chí [
Nạp Y] thưa: “Bạch Thế Tôn! Xin ngài vì con
phân biệt giảng thuyết, khiến con được nghe rồi có thể ngay tại nơi đây mà dứt
trừ phiền não và nghiệp.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu ai rõ biết
hoàn toàn thông suốt về hai bên và khoảng giữa, người ấy sẽ dứt trừ được
phiền não và nghiệp.”
Phạm chí [
Nạp Y] thưa: “Bạch Thế Tôn! Con đã rõ biết,
đạt được cách nhìn theo đúng
Chánh pháp.”
Phật hỏi: “Ông rõ biết như thế nào?”
Phạm chí [
Nạp Y] thưa: “Bạch Thế Tôn! Hai bên đó là sắc và
giải thoát khỏi sắc; khoảng giữa tức là Tám
Chánh đạo. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.”
Phật dạy: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử, ông đã rõ biết về hai bên, dứt trừ được
phiền não và nghiệp.”
Phạm chí [
Nạp Y] lại thưa: “Bạch Thế Tôn! Xin
cho phép con
xuất gia thọ giới.”
Đức Phật liền gọi: “Lành thay, hãy đến đây, tỳ-kheo!”
Lời Phật vừa dứt,
Phạm chí Nạp Y liền ngay khi ấy dứt trừ hết thảy
phiền não trong
Ba cõi,
chứng đắc quả A-la-hán.
Lúc ấy, lại có một bà-la-môn tên là Hoằng Quảng
lên tiếng hỏi rằng: “Cồ-đàm! Ngài có biết được
ý nghĩ của tôi
hiện giờ hay chăng?”
Phật nói: “Thiện nam tử! Niết-bàn là thường, các
pháp hữu vi là
vô thường, sự cong vạy là
tà kiến,
chánh trực là
Thánh đạo.”
Bà-la-môn Hoằng Quảng hỏi: “Cồ-đàm! Do
nhân duyên gì ngài nói ra như vậy?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ý ông thường cho rằng [việc người
xuất gia]
khất thực là thường, nhận
cúng dường riêng tại nhà
gia chủ là
vô thường; sự cong vạy là ổ khoá cửa vào nhà,
chánh trực là ngọn cờ của vua
trời Đế Thích. Cho nên ta [nương theo đó mà] nói: ‘Niết-bàn là thường, các
pháp hữu vi là
vô thường, cong vạy là
tà kiến,
chánh trực là Tám
chánh đạo. Như vậy chẳng phải đúng như chỗ
suy nghĩ của ông trước đó hay sao?”
Bà-la-môn nói: “Quả thật Cồ-đàm biết được trong tâm tôi. Thưa Cồ-đàm! Tám
Chánh đạo ấy có thể khiến cho
chúng sanh được dứt trừ tất cả [
phiền não và nghiệp] hay chăng?”
Lúc ấy,
đức Thế Tôn lặng thinh không đáp.
Bà-la-môn [Hoằng Quảng] nói: “Cồ-đàm đã biết được trong tâm tôi, nay đối với câu hỏi của tôi vì sao lại lặng thinh không đáp?”
Bấy giờ, ngài Kiều-trần-như liền nói: “Đại bà-la-môn! Nếu có ai hỏi
thế gian là
giới hạn hay
không giới hạn, thì
đức Như Lai thường lặng thinh chẳng đáp.
Tám Thánh đạo là
con đường chánh trực, Niết-bàn là thường. Nếu ai
tu tập Tám Thánh đạo liền được dứt trừ tất cả [
phiền não và nghiệp];
nếu không tu tập Tám Thánh đạo, thì không thể được
diệt trừ tất cả [
phiền não và nghiệp].
“Đại bà-la-môn!
Ví như có một thành lớn, tường thành bao quanh đều không có chỗ trống, chỉ có một cửa vào thành mà thôi. Người giữ cửa thành rất
thông minh trí tuệ, biết
phân biệt những ai nên cho qua thì cho qua, những ai nên ngăn lại thì ngăn lại. Tuy người ấy không thể biết được số người vào ra là nhiều hay ít, nhưng biết chắc rằng tất cả những ai muốn vào hay ra đều phải qua cửa ấy.
“Thiện nam tử!
Đức Như Lai cũng thế. Thành lớn là ví với Niết-bàn, cửa thành ví với
Tám Thánh đạo, người giữ cửa thành ví với
Như Lai.
“Thiện nam tử! Nay tuy
Như Lai không đáp với ông là dứt trừ hết hay không dứt trừ hết tất cả [
phiền não và nghiệp], nhưng ai muốn được dứt trừ hết tất cả [
phiền não và nghiệp] đều
cần phải tu tập Tám Thánh đạo ấy.”
Bà-la-môn [Hoằng Quảng] nói: “Lành thay,
lành thay! Đại đức Kiều-trần-như!
Như Lai khéo giảng
Chánh pháp vi diệu. Nay tôi thật lòng muốn rõ biết thành lớn Niết-bàn ấy, muốn rõ biết
Tám thánh đạo để tự mình làm người giữ cửa thành.”
Kiều-trần-như nói: “Lành thay,
lành thay! Bà-la-môn, nay ông có thể
phát tâm Vô thượng rộng lớn thay!”
Phật dạy: “Thôi đi, Kiều-trần-như, ông không nên nói ra lời ấy! Vì chẳng phải đến hôm nay vị bà-la-môn này mới
phát tâm như vậy.
“Kiều-trần-như! Vào thuở
quá khứ, cách nay
vô lượng kiếp, có một
đức Phật Thế Tôn hiệu là
Phổ Quang Minh,
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri,
Minh hạnh túc,
Thiện thệ,
Thế gian giải,
Vô thượng sĩ Điều ngự trượng phu,
Thiên nhân sư, Phật,
Thế Tôn. Vị bà-la-môn này đã từng đối trước
đức Phật ấy
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Trong
Hiền kiếp này, ông ấy sẽ
thành Phật. Ông ấy từ lâu đã
thông đạt, hiểu rành tướng trạng của các pháp, nhưng vì
chúng sanh nên
thị hiện vào trong chúng
ngoại đạo, chỉ dạy cho họ những điều chưa biết.
“Kiều-trần-như! Vì
nhân duyên ấy, ông không nên nói [với vị bà-la-môn này] rằng: ‘Nay ông có thể
phát tâm lớn lao như vậy.’”
Lúc ấy, tuy
đức Thế Tôn đã biết nhưng [
phương tiện] hỏi Kiều-trần-như rằng: “Tỳ-kheo A-nan hiện đang ở đâu?”
Kiều-trần-như đáp: “Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo A-nan hiện ở ngoài rừng Sa-la, cách
đại hội này mười hai do-tuần, nhưng đang bị sáu mươi bốn ngàn ức chúng ma nhiễu loạn. Chúng ma ấy thảy đều tự biến
thân thành hình tượng Như Lai, một số nói rằng: ‘Tất cả các pháp đều do
nhân duyên sanh ra’; một số khác lại nói: ‘Tất cả các pháp đều không do
nhân duyên sanh ra’; lại một số khác nữa nói: ‘Tất cả
nhân duyên đều là
pháp thường, những pháp do
duyên sanh đều là vô thường’; lại có một số khác nói: ‘Năm ấm là chân thật’; hoặc nói: ‘Năm ấm là hư dối’; lại nói về các nhập, các giới cũng [
mâu thuẫn] như vậy; hoặc có một số nói
Mười hai nhân duyên, một số khác nói: ‘Thật ra chỉ có bốn duyên’; lại có một số khác nói: ‘Các pháp dường
như huyễn hóa, như những gợn sóng lung linh sanh ra dưới trời nắng nóng’; lại có một số khác nói: ‘Nhân sự nghe mà
đạt được Chánh pháp’; lại có một số khác nói: ‘Nhân sự
suy xét mà
đạt được Chánh pháp’; lại có một số khác nói: ‘Nhân sự
tu tập mà
đạt được Chánh pháp’; lại có một số khác dạy pháp
quán bất tịnh; lại có một số khác dạy
thở ra thở vào; lại có một số khác dạy pháp
quán Tứ niệm xứ; lại có một số khác dạy ba cách quán xét
nghĩa lý, bảy cách
phương tiện; lại có một số khác dạy về
Noãn pháp,
Đỉnh pháp,
Nhẫn pháp,
Thế gian đệ
nhất pháp, các
địa vị Hữu học,
Vô học,
Bồ Tát Sơ trụ cho đến Thập trụ; hoặc có một số khác dạy về Không,
Vô tướng,
Vô tác; lại có một số khác dạy [các kinh] Tu-đa-la, Kỳ-dạ, Tỳ-già-la-na, Già-đà, Ưu-đà-na, Ni-đà-na, A-ba-đà-na, Y-đế-mục-đa-già, Xà-đà-già, Tỳ-phật-lược, A-phù-đà-đạt-ma, Ưu-ba-đề-xá; hoặc có một số khác dạy về
Tứ niệm xứ,
Tứ chánh cần,
Tứ như ý túc,
Ngũ căn,
Ngũ lực, Thất giác [chi],
Bát Thánh đạo; hoặc lại dạy về
Nội không,
Ngoại không,
Nội ngoại không,
Hữu vi không,
Vô vi không,
Vô thủy không,
Tánh không,
Viễn ly không,
Tán không,
Tự tướng không,
Vô tướng không, Ấm không,
Nhập không,
Giới không, Thiện không,
Bất thiện không,
Vô ký không, Bồ-đề không, Đạo không, Niết-bàn không,
Hành không, Đắc không,
Đệ nhất nghĩa không,
Không không,
Đại không.
“Hoặc có một số ma
thị hiện thần thông biến hóa, từ thân mình tuôn ra nước, lửa; hoặc phía trên thân tuôn ra nước, phía dưới thân phóng ra lửa; phía dưới thân tuôn ra nước, phía trên thân phóng ra lửa; hoặc [
nằm nghiêng,] hông trái ở dưới, hông mặt phun nước [lên trên]; hoặc hông mặt ở dưới, hông trái phun nước [lên trên]; hoặc một hông phóng ra
sấm sét, một hông tuôn mưa; hoặc có một số khác
thị hiện các
cảnh giới của chư Phật; một số khác lại
thị hiện Bồ Tát sơ sanh, đi tới bảy bước, rồi ở trong cung vua hưởng thụ
năm dục lạc;
cho đến bắt đầu
xuất gia, trải
tu khổ hạnh, đến cây bồ-đề ngồi nhập Tam-muội,
phá hoại quân ma, chuyển bánh xe
Chánh pháp,
hiện đại thần thông, nhập
cảnh giới Niết-bàn.
“Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo A-nan thấy những việc như vậy rồi, tự
suy xét rằng: ‘Từ trước
đến nay ta chưa từng thấy những
thần thông biến hóa như vậy. Ai đã làm ra như thế? Lẽ nào không phải
đức Thế Tôn Thích-ca làm ra đó sao?’ [Tỳ-kheo A-nan] muốn
đứng dậy, muốn mở miệng nói, nhưng không thể [làm được] theo
ý muốn.
“Tỳ-kheo A-nan đã sa vào lưới ma, lại
suy nghĩ rằng: ‘Chỗ thuyết dạy của chư Phật [này], mỗi vị đều khác nhau. Nay ta biết tin nhận vị nào?’
“Bạch Thế Tôn! Hiện nay A-nan chịu
khổ não rất lớn. Tuy ông ấy nhớ tưởng đến
Như Lai nhưng không ai có thể cứu được. Vì
nhân duyên ấy nên A-nan không đến nơi
đại chúng này.”[200]
Lúc ấy,
Bồ Tát Ma-ha-tát Văn-thù-sư-lợi
bạch Phật: “Thế Tôn! Trong
đại chúng này có đủ chư
Bồ Tát, từ những vị đã
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề một đời,
cho đến những vị đã từng
phát tâm Bồ-đề trong
vô lượng đời; thảy đều đã từng
thường xuyên cúng dường vô lượng chư Phật,
lòng dạ kiên cố,
tu hành đầy đủ từ
Bố thí Ba-la-mật
cho đến Bát-nhã Ba-la-mật;
thành tựu công đức, từ lâu đã được gần gũi
vô lượng chư Phật,
tu hành Phạm hạnh thanh tịnh,
đạt được tâm Bồ-đề
không thối chuyển, được
pháp nhẫn không thối chuyển, pháp nắm giữ
không thối chuyển,
pháp nhẫn đúng như
Chánh pháp,
vô số tam-muội như tam-muội
Thủ Lăng Nghiêm... Những bậc [
Bồ Tát] như vậy, nếu được nghe
kinh Đại thừa thì không hề sanh lòng
nghi ngờ, khéo biết
phân biệt,
tuyên thuyết ý nghĩa Tam bảo cùng một
tánh tướng,
thường trụ không
biến đổi; [các vị này] khi nghe những việc không thể nghĩ bàn không sanh lòng kinh quái; khi nghe mọi lẽ [
chân thật] không sanh lòng sợ sệt;
thông đạt rõ biết hết thảy tánh pháp; các vị có thể
thọ trì hết thảy
Mười hai bộ kinh, giảng rộng
nghĩa lý; cũng có thể
thọ trì Mười hai bộ kinh của
vô lượng chư Phật.
“[Bạch Thế Tôn! Trong
pháp hội này có đủ các vị
Bồ Tát như vậy,] lo gì không có người
thọ trì kinh điển Đại Niết-bàn này? Vậy do
nhân duyên gì [
Thế Tôn lại] hỏi Kiều-trần-như [về việc] A-nan hiện đang ở đâu?”
Lúc ấy,
đức Thế Tôn bảo Văn-thù-sư-lợi rằng: “Thiện nam tử! Hãy lắng nghe cho kỹ! [Lúc trước,] sau khi ta
thành Phật được hơn ba mươi năm, trụ tại thành
Vương Xá. Bấy giờ ta có hỏi các vị tỳ-kheo rằng: ‘Chư tỳ-kheo! Hiện nay, trong
đại chúng này ai có thể vì ta
thọ trì Mười hai bộ kinh của
Như Lai, làm kẻ cận kề
cung cấp mọi sự
cần dùng cho ta mà không để mất phần
lợi ích của tự thân?’[201]
“Bấy giờ, Kiều-trần-như ở trong
đại chúng, thưa rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Con có thể
thọ trì Mười hai bộ kinh, làm kẻ cận kề
phụng sự Thế Tôn mà không để mất phần
lợi ích của tự thân.’ Ta nói: ‘Kiều-trần-như! Ông đã già yếu, cũng cần có người để
sai khiến, sao lại muốn làm kẻ
phụng sự cho ta?’
“Khi ấy, Xá-lợi-phất lại thưa rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Con có thể
thọ trì tất cả
lời Phật dạy,
cung cấp mọi sự
cần dùng cho
Thế Tôn mà không để mất phần
lợi ích của tự thân.’
“Ta nói: ‘Xá-lợi-phất! Ông đã già yếu, cũng cần có người để
sai khiến, sao lại muốn làm kẻ
phụng sự cho ta?’
Cho đến năm trăm vị A-la-hán [
lần lượt thưa thỉnh] cũng đều như vậy, ta
không chấp nhận một người nào.
“Bấy giờ, Mục-kiền-liên ở trong
đại chúng có
suy nghĩ rằng: ‘Như Lai hôm nay trong số năm trăm tỳ-kheo [A-la-hán] không nhận người nào
làm thị giả, [không biết] ý Phật muốn ai làm công việc này?’
“Suy nghĩ như vậy rồi, Mục-kiền-liên liền
nhập định, thấy được tâm
Như Lai hướng về A-nan, [
chấp nhận A-nan
làm thị giả,
rõ ràng] như
mặt trời vừa mọc lên chiếu ánh sáng về bức tường phía tây. Thấy rõ như vậy rồi, Mục-kiền-liên liền
xuất định, nói với Kiều-trần-như: ‘Đại đức! Tôi [
nhập định] quán xét thấy
Như Lai muốn A-nan
làm thị giả cho ngài.’
“Bấy giờ, Kiều-trần-như và năm trăm vị A-la-hán cùng đi đến chỗ A-nan, nói rằng: ‘A-nan! Nay ông nên
làm thị giả cho
Như Lai, mong ông
chấp nhận việc ấy.’
“A-nan nói: ‘Các vị đại đức! Tôi
thật không làm nổi việc
phụng sự Như Lai. Vì sao vậy?
Như Lai là đấng
tôn trọng như chúa
sư tử, như rồng, như lửa; nay tôi nhơ nhớp,
yếu đuối, sao có thể
lo liệu nổi việc ấy?’
“Chư tỳ-kheo liền bảo: ‘A-nan! Như ông nhận lời
chúng tôi phụng sự Như Lai, ông sẽ được
lợi ích lớn.’
“Thỉnh cầu như vậy đến lần thứ nhì, lần thứ ba, A-nan liền nói: ‘Các vị đại đức! Tôi cũng không dám cầu được sự
lợi ích lớn, vì thật tôi không
đủ sức cận kề
phụng sự Như Lai.’
“Bấy giờ, Mục-kiền-liên liền nói: ‘A-nan! Ông còn có điều chưa biết.’
“A-nan nói: ‘Đại đức! Xin ông nói ra.’
“Mục-kiền-liên nói: ‘Hôm qua,
Như Lai muốn chọn người
làm thị giả trong
chúng tăng. Năm trăm vị A-la-hán đều [
lần lượt] xin làm việc ấy, nhưng
Như Lai không chấp thuận ai. Tôi liền
nhập định, quán xét biết ý
Như Lai muốn ông làm việc ấy. Sao ông lại [trái ý] không nhận?’
“A-nan nghe vậy rồi liền
chắp tay, quỳ xuống nói rằng: “Các vị đại đức! Nếu có việc ấy, xin
Như Lai Thế Tôn chấp thuận ba lời
thỉnh nguyện của tôi, tôi sẽ
vâng theo ý
chúng tăng mà làm người cận kề
phụng sự Như Lai.’
“Mục-kiền-liên hỏi: ‘Ba lời
thỉnh nguyện như thế nào?’
“A-nan thưa: ‘Một là, nếu
Như Lai dùng áo cũ của ngài mà
ban cho tôi, xin
cho phép tôi không nhận; hai là, nếu
Như Lai nhận lời thọ thỉnh
cúng dường riêng tại nhà đàn-việt,[202] xin
cho phép tôi không đi cùng; ba là, xin cho tôi được vào ra [chỗ của
Như Lai] bất kỳ lúc nào. Nếu Phật
chấp thuận ba lời
thỉnh nguyện ấy, tôi sẽ
vâng lời chúng tăng mà làm người cận kề
phụng sự Như Lai.’
“Bấy giờ, Kiều-trần-như và năm trăm vị tỳ-kheo
trở lại trước Phật bạch rằng: ‘Chúng con đã khuyên tỳ-kheo A-nan [nhận
làm thị giả], ông ấy có
thỉnh cầu ba điều, nếu được Phật
chấp thuận thì sẽ
vâng theo ý
chúng tăng mà làm người cận kề
phụng sự Như Lai.’
“Này Văn-thù-sư-lợi! Lúc bấy giờ ta đã khen ngợi A-nan rằng: ‘Lành thay,
lành thay! Tỳ-kheo A-nan có đủ
trí tuệ, nhìn thấy trước [để tránh được] sự
ghen ghét. Vì sao vậy? Vì sẽ có kẻ cho rằng ông ấy vì cơm ăn, áo mặc mà
phụng sự Như Lai, nên xin trước việc không nhận áo cũ của
Như Lai, không theo hầu
Như Lai những khi thọ thỉnh
cúng dường riêng tại nhà đàn-việt.
“Kiều-trần-như! Tỳ-kheo A-nan có đủ
trí tuệ [nên biết rằng] nếu vào ra có giờ giấc ắt không thể rộng làm
lợi ích cho
Bốn bộ chúng, nên mới xin được vào ra [chỗ của
Như Lai] bất kỳ lúc nào.
“Kiều-trần-như! Ta vì A-nan mà
cho phép ba việc theo đúng
ý nguyện của ông ấy.’
“Bấy giờ, Mục-kiền-liên
trở lại bảo A-nan rằng: ‘Tôi đã vì ông thưa thỉnh ba việc.
Đức Như Lai Đại từ đã
chấp thuận cả rồi.’
“A-nan nói: ‘Đại đức! Nếu Phật đã
chấp thuận, tôi xin đến làm người cận kề
phụng sự.’
“Này Văn-thù-sư-lợi! A-nan theo
phụng sự ta trên hai mươi năm,
thường có đủ tám điều không thể nghĩ bàn. Những gì là tám điều?
“Một là, từ khi bắt đầu
phụng sự ta
cho đến nay đã trên hai mươi năm, ông ấy không hề đi cùng ta mỗi khi ta thọ thỉnh
cúng dường riêng tại nhà đàn-việt.
“Hai là, từ khi bắt đầu theo
phụng sự ta
đến nay, ông ấy chẳng hề thọ nhận
y phục cũ của ta.
“Ba là, từ khi bắt đầu theo
phụng sự ta
đến nay, ông ấy
chưa bao giờ đến gặp ta không phải lúc.
“Bốn là, từ khi bắt đầu theo
phụng sự ta
đến nay, mặc dù ông ấy vẫn còn chưa dứt sạch
phiền não, nhưng khi theo ta vào ra nơi cung vua hay các nhà
sang trọng quý tộc, nhìn thấy các mỹ nhân cùng
thiên nữ,
long nữ... ông ấy cũng không hề khởi sanh
tham dục.
“Năm là, từ khi bắt đầu theo
phụng sự ta
đến nay, ông ấy
thọ trì Mười hai bộ kinh do ta
thuyết giảng, mỗi khi được nghe thì không [bao giờ quên sót phải] hỏi lại,
ví như người ta rót nước từ bình này sang bình khác [không chút hao hớt].
Trừ ra chỉ có
một lần duy nhất ông ấy hỏi lại ta mà thôi.
Thiện nam tử! Khi
thái tử Lưu Ly tàn sát những người thuộc
dòng họ Thích-ca,
phá hoại thành Ca-tỳ-la, A-nan ôm lòng
sầu não,
cất tiếng khóc to, đi đến chỗ ta hỏi rằng: ‘Như Lai và con đều sanh ở thành ấy, đều là
dòng họ Thích-ca, tại sao [gặp việc
thảm thiết này mà]
nhan sắc Như Lai vẫn
chói sáng như thường, còn con thì [
dung nhan] tiều tụy?’ Khi ấy ta đáp rằng: ‘A-nan! Ta có tu
Không định nên không giống như ông.’ Qua ba năm sau, A-nan có hỏi lại ta: ‘Bạch Thế Tôn! Khi con đến thành Ca-tỳ-la từng được nghe rằng
Như Lai có tu
Không định, việc ấy có thật hay chăng?’ Ta đáp: ‘A-nan! Đúng vậy, đúng vậy! Quả như lời ông nói.’
“Sáu là, từ khi bắt đầu theo
phụng sự ta
đến nay, tuy chưa
đạt được Tha tâm trí [để thấu hiểu tâm người khác], nhưng ông ấy thường biết được các chỗ
nhập định của
Như Lai.
“Bảy là, từ khi bắt đầu theo
phụng sự ta
đến nay, tuy ông ấy chưa
đạt được Nguyện trí[203] nhưng có thể rõ biết về những
chúng sanh tìm đến với
Như Lai, như có người
trong đời hiện tại đạt được bốn quả sa-môn, có người qua
đời sau mới
đạt được, lại có người [
đời sau] sẽ được thân người, có người sẽ được thân
chư thiên.
“Tám là, từ khi bắt đầu theo
phụng sự ta
đến nay, tất cả những lời dạy sâu kín của
Như Lai ông ấy đều có thể
hiểu rõ.
“Thiện nam tử! Vì tỳ-kheo A-nan có đủ tám điều không thể nghĩ bàn như thế, nên ta gọi ông ấy là Kho chứa
Kinh điển.[204]
“Thiện nam tử! Tỳ-kheo A-nan có đủ
tám pháp để có thể
thọ trì một cách
trọn vẹn Mười hai bộ kinh. Những gì là tám? Một là cội gốc
lòng tin kiên cố; hai là
lòng dạ chân chất ngay thẳng; ba là thân không có
bệnh khổ; bốn là thường
chuyên cần tinh tấn; năm là có đầy đủ
trí nhớ; sáu là lòng không
kiêu mạn; bảy là
thành tựu tâm
an định; tám là có đủ
trí tuệ sanh ra từ sự nghe nhận [
Chánh pháp].
“Này Văn-thù-sư-lợi! Vào đời
Phật Tỳ-bà-thi,
đệ tử thị giả là A-thúc-ca cũng có đủ
tám pháp ấy; đến đời
đức Như Lai Thi-khí,
đệ tử thị giả là Sai-ma-ca-la; qua đời
Phật Tỳ-xá-phù,
đệ tử thị giả là Ưu-ba-phiến-đà; đời Phật Ca-la-cưu-thôn-đại,
đệ tử thị giả là Bạt-đề; đời Phật Ca-na Mâu-ni,
đệ tử thị giả là Tô-trì; đời
Phật Ca-diếp,
đệ tử thị giả là Diếp-bà-mật-đa; tất cả đều là những vị
thị giả có đủ
tám pháp ấy. Nay
thị giả của ta là A-nan cũng có đủ
tám pháp ấy. Cho nên ta gọi tỳ-kheo A-nan là Kho chứa
Kinh điển.
“Thiện nam tử! Như lời ông nói, trong
đại chúng này có
vô lượng vô biên Bồ Tát, nhưng các vị
Bồ Tát này đều
gánh vác trách nhiệm nặng nề là [
tu tập]
đại từ đại bi. Do
nhân duyên từ bi ấy,
ai nấy đều
gấp rút lo việc [
giáo hóa]
điều phục những
thân quyến chung quanh họ và tự [tu chỉnh]
trang nghiêm bản thân.
Vì lẽ ấy, sau khi ta nhập Niết-bàn, những vị
Bồ Tát này đều không thể
tuyên thuyết thông suốt Mười hai bộ kinh, hoặc nếu
Bồ Tát nào có lúc
tuyên thuyết thì lại không được người ta tin nhận.
“Văn-thù-sư-lợi! Tỳ-kheo A-nan vốn là em trai ta, đã theo
phụng sự ta hơn hai mươi năm, những
giáo pháp đã được nghe, ông ấy đều thọ nhận
giữ gìn trọn vẹn, như người ta rót nước vào bình chứa. Vì thế, nay ta nhớ lại mà hỏi A-nan
hiện thời ở đâu là [có ý] muốn cho ông ấy
thọ trì kinh [Đại Bát] Niết-bàn này.
“Thiện nam tử! Sau khi ta nhập Niết-bàn, nếu có những điều gì mà tỳ-kheo A-nan chưa được nghe thì
Bồ Tát Hoằng Quảng có thể rộng truyền, còn những điều mà A-nan đã nghe thì tự ông ấy có thể
tuyên thuyết thông suốt.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Tỳ-kheo A-nan hiện ở
nơi khác, cách
đại hội này mười hai do-tuần, bị
não loạn bởi sáu mươi bốn ngàn ức chúng ma. Ông nên đến đó, dùng
âm thanh lớn tiếng phát ra lời này:
“Hỡi tất cả chúng ma! Hãy lắng nghe cho kỹ, hãy nghe cho kỹ! Nay
đức Như Lai [sắp]
tuyên thuyết Đại Đà-la-ni, tất cả hàng
chư thiên, rồng, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và loài chẳng phải người, thần núi, thần cây, thần sông, thần biển, thần nhà cửa... nghe đến
danh hiệu của Đà-la-ni này thảy đều
cung kính thọ trì. Chư
Phật Thế Tôn nhiều như số cát mười con
sông Hằng đã cùng
tuyên thuyết Đà-la-ni này, [khiến người
thọ trì] có thể
chuyển đổi thân nữ [
thành thân nam], tự rõ biết những
việc đời trước. Nếu có người
thực hành đủ năm việc: Một là
giữ gìn Phạm hạnh,[205] hai là không
ăn thịt cá, ba là không uống rượu, bốn là không ăn các món cay nồng, năm là thường thích ở nơi
vắng lặng yên tĩnh; rồi
hết lòng tin nhận,
đọc tụng, sao chép Đà-la-ni này, nên biết rằng người ấy sẽ
vượt qua khỏi bảy mươi bảy
ức kiếp mang thân kém cỏi, xấu ác.”
[Ngay khi ấy,]
đức Thế Tôn tuyên thuyết Đà-la-ni [gồm 16 phần] như sau:[206]
“A-ma-lệ. Tỳ-ma-lệ. Niết-ma-lệ. Mông-già-lệ. Hê-ma-la-nhã-kiệt-bệ. Tam-mạn-na-bạt-đề-lệ. Ta-bà-la-đà-ta-đàn-ni. Ba-la-ma-tha-ta-đàn-ni. Ma-na-tư. A-chuyết-đề. Tỳ-la-chi. Am-ma-lại-trì. Bà-lam-ma. Sa-lệ-phú-la-nê. Phú-la-na. Ma-nô-lại-đề.”
Lúc ấy, ngài Văn-thù-sư-lợi thọ nhận Đà-la-ni do Phật
tuyên thuyết rồi liền đến chỗ A-nan, ở giữa chúng ma
lên tiếng nói rằng: “Này các
quyến thuộc ma! Hãy nghe ta nói chú Đà-la-ni đã thọ nhận từ
đức Phật.”
Ma vương nghe được Đà-la-ni ấy rồi, thảy đều
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
lìa bỏ nghiệp ma,
lập tức buông tha A-nan.
Văn-thù-sư-lợi và A-nan cùng
trở lại chỗ Phật. A-nan gặp Phật liền
chí tâm lễ kính rồi lui xuống đứng sang một bên.
Phật bảo A-nan: “Phía ngoài rừng sa-la này có một
Phạm chí tên Tu-bạt-đà,[207] đã già đến một trăm hai mươi tuổi. Tuy ông ấy đã
đạt được năm
thần thông [của
ngoại đạo], nhưng chưa trừ bỏ được tánh
kiêu mạn. Ông ấy
đạt được phép
định Phi tưởng phi
phi tưởng, ngỡ rằng đã
đạt được Nhất thiết trí,
chứng đắc Niết-bàn. Nay ông nên đến đó, nói với Tu-bạt-đà rằng: ‘Đức
Như Lai ra đời [rất hiếm gặp] như hoa ưu-đàm. Hôm nay, vào lúc nửa đêm ngài sẽ
buông bỏ tất cả mà nhập Niết-bàn. Nếu ông có
việc phải làm hãy làm cho kịp lúc, đừng để ngày sau phải sanh lòng
hối hận.’
“Này A-nan! Lời ông nói ra
chắc chắn ông ấy sẽ tin nhận. Vì sao vậy? Vì
thuở trước trong suốt năm trăm đời ông đã từng làm con trai của Tu-bạt-đà. Lòng
thương yêu của ông ấy [đối với ông tích tập lâu ngày]
đến nay vẫn chưa dứt hết, vì
nhân duyên ấy nên sẽ tin nhận lời ông.”
Lúc ấy, A-nan
vâng lời Phật dạy đến chỗ Tu-bạt-đà, bảo rằng: “Thưa ông! Ông nên biết rằng
đức Như Lai ra đời [hiếm gặp] như hoa ưu-đàm. Hôm nay, vào lúc nửa đêm ngài sẽ ngài sẽ
buông bỏ tất cả mà nhập Niết-bàn. Nếu ông có
việc phải làm hãy làm cho kịp lúc, đừng để ngày sau phải sanh lòng
hối hận.”
Tu-bạt-đà nói: “Lành thay, A-nan! Hôm nay tôi sẽ đến chỗ
Như Lai.”
Lúc ấy, A-nan đưa Tu-bạt-đà
trở về chỗ Phật. Đến nơi, Tu-bạt-đà
ngỏ lời vấn an
đức Phật và thưa rằng: “Cồ-đàm! Nay tôi muốn thưa hỏi, xin ngài theo ý [câu hỏi của] tôi mà đáp.”
Phật dạy: “Tu-bạt-đà! Nay thật
đúng lúc thích hợp. Tùy chỗ ông hỏi, ta sẽ dùng
phương tiện mà đáp theo ý ông.”
Tu-bạt-đà liền nói: “Cồ-đàm! Có những sa-môn, bà-la-môn nói rằng: ‘Tất cả
chúng sanh thọ
quả báo khổ hay vui, thảy đều do
nhân duyên là gốc nghiệp ngày trước. Cho nên, nếu có người
giữ giới tinh tấn, chịu khổ
thân tâm, có thể phá trừ gốc nghiệp. Gốc nghiệp đã dứt, các khổ sẽ dứt hết. Các khổ đã dứt hết, ắt sẽ
đạt được Niết-bàn. Nghĩa ấy là thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu có sa-môn hay bà-la-môn nói thuyết như thế, ta sẽ lấy làm
thương xót, thường đến chỗ người ấy và hỏi rằng: ‘Này ông! Có thật ông nói ra thuyết như thế hay chăng?’
“Nếu như người ấy lại đáp rằng: ‘Tôi có nói thuyết như thế. Vì sao vậy? Cồ-đàm! Tôi nhìn thấy có những
chúng sanh quen làm việc ác mà có nhiều
của cải và vật quý, được sống
tự do; tôi lại thấy có những người
tu thiện nhưng nghèo
túng thiếu thốn, không được
tự do. Tôi lại thấy có những kẻ ra sức nhọc nhằn nhưng không
đạt được chỗ mong cầu, lại thấy có những người chẳng có lòng mong cầu mà
tự nhiên đạt được. Tôi lại thấy có những kẻ có
lòng từ không giết hại nhưng phải bị
chết yểu, lại thấy những kẻ
ưa thích việc giết hại nhưng được
thọ mạng lâu dài. Tôi lại thấy có những người tu
Phạm hạnh thanh tịnh,
tinh cần giữ giới, nhưng trong số đó có người
được giải thoát, có kẻ lại không được. Cho nên tôi nói rằng: ‘Tất cả
chúng sanh thọ
quả báo khổ hay vui thảy đều do
nhân duyên là gốc nghiệp từ ngày trước.’
“Này Tu-bạt-đà! Ta lại sẽ hỏi người ấy rằng: ‘Này ông!
Quả thật ông có thấy được nghiệp
quá khứ hay chăng? Nếu có, nghiệp ấy là nhiều hay ít?
Khổ hạnh đời
hiện tại có thể phá trừ nghiệp ấy nhiều hay ít? Ông có thể biết được nghiệp ấy đã dứt hay chưa dứt chăng? Như nghiệp ấy dứt rồi, có dứt hết tất cả chăng?’
“Nếu người ấy đáp rằng: ‘Tôi
thật không biết.’ Khi ấy, ta sẽ vì người ấy nói
thí dụ rằng: ‘Ví như có người thân trúng tên độc, những người thân trong nhà liền rước thầy thuốc đến nhổ mũi tên. Khi mũi tên đã nhổ ra rồi, thân người được
an ổn. Mười năm sau, người ấy vẫn còn nhớ rõ: Ông thầy này đã nhổ mũi tên độc cho tôi, dùng thuốc bôi lên giúp tôi khỏi bệnh, yên vui. Các ông nay đã không thể rõ biết gốc nghiệp
quá khứ [như người trúng tên độc này], làm sao có thể biết rằng
khổ hạnh hiện tại nhất định có thể phá trừ được nghiệp quá khứ?’
“Nếu người ấy lại nói: ‘Cồ-đàm! Nay ông cũng có gốc nghiệp
quá khứ, vì sao lại
chỉ trích riêng nghiệp
quá khứ của chúng tôi? Cồ-đàm! Trong kinh [của ông thuyết] cũng có nói: Nếu thấy người
giàu sang như ý, nên biết rằng đời trước từng ưa làm việc
bố thí. Như vậy chẳng gọi là nghiệp
quá khứ đó sao?’
“Ta lại đáp rằng: ‘Này ông! Sự
hiểu biết như vậy là nhờ
so sánh mà biết chứ chưa phải sự rõ biết chân xác. Trong pháp Phật, có khi dựa theo nhân mà biết quả, có khi dựa theo quả mà biết nhân.
“Trong pháp Phật có nghiệp
quá khứ, có nghiệp
hiện tại; còn trong
giáo pháp của các ông thì khác, chỉ có nghiệp
quá khứ, không có nghiệp
hiện tại.
“Giáo pháp của các ông không
do nơi phương tiện mà dứt trừ nghiệp; pháp Phật thì khác,
do nơi phương tiện mà dứt trừ nghiệp.
“Các ông cho rằng khi nghiệp dứt hết thì khổ cũng dứt. Pháp Phật không nói như vậy, mà dạy rằng
phiền não dứt rồi, nghiệp và khổ đều phải dứt. Vì thế nay ta mới
chỉ trích [thuyết
sai lầm về] nghiệp
quá khứ của các ông.’
“Nếu người ấy nói: ‘Cồ-đàm! Tôi
thật không biết. Tôi đã theo thầy mà thọ nhận như vậy. Chẳng qua thầy tôi nói thuyết ấy, chứ
thật không phải lỗi nơi tôi.’
“Ta sẽ hỏi: ‘Này ông! Thầy của ông là ai?’
“Nếu người ấy đáp là Phú-lan-na,[208] ta lại hỏi rằng: ‘Vì sao ngày trước ông không hỏi rõ từng việc:
Đại sư có thật rõ biết nghiệp
quá khứ chăng? Nếu thầy ông nói: Ta không biết; thì tại sao ông lại thọ nhận lời của ông ấy? Nếu nói: Ta biết; lẽ ra ông nên hỏi thêm rằng: Do
nhân duyên khổ mức thấp có phải chịu khổ mức vừa, mức cao hay chăng? Do
nhân duyên khổ mức vừa có phải chịu khổ mức thấp, mức cao chăng? Do
nhân duyên khổ mức cao có phải chịu khổ mức vừa, mức thấp hay chăng? Nếu đáp rằng: Không phải chịu; ông lại nên hỏi rằng: Vì sao thầy nói thọ
quả báo khổ hay vui chỉ do nghiệp
quá khứ, chẳng do nghiệp hiện tại? Lại nên hỏi rằng: Cái khổ
hiện tại [này] có trong
quá khứ hay chăng? Nếu là có trong
quá khứ, thì nghiệp
quá khứ đã dứt cả rồi; nếu nghiệp ấy đã dứt cả rồi, vì sao ngày nay còn thọ thân [này]? Còn nếu
quá khứ không có khổ, chỉ có ở
hiện tại mà thôi, vì sao lại nói rằng: Khổ hay vui của
chúng sanh, thảy đều do nghiệp quá khứ?’
“Này ông! Nếu ông biết rằng sự
khổ hạnh trong
hiện tại có thể phá trừ nghiệp
quá khứ, vậy biết lấy gì để phá trừ
khổ hạnh hiện tại? Nếu
khổ hạnh ấy không bị phá trừ, thì khổ tức là thường? Nếu khổ là thường, tại sao ông nói rằng
được giải thoát khổ? Nếu lại có
hành vi phá trừ
khổ hạnh [thì khổ là
vô thường], vậy
quá khứ đã dứt, làm sao có khổ?
“Này ông!
Khổ hạnh ấy có thể khiến nghiệp vui sẽ chịu quả khổ hay chăng? Lại có thể khiến
nghiệp khổ sẽ chịu quả vui hay chăng? Có thể khiến nghiệp không
khổ không vui chẳng phải thọ quả hay chăng? Có thể khiến
quả báo hiện tại thành quả báo đời
kế tiếp hay chăng? Có thế khiến
quả báo đời
kế tiếp thành quả báo đời
hiện tại hay chăng? Có thể khiến hai loại
quả báo đó thành không có
quả báo hay chăng? Có thể khiến
quả báo nhất định phải chịu
trở thành không có
quả báo hay chăng? Có thể khiến [
trường hợp] không có
quả báo thành quả báo
nhất định phải chịu hay chăng?
“Nếu người ấy lại nói: ‘Cồ-đàm! Không thể.’ Ta sẽ hỏi tiếp rằng: ‘Nhân giả! Nếu là không thể, vậy do
nhân duyên gì ông nhận chịu sự
khổ hạnh ấy?
“Này ông! Nên biết rằng
nhất định có nghiệp
quá khứ, có
nhân duyên hiện tại. Cho nên ta nói: ‘Nhân
phiền não sanh nghiệp,
nhân nghiệp phải chịu
quả báo.
“Này ông! Nên biết rằng tất cả
chúng sanh đều có nghiệp
quá khứ, có nhân
hiện tại. Tuy
chúng sanh có
thọ mạng do nghiệp
quá khứ, nhưng phải nhờ
nhân duyên ăn uống trong
hiện tại [mới
duy trì được
thọ mạng đó].
“Này ông! Nếu ông nói:
Chúng sanh chịu khổ hay vui
nhất định là do
nhân duyên gốc nghiệp trong
quá khứ. Việc đó không đúng.
“Vì sao vậy? Này ông!
Ví như có một người,
diệt trừ được kẻ oán thù cho nhà vua. Do
nhân duyên ấy nhận được nhiều
của cải, vật quí, được
thọ hưởng khoái lạc trong
hiện tại. Như người ấy là ngay
trong đời hiện tại tạo nhân của sự vui, được hưởng
quả báo vui.
Ví như có người giết chết vị hoàng tử mà vua
thương yêu. Do
nhân duyên ấy phải
chịu tội tử hình. Như người ấy là ngay
trong đời hiện tại tạo nhân của sự khổ, phải chịu
quả báo khổ.
“Này ông! Tất cả
chúng sanh,
hiện tại nhân nơi
bốn đại,
điều kiện môi trường, đất đai,
nhân dân... mà nhận chịu những sự khổ, sự vui. Cho nên ta nói: ‘Tất cả
chúng sanh không phải chỉ nhân ở gốc nghiệp đời
quá khứ mà chịu khổ hay được vui.
“Này ông! Nếu nhờ ở sức
nhân duyên dứt trừ nghiệp [
quá khứ] mà
được giải thoát, thì tất cả
thánh nhân đều không
được giải thoát. Vì sao vậy? Vì gốc nghiệp
quá khứ của tất cả
chúng sanh là không có khởi đầu, không có
kết thúc. Cho nên ta nói: Trong khi
tu tập Thánh đạo, nhờ đó có thể che ngăn nghiệp
vô thủy vô chung.
“Này ông! Nếu chịu
khổ hạnh mà
đạt được đạo, thì tất cả
súc sanh lẽ ra cũng
đạt được đạo, [vì chúng đều chịu khổ]! Cho nên, trước hết phải
điều phục tâm chứ không phải
điều phục thân. Vì
nhân duyên ấy, ta có nói trong kinh rằng: ‘Hãy đốn phá rừng, đừng chỉ đốn cây. Vì sao vậy? Do có rừng mới sanh ra lo sợ, chẳng phải do cây.’ Muốn
điều phục thân, trước phải
điều phục tâm. Tâm ví với rừng, thân ví với cây.”
Tu-bạt-đà nói: “Bạch Thế Tôn! Tôi đã có
điều phục tâm trước rồi.”
Phật hỏi: “Thiện nam tử! Ông làm thế nào có thể
điều phục tâm trước?”
Tu-bạt-đà đáp: “Bạch Thế Tôn! Trước hết tôi
suy xét: Dục là
vô thường, vô lạc, vô tịnh. Kế tôi quán sắc tức là thường, lạc, ngã, tịnh. Tôi quán như vậy rồi, những
phiền não trói buộc trong
Dục giới bị dứt sạch, [
thần thức] tôi
đạt đến Sắc giới. Cho nên tôi nói là đã
điều phục tâm trước rồi.
“Kế đó, tôi lại quán xét về sắc, [thấy rằng] sắc là
vô thường, như ung nhọt, ghẻ lở, như chất độc, như mũi tên [gây hại]. Tôi thấy
vô sắc là thường còn,
thanh tịnh,
vắng lặng an tĩnh. Tôi quán xét như vậy rồi, những
phiền não trói buộc trong
Sắc giới liền dứt sạch, [
thần thức] tôi
đạt đến Vô sắc giới. Cho nên tôi nói là đã
điều phục tâm trước rồi.
“Tiếp theo, tôi quán xét về tưởng, [thấy rằng] tưởng là
vô thường, như ung nhọt, ghẻ lở, như chất độc, mũi tên [gây hại]. Quán xét như vậy rồi, [
thần thức] tôi
đạt đến cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng.
Cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng ấy là
Nhất thiết trí,
vắng lặng an tĩnh,
thanh tịnh, không có sự sa đọa [xuống
cảnh giới thấp hơn], thường còn không
biến đổi. Cho nên tôi đã có thể
điều phục tâm mình rồi.”
Phật hỏi: “Thiện nam tử! Ông [như
vậy mà] có thể
điều phục tâm sao? Chỗ
đạt được của ông hiện nay là mức
định Phi tưởng phi
phi tưởng, vẫn còn gọi là tưởng. Niết-bàn là
vô tưởng, làm sao ông nói rằng đã
đạt được Niết-bàn?
“Thiện nam tử! Trước ông đã
chê trách cái tưởng
thô kệch, nay sao lại
vướng mắc ưa thích cái tưởng tinh tế? Vì không biết
chê trách cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng nên vẫn gọi là tưởng, [vẫn là] như ung nhọt, ghẻ lở, như chất độc, như mũi tên [gây hại].
“Thiện nam tử! Thầy của ông là Uất-đầu-lam-phất,[209]
lợi căn thông minh, còn không thể dứt trừ
cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng ấy, [rốt cùng còn] phải thọ thân xấu ác, huống chi là những người khác?”
Tu-bạt-đà thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Vậy phải làm thế nào để dứt trừ được tất cả các
cảnh giới hiện hữu?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nếu ai quán xét được tướng
chân thật, người ấy có thể dứt trừ được tất cả các
cảnh giới hiện hữu.”
Tu-bạt-đà thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là tướng chân thật?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tướng của
vô tướng gọi là tướng
chân thật.”
Lại hỏi: “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là tướng của vô tướng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tất cả các pháp [vốn] không có tướng
của riêng mình, không có tướng từ bên ngoài, cũng không có tướng
của riêng mình và bên ngoài; không có
tướng không do nhân [mà có], không có tướng tạo tác, không có tướng thọ nhận; không có tướng chủ thể tạo tác, không có tướng chủ thể thọ nhận; không có tướng pháp và chẳng phải pháp; không có tướng
nam nữ; không có tướng
thần thức; không có tướng
vi trần, không có tướng
thời tiết; không là tướng
của riêng mình, không là tướng của pháp khác, [cũng] không là tướng
của riêng mình và pháp khác; không có tướng
hiện hữu, không có
tướng không [
hiện hữu]; không có tướng sanh ra, không có tướng chủ thể sanh ra; không có tướng
nguyên nhân, không có tướng nhân của
nguyên nhân; không có tướng kết quả, không có tướng quả của kết quả; không có tướng ngày đêm, không có tướng sáng tối; không có tướng nhìn thấy, không có tướng chủ thể nhìn thấy; không có tướng nghe, không có tướng chủ thể nghe; không có tướng
nhận biết, không có tướng chủ thể
nhận biết; không có tướng Bồ-đề, không có tướng chủ thể
chứng đắc Bồ-đề; không có tướng nghiệp, không có tướng chủ thể của nghiệp; không có tướng
phiền não, không có tướng chủ thể của
phiền não.
“Thiện nam tử!
Tùy theo chỗ diệt mất [tất cả] các tướng như
vậy mà gọi là tướng
chân thật.
“Thiện nam tử! Tất cả các pháp đều là
hư dối; tùy chỗ diệt mất của chúng mà gọi đó là thật, gọi là tướng
chân thật, gọi là
cảnh giới của pháp, gọi là
trí tuệ rốt ráo, gọi là
nghĩa lý chân thật đệ nhất, gọi là
nghĩa không đệ nhất.
“Thiện nam tử! [Đối với] tướng
chân thật,
cảnh giới của pháp,
trí tuệ rốt ráo,
nghĩa lý chân thật đệ nhất,
nghĩa không đệ nhất này, nếu biết quán xét thì những ai có
trí tuệ bậc thấp sẽ
đạt được quả Bồ-đề của hàng
Thanh văn, những ai có
trí tuệ bậc vừa sẽ
đạt được quả Bồ-đề của hàng
Duyên giác, những ai có
trí tuệ bậc cao sẽ
đạt được quả
Vô thượng Bồ-đề.”
[Sau khi nghe]
Phật thuyết pháp như vậy, có mười ngàn vị
Bồ Tát đạt được tướng
chân thật ngay trong
một đời, mười lăm ngàn vị
Bồ Tát đạt được cảnh giới của pháp trong hai đời, hai mươi lăm ngàn vị
Bồ Tát đạt được trí tuệ rốt ráo, ba mươi lăm ngàn vị
Bồ Tát chứng ngộ nghĩa lý chân thật đệ nhất, cũng gọi là
nghĩa không đệ nhất, cũng gọi là Tam-muội
Thủ Lăng Nghiêm. [Lại có] bốn mươi lăm ngàn vị
Bồ Tát đạt được phép Tam-muội
Hư không, cũng gọi là Tam-muội
Quảng đại, cũng gọi là Tam-muội
Trí ấn. [Lại có] năm mươi lăm ngàn vị
Bồ Tát đạt được đức nhẫn
không thối chuyển, cũng gọi là đức nhẫn theo đúng pháp, cũng gọi là đức nhẫn đúng
cảnh giới của pháp. [Lại có] sáu mươi lăm ngàn vị
Bồ Tát đạt được phép Đà-la-ni, cũng gọi là
tâm niệm lớn lao, cũng gọi là
trí tuệ không ngăn ngại. [Lại có] bảy mươi lăm ngàn vị
Bồ Tát đạt được phép Tam-muội
Sư tử hống, cũng gọi là Tam-muội
Kim cang, cũng gọi là Tam-muội
Ngũ trí ấn. [Lại có] tám mươi lăm ngàn vị
Bồ Tát đạt được phép Tam-muội
Bình đẳng, cũng gọi là
Đại từ Đại bi. [Lại có]
vô lượng chúng sanh nhiều như
số cát sông Hằng phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
vô lượng chúng sanh nhiều như
số cát sông Hằng phát tâm Duyên giác,
vô lượng chúng sanh nhiều như
số cát sông Hằng phát tâm Thanh văn. [Lại có] hai mươi ngàn ức
chúng sanh hai
cõi trời, người ngay
trong đời hiện tại được chuyển từ thân nữ
thành thân nam.
Ông Tu-bạt-đà[210] [ngay khi ấy]
chứng đắc quả A-la-hán.[211]
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN BỐN MƯƠI
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN (PHẦN CUỐI)
Các vị sa-môn Nhã-na-bạt-đà-la, Hội Ninh... cùng dịch
QUYỂN BỐN MƯƠI MỐT
PHẨM KIỀU-TRẦN-NHƯ
Phẩm thứ mười ba – Phần bốn
Lúc ấy, ông Tu-bạt-đà nghe
Phật thuyết giảng
giáo pháp Đại Bát Niết-bàn
thâm sâu mầu nhiệm, liền
đạt được con mắt
Chánh pháp, nhìn thấy
pháp thanh tịnh, [sanh tâm]
ưa thích bảo vệ Chánh pháp,
dẹp bỏ những
tà kiến [trước đây]; khởi sanh
lòng tin sâu vững
kiên cố đối với pháp Phật, liền
thỉnh cầu đức Như Lai nhận cho ông được
xuất gia.
Phật dạy: “Lành thay,
lành thay! Hãy đến đây, tỳ-kheo Tu-bạt-đà! Ta thật vui thay khi ông khéo vào được trong
đạo Phật.”
Lời Phật vừa dứt, Tu-bạt-đà [liền
cảm thấy trong lòng]
hoan hỷ phấn chấn,
hết sức hân hoan mừng rỡ, ngay khi đó râu tóc
tự nhiên rụng sạch,
trở thành một vị sa-môn. [Nhờ] nước
trí tuệ tánh pháp rưới xuống nguồn tâm [nên] không còn
trói buộc vướng mắc nữa,
phiền não dứt sạch, tâm ý khai mở, [
lập tức]
chứng đắc quả A-la-hán.
Tu-bạt-đà sau khi
chứng đắc thánh quả liền đến trước Phật
chiêm ngưỡng tôn nhan, cúi đầu và mặt sát dưới
chân Phật lễ kính, rồi vén trần vai áo bên phải,[212] quì gối phải
sát đất, hai tay chắp lại
cung kính, buồn vui
lẫn lộn, tự hối trách một cách
sâu xa những
tội lỗi [
sai lầm] của mình ngày trước,
bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Đáng giận thay cái
thân độc hại này của con, từ nhiều kiếp
đến nay thường dối gạt
mê hoặc con, khiến con chìm mãi trong
vô minh,
tà kiến, trôi đắm trong
Ba cõi, trong pháp của
ngoại đạo. Thật
đau đớn thay! Thật khổ sở thay! Gây hại lớn thay! Nay con
hết sức vui mừng, nhờ ơn
Như Lai được vào
Chánh pháp.
Đức Thế Tôn trí tuệ như biển cả,
lòng từ bi thương xót [
chúng sanh] không kể xiết. Riêng con tự
suy xét, dẫu
trải qua nhiều kiếp nát thân để
báo đáp ân đức của Phật trong
phút chốc này cũng còn chưa đủ!”
Ông Tu-bạt-đà nói lời ấy rồi buồn khóc
rơi lệ, không sao tự
kiềm chế. Rồi ông lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Con nay đã già yếu, không còn sống được bao lâu nữa, nhưng chưa thoát được mọi nỗi khổ, e vẫn còn bị sự khổ
vô thường biến đổi quay lại
bức bách. Nguyện cầu
đức Thế Tôn nán lại ít lâu để
dạy bảo,
thương xót cứu giúp con, đừng nhập Niết-bàn.”
Bấy giờ,
đức Thế Tôn lặng thinh
không chấp nhận. Tu-bạt-đà
thỉnh cầu không được
toại nguyện, lấy làm
buồn rầu bứt rứt, lớn tiếng than rằng: “Khổ thay, khổ thay!
Thế gian [này sắp] trống rỗng!
Thế gian [này sắp] trống rỗng! Tại sao hôm nay nỗi lo sợ lớn lao lại xảy đến,
phiền não thiêu đốt khắp nơi? Than ôi,
than ôi! Phước đức của
chúng sanh không còn nữa, con mắt
trí tuệ chân chánh không còn nữa!”
Tu-bạt-đà than rồi
rơi lệ,
bi thảm nghẹn ngào nấc không thành tiếng, rướm máu khắp
toàn thân,
cất tiếng khóc lớn. Liền đó ông gieo mình xuống đất
trước mặt Như Lai,
tâm thần hoang mang
rối loạn,
hôn mê bất tỉnh.
Hồi lâu ông
tỉnh lại, nước mắt
tràn trề, nghẹn ngào
bạch Phật: “Thế Tôn! Nay con không sao chịu nỗi việc nhìn thấy
Như Lai buông bỏ tất cả mà nhập Niết-bàn. Trong lòng con
đau đớn buồn
khổ không sao ngăn được. Làm sao con có thể tự mình ở lại với cái thân giả tạm
độc hại này? Nên nay con thà mau chóng tự diệt [thân] trước. Ngưỡng mong
đức Thế Tôn sau đó hãy nhập Niết-bàn.”
Bấy giờ, Tu-bạt-đà nói ra những lời ấy rồi lại không ngớt bi lụy nghẹn ngào, ngay trong chốc lát liền nhập Niết-bàn.
Bấy giờ có
vô số ức
chư Đại Bồ Tát, tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, tất cả
thế gian, trời, người, a-tu-la nhiều như
số cát sông Hằng, không
thể tính đếm,
đồng thời cất tiếng kêu than rằng: “Khổ thay, khổ thay! Vì sao đấng
Chánh giác chỉ trong một ngày
buông bỏ tất cả, [khiến chúng con] không còn ai làm chủ, không còn chỗ
quay về, không còn nơi nương dựa, không còn chỗ noi theo!”
[Rồi
tiếp nối dòng]
suy tưởng nhớ nhung,
luyến mộ bi thương, [
mọi người cùng] nắm tay nhau đấm ngực than khóc, buồn đau
thất vọng,
mê muội quên cả
phương hướng, nỗi bi ai thấu khắp cả
thế giới Tam thiên đại thiên.
Lúc ấy,
đức Thế Tôn [
cùng lúc] phát ra tám loại
âm thanh,[213] bảo khắp
đại chúng rằng: “[
Đại chúng] đừng lớn tiếng kêu khóc như trẻ con, mỗi người hãy tự
kiềm chế, đừng tự làm cho tâm mình
rối loạn. Các người ở trong chốn biển lớn
sanh tử của
khổ não vô thường biến dị này, hãy
chuyên cần tu tập tâm thanh tịnh, đừng để mất niệm và tuệ, mau cầu cho được
trí tuệ chân chánh để
gấp rút ra khỏi các
cảnh giới hiện hữu.
“[Này đại chúng! Nếu còn] thọ thân trong
Ba cõi thì vòng xoay
khổ não không có
giới hạn. [Trong đó,]
vô minh là ông chủ, sự
ân ái là
Ma vương, [cùng]
sai khiến thân tâm trở thành tôi tớ,
chạy theo khắp các
cảnh giới, tạo nghiệp
sanh tử; [khởi sanh]
tham lam,
sân khuể, cuồng si, mỗi một niệm tưởng nối tiếp nhau đều gây sự
tổn hại, [nên]
từ vô lượng kiếp
đến nay thường chịu
khổ não. Có kẻ trí nào lại không đi ngược lại nguồn cội ấy?
“Các người nên biết, ta từ thuở rất xa xưa
đến nay đã nhập phép định Đại tịch, không có các ấm, giới, nhập; dứt trừ
mãi mãi mọi
cảnh giới hiện hữu, [đã
đạt được] kho báu
Kim cang [là Đại Niết-bàn] thường, lạc, ngã, tịnh. Nay ta ở trong [
đại định] này mà
hiển bày việc khó nghĩ bàn, hiện sức
phương tiện, nhập Đại Niết-bàn,
thị hiện [sự
hoại diệt] giống
như pháp thế gian, vì muốn cho
chúng sanh biết rằng thân [xác thịt] này [thoáng qua] như điện chớp mà chỉ sanh lòng
ưa thích [việc tu] tâm;
sanh tử là dòng nước xiết, chảy nhanh cuốn mạnh, hết thảy các pháp
vô thường biến dịch luân chuyển, đúng lẽ như vậy.
“Niết-bàn của
Như Lai là rất
sâu xa, không thể nghĩ bàn. Đó là
cảnh giới của chư Phật,
Bồ Tát, không phải chỗ hàng
Thanh văn,
Duyên giác có thể biết được.”
Đức Phật lại bảo
đại chúng: “Ông Tu-bạt-đà đã từng
cúng dường chư Phật nhiều như
số cát sông Hằng, ở nơi các
đức Phật ấy trồng sâu căn lành. Vì
nguyện lực lớn lao nên ông ấy thường [
thị hiện]
xuất gia tu hành trong
giáo pháp của
ngoại đạo Ni-kiền, dùng
trí tuệ phương tiện để dẫn dụ những
chúng sanh tà kiến, lạc mất
Chánh đạo, khiến họ
đạt được trí tuệ chân chánh. Tu-bạt-đà nương theo
nguyện lực từ trước nên nay được gặp ta vào lúc sắp nhập Niết-bàn, được nghe
Chánh pháp,
chứng đắc quả A-la-hán, sau đó liền nhập Niết-bàn.
“Từ khi ta [vừa]
thành đạo hóa độ [nhóm ông]
A-nhã Kiều-trần-như;
đến nay sắp nhập Niết-bàn
hóa độ ông Tu-bạt-đà. Những việc [cần] làm của ta không còn
gì nữa, dù ta có trụ lại
thế gian lâu hơn cũng không có gì khác hơn hôm nay.”
Nói xong lời ấy,
đức Thế Tôn thở dài rồi
lên tiếng ngợi khen rằng: “Lành thay,
lành thay! Tu-bạt-đà đã
báo đáp được ơn Phật.
Đại chúng nên
cúng dường di thể, lập tháp
phụng thờ.”
Bấy giờ,
đại chúng đều buồn bã
bi thảm, cố nén lệ sầu,
vâng lời Phật dạy, dùng các thứ
gỗ thơm, bơ, dầu để làm lễ
hỏa táng di thể Tu-bạt-đà.
Đang khi hỏa táng, Tu-bạt-đà từ trong lửa đỏ phóng ra
hào quang chói sáng,
thị hiện mười tám cách
biến hóa: trên thân tuôn nước, dưới thân tuôn lửa; từ hông mặt tuôn lửa, từ hông trái tuôn nước; từ nhỏ
hiện thành lớn, từ lớn
hiện thành nhỏ; [
biến hóa như vậy] đầy khắp
hư không.
Lúc ấy,
vô số [người trong]
đại chúng và những
chúng sanh ngoại đạo tà kiến đều
phát tâm Bồ-đề,
thể nhập vào sự thấy biết chân chánh.
Tu-bạt-đà
thị hiện thần thông biến hóa như vậy rồi lại hiện trở vào trong lửa. Lễ
hỏa táng vừa xong, tất cả
đại chúng đều
bi thương cảm động,
thu nhặt xá-lợi, xây tháp
cúng dường.
[161] Câu này nói tóm ý đề cập đến 11 trong số 12 nhân duyên, tức là từ vô minh, hành, thức... cho đến sanh; còn nhân duyên thứ 12 là lão tử (già chết).
[162] Bốn sự điên đảo: do nhận thức sai lầm về thực tại nên vô thường mà cho là thường, khổ mà cho là vui, các pháp vô ngã mà cho là hữu ngã, các pháp bất tịnh mà cho là thanh tịnh. Bốn sự điên đảo này khiến chúng sanh không nhận thức được đúng về bản chất của đời sống.
[163] Uất-đầu-lam-phất và A-la-la là những vị tiên nhân ngoại đạo mà đức Phật tìm đến trước tiên trên con đường học đạo. Sau khi thọ học với các vị này, ngài nhận ra là họ hoàn toàn không có khả năng đạt đến sự giải thoát rốt ráo, nên đã từ bỏ họ để ra đi.
[164] Nữ căn: bộ phận sanh dục nữ.
[165] Những pháp do bà-la-môn này trình bày cho thấy có sự lẫn lộn với những điều có trong pháp Phật, có thể là do chịu ảnh hưởng chung từ những quan điểm truyền thống đã có từ trước. Tuy nhiên, các pháp ở đây được trình bày một cách không hợp lý, và ngay cả sự tính đếm cũng sai lệch. Từ đại cho đến ba pháp căn bản, vị này đã kể ra cả thảy 26 pháp. Nhưng trên đã nói mạn sanh ra 16 pháp, dưới lại nói 16 pháp này do 5 pháp sanh ra! Tuy nhiên, đức Phật đã hoàn toàn không lưu tâm đến những sai sót này mà chỉ nói thẳng vào điểm trọng yếu nhất để phá đổ lập luận này.
[166] Câu này nói tóm ý từ mắt, tai... (sáu căn) và hình sắc, âm thanh... (sáu trần) tương ứng sanh ra sáu thức.
[167] Phạm chí: người thuộc dòng bà-la-môn xuất gia tu tập, quyết chí cầu sanh lên cõi Phạm thiên nên gọi là Phạm chí.
[168] Câu này nói tóm ý từ sắc cho đến thức, nghĩa là sắc, thọ, tưởng, hành và thức đều như vậy.
[169] Trả được món nợ mang thân này: người tu hành luôn quán xét việc có được thân người như hiện nay là rất khó, rất quý, nếu không chuyên cần tu tập để sớm đạt được sự giải thoát thì xem như uổng phí một kiếp được làm người. Vì thế, ở đây Phật dạy rằng vị Phạm chí này sau khi nhận rõ được Chánh pháp xem như đã trả được món nợ mang thân người.
[170] Tiên-ni: Tên gọi của vị này dịch nghĩa là Hữu Quân hay Thắng Quân.
[171] Năm cảnh giới (Ngũ đạo, có khi cũng gọi là Ngũ thú): chỉ năm cảnh giới mà các loài hữu tình tùy nghiệp lực thọ sanh đến (nên gọi là ngũ thú), xoay chuyển đến đi mãi không ra ngoài năm cảnh giới ấy (nên gọi là ngũ đạo), đó là cõi trời, cõi người, cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Khi nói lục đạo là thêm vào cảnh giới a-tu-la.
[172] Câu này nói tóm ý cả mắt, tai, mũi, lưỡi và thân và các thức tương ứng đều là như vậy, không thể lìa khỏi các căn mà có.
[173] Cho đến ý thức: câu này nói tóm ý từ nhãn thức cho đến ý thức, nghĩa là bao gồm nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
[174] Nguyên bản dùng chữ sĩ phu, phiên âm là bổ-lô-sa, với nghĩa chỉ phần tinh thần bản thể của con người, hoàn toàn không liên quan đến nghĩa của chữ sĩ phu thường được hiểu trong chữ Hán (người có học, nho sĩ...). Có nơi cũng dịch chữ này là linh hồn.
[175] Câu này phá vỡ lập luận của ông Tiên-ni rằng chỗ thấy, nghe đó là ngã; vì theo câu nói này thì chỗ thấy nghe và ngã là hai thực thể khác nhau.
[176] Bốn binh chủng: ở đây chỉ quân đội ngày xưa gồm bốn binh chủng là: quân có voi, quân cưỡi ngựa, quân dùng xe, quân đánh bộ.
[177] Kiêu mạn: thái độ và khuynh hướng ứng xử luôn tỏ ra kiêu căng, ngạo mạn, tự cho mình là tốt đẹp, tài giỏi hơn hẳn và xem thường mọi người khác.
[178] Câu này nói tóm ý về cả năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đều giống như vậy.
[179] Kiến hành: chỉ chung các loại ngã kiến, tà kiến... khiến hành giả không thể nhận thức được chân lý, nên cũng gọi là kiến hoặc.
[180] Câu này nói tóm ý tất cả những giả thuyết mà Phú-na đã nêu ra ở đoạn trên, tất cả đều là định kiến, hay nói cách khác cũng là những tà kiến, thấy biết sai lầm.
[181] Kiến chấp: sự cố chấp và vướng mắc vào chỗ thấy biết hiện có của mình, cho đó là tuyệt đối và không chấp nhận mọi quan điểm khác.
[182] Nói pháp thân thường tồn là vượt khỏi giới hạn của thời gian; nói không thuộc về các phương hướng đông, tây, nam, bắc là vượt khỏi giới hạn của không gian.
[183] Theo Nam bản thì từ đây hết quyển 35, bắt đầu quyển 36, cũng là quyển cuối, phẩm Kiều-trần-như, phần sau (Kiều-trần-như phẩm hạ).
[184] Câu hỏi này tóm ý các giả thuyết mà Phú-na đã nêu ra ở phần trước.
[185] Câu này nói tóm ý từ sắc cho đến thức, tức là năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
[186] Giết hại... cho đến tà kiến: là nói tóm lược về cả Mười pháp bất thiện, bao gồm: giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, tham lam, sân khuể và tà kiến. Không làm những điều này là Mười pháp thiện.
[187] Năm mối trói buộc: chỉ ngũ hạ kết, cũng gọi là ngũ độn sử, là năm mối trói buộc của chúng sanh Dục giới, gồm những trói buộc vì quan điểm sai lầm, vì sự nghi ngờ, vì giữ theo tà giới, vì tham lam và vì sân hận.
[188] Ba mối trói buộc: chỉ tam kết sử, nằm trong ngũ hạ kết vừa nói trên, bao gồm sự trói buộc do quan điểm sai lầm, trói buộc vì sự nghi ngờ và trói buộc vì giữ theo tà giới.
[189] Hai pháp chỉ và quán: nguyên bản Hán văn dùng xa-ma-tha và tỳ-bà-xá-na, theo truyền thống luôn được dịch là chỉ và quán. Chỉ nghĩa là “dừng lại”, có ý nghĩa tu tập sự định tâm, dứt mọi vọng niệm; quán nghĩa là “quán xét”, có ý nghĩa tu tập nhận thức đúng thật, sáng suốt về thực tại. Vì thế, xét về kết quả tu tập thì hai pháp tu chỉ và quán cũng được gọi là định và tuệ, vì “chỉ” giúp đạt được định và “quán” giúp đạt được tuệ. Kinh điển Đại thừa thường đề cập đến định và tuệ nhiều hơn.
[190] Tám sự buông xả (Bát bội xả), theo các nhà Tân dịch thì đây là Bát giải thoát (Tám giải thoát).
[191] Đây nói về sự biến dạng của động từ trong câu để diễn đạt các ý nghĩa tương lai, hiện tại hay quá khứ. Không riêng gì ngữ pháp trong Phạn ngữ, ngay cả Anh ngữ, Pháp ngữ cũng có những quy tắc này.
[192] Vì sử dụng thí dụ có nghĩa là đem sự vật này so với sự vật khác để làm rõ một ý nghĩa nào đó, cho nên phải chấp nhận là các pháp không có tự tánh cố định.
[193] “Ngài cũng đồng như tôi”: Ở đây Phật nêu trước lập luận phản bác của Phạm chí Nạp Y, vì biết ông ta sẽ căn cứ vào câu này để vặn hỏi lại: “Nếu thân có trước tức là không do nhân phiền não sanh ra, vậy cũng đồng với thuyết sẵn có tự tánh của tôi đã nói.”
[194] Theo Niết-bàn kinh sớ giải thì câu này có ý chỉ đến sự căn vặn của Phạm chí Nạp Y rằng “thân không do nhân sanh ra, đó là sẵn có tự tánh”.
[195] Nguyên bản Hán văn là: “Nhữ ý nhược vị thân bất tại tiên cố tri vô nhân”. Nhưng đoạn tiếp theo lại đưa ra lập luận là: “nhược dĩ thân tiên vô nhân”, có vẻ như không hợp nhau. Chúng tôi tham khảo Niết-bàn kinh sớ giải thấy giải thích câu trước đó là: “Thử ngôn lược thiểu, nhược cụ ưng ngôn: Nhữ ý nhược vị thân bất tại tiên hữu nhân duyên cố tri vô nhân.” (Câu này nói lược, nếu nói đủ phải là: Nếu ý ông cho rằng thân trước đó không có nhân duyên nên biết là không do nhân [mà có].) Cách giải thích này có vẻ như rất hợp lý, vì hiểu như vậy thì câu lập luận tiếp theo đó mới phù hợp. Chúng tôi xin nêu ra để độc giả suy xét.
[196] Nguyên bản dùng “bạch lạp”, chỉ loại hợp kim pha lẫn giữa chì và thiếc, dễ nóng chảy, dùng trong việc hàn các kim loại khác.
[197] Ở đây đức Phật dựa trên chính lập luận của những ngoại đạo này đã từng đưa ra khi giải thích về năm đại.
[198] Những lập luận đức Phật đưa ra ở đây là dựa vào chính những điều được dạy trong giáo pháp của ngoại đạo.
[199] Trong câu này nguyên bản Hán văn dùng chữ giác quán, là cách dịch cũ của tầm tứ, chỉ chung tất cả các tư tưởng thô (tầm) và vi tế (tứ). Những bản trước đây có khi dịch thành giác quan, có khi để nguyên từ giác quán, đều không làm rõ ý. Chính do các tư tưởng (thô và tế) xấu ác mà khởi sanh tham, sân, si...; và cũng nhờ các tư tưởng (thô và tế) tốt lành mà có sự khởi đầu tu tập hướng đến giải thoát.
[200] Theo nội dung ở đây thì ngài A-nan đã vắng mặt hoàn toàn từ đầu kinh cho đến lúc này, không tự mình được nghe tất cả những sự thuyết giảng đã qua của Phật.
[201] Theo đoạn này có thể thấy rõ là trong hơn 30 năm đức Phật hoằng hóa sau khi thành Chánh giác, ngài A-nan vẫn chưa giữ vai trò thị giả kề cận bên Phật.
[202] Đàn-việt, dịch nghĩa là thí chủ, tức là người có tín tâm cúng dường Tam bảo.
[203] Nguyện trí, chỉ trí tuệ do nguyện lực dẫn sanh, tùy nguyện mà rõ biết.
[204] Nguyên bản dùng Đa văn tạng, dịch sát nghĩa là kho chứa [những điều] nghe nhiều; nhưng ở đây không chỉ chung tất cả những điều được nghe, mà chỉ đến những kinh điển A-nan đã nghe Phật thuyết giảng, vì thế chúng tôi dịch là Kho chứa Kinh điển để rõ ý hơn.
[205] Đây có nghĩa là dứt hẳn sự dâm dục.
[206] Nguyên bản Hán văn trong bản chữ Vạn có khắc những chữ nhỏ đánh dấu từng phần, cả thảy là 16 phần. Chúng tôi đã ngắt câu theo sự đánh dấu này.
[207] Tu-bạt-đà: là vị Phạm chí ngoại đạo được Phật thu nhận làm đệ tử cuối cùng trước khi ngài nhập Niết-bàn.
[208] Phú-lan-na, tức Phú-lan-na Ca-diếp, là một trong sáu vị thầy ngoại đạo vào thời đức Phật, thường gọi chung là Lục sư ngoại đạo.
[209] Uất-đầu-lam-phất, đại sư ngoại đạo nổi tiếng vào thời đức Phật. Khi Phật vừa mới xuất gia tầm đạo đã đến hỏi đạo nơi vị này. Tên gọi của ông còn được phiên âm theo nhiều cách khác như Uất-đà-già, Ưu-đà-la-ma tử, Uất-đà-la-ma tử, Ốt-đạt-lạc-ca, Uất-đà-la-già... đều xuất phát từ một tên Phạn ngữ.
[210] Nguyên bản Hán văn dùng Tu-bạt-đà-la, cũng chính là ông Tu-bạt-đà đang nói ở trên. Từ đây về sau chúng tôi vẫn dùng tên gọi Tu-bạt-đà để độc giả tiện theo dõi
[211] Theo Nam bản thì đến đây là cuối quyển 36, chấm dứt trọn bộ kinh. Bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm cũng đến đây là hết. Theo các tư liệu còn lưu lại đến nay thì ngài Đàm-vô-sấm đã mất trong khi đang trên đường trở về Ấn Độ để thỉnh phần cuối kinh này sang dịch tiếp. Do đó, phần tiếp theo của kinh này, tức 2 quyển cuối cùng (Niết-bàn kinh hậu phần) phải đợi đến đời Đường mới được các ngài Nhã-na-bạt-đà-la và Hội Ninh dịch tiếp và hoàn tất.
[212] Vén trần vai áo bên phải: cử chỉ để bày tỏ lòng tôn kính. Tập tục này vốn có từ thời cổ đại Ấn Độ, thường được các tỳ-kheo sử dụng để bày tỏ lòng tôn kính Phật trước khi thưa hỏi điều gì.
[213] Tám loại âm thanh (Bát chủng thanh): chỉ thần lực của Phật khi phát ra âm thanh lời nói có tám tính chất tốt đẹp, có thể khiến tất cả các loài chúng sanh đều tùy theo ngôn ngữ của mình mà hiểu rõ.