QUYỂN BỐN
PHẨM TÁNH NHƯ LAI
Phẩm thứ tư – Phần một[1]
Phật lại bảo
Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử!
Đại Bồ Tát phân biệt và khai thị kinh Đại Bát Niết-bàn, có bốn
ý nghĩa được
biểu lộ. Thế nào là bốn? Một là tự sửa mình chân chánh, hai là làm cho kẻ khác trở nên chân chánh, ba là có thể tùy chỗ hỏi mà đáp, bốn là khéo giảng rõ nghĩa
nhân duyên.
“Thế nào là tự sửa mình chân chánh? Như
Phật Như Lai nhìn thấy các
nhân duyên liền có chỗ thuyết dạy.
“Ví như có tỳ-kheo thấy đám lửa lớn, bèn nói rằng: ‘Thà tôi phải ôm đám lửa nóng ấy, chứ chẳng dám đối với tạng
bí mật và
Mười hai bộ kinh do
Như Lai thuyết mà
phỉ báng rằng: ‘Kinh ấy do Ma Ba-tuần thuyết.’
“Như người nói rằng: ‘Như Lai, Pháp, Tăng là
vô thường.’ Người nói như vậy là tự dối gạt mình mà cũng dối gạt kẻ khác. Thà lấy dao bén tự cắt lưỡi mình, chứ không bao giờ nên nói rằng: ‘Như Lai, Pháp, Tăng là
vô thường.’ Như nghe người khác nói ra lời ấy, cũng chớ nên tin nhận. Đối với kẻ nói ra lời ấy, nên đem lòng
thương xót.
“Như Lai, Pháp,
Tăng thật là không thể nghĩ bàn. Nên tin giữ lẽ ấy.
Tự quán thân mình dường như đám lửa.
“Đó gọi là tự sửa mình chân chánh.
“Thế nào là làm cho kẻ khác trở nên chân chánh?
“Có một lúc, Phật đang
thuyết pháp, có một
phụ nữ còn đang cho con bú đến chỗ Phật ngự, cúi đầu lễ sát
chân Phật rồi ngồi sang một bên, nhưng trong lòng
vẫn có điều
nghĩ tưởng.
“Lúc ấy,
đức Thế Tôn biết
ý nghĩ của cô ta nên dạy rằng: ‘Vì lòng thương con, cô đã cho con bú rất nhiều, chẳng biết số lượng, chẳng rõ là có
tiêu hóa được hay không.’
“Liền đó, người
phụ nữ bạch Phật rằng: ‘Lạ thay, Thế Tôn! Ngài biết được
ý nghĩ trong lòng con. Xin
Như Lai dạy con cách cho bú nhiều ít thế nào. Thế Tôn! Sáng nay con đã cho trẻ bú rất nhiều sữa, e không
tiêu hóa nổi, chẳng biết có hại mạng nó chăng? Xin
đức Như Lai vì con giảng rõ.’
“Phật dạy: ‘Lượng sữa mà con của cô đã bú, rồi sẽ
tiêu hóa được, giúp tăng thêm tuổi thọ.’
“Người
phụ nữ nghe xong, trong lòng phấn chấn, lại
bạch Phật: ‘Lời thật của
Như Lai làm cho con
vui vẻ lắm. Như vậy, vì
điều phục các
chúng sanh,
Thế Tôn đã khéo
phân biệt nói các lẽ tiêu hoặc chẳng tiêu, lại cũng nói những lẽ
vô ngã,
vô thường của các pháp. Nếu trước hết,
Phật Thế Tôn thuyết
lẽ thường, những người theo học ngài tất sẽ nói rằng: Pháp ấy cũng
như pháp của
ngoại đạo. Rồi họ sẽ bỏ ngài mà đi.’
“Phật lại dạy người
phụ nữ ấy rằng: ‘Nếu đứa con đã lớn, biết đi biết chạy, thì khi ăn vào có thể
tiêu hóa được những món khó tiêu. Lúc đó, sữa của cô sẽ không đủ
cung cấp cho nó. Các
đệ tử Thanh văn của ta
cũng thế, họ như đứa con còn bú của cô, không
tiêu hóa nổi
pháp thường trụ này.
Vì vậy nên trước hết, ta thuyết dạy họ những lẽ: khổ,
vô thường. Đến chừng các
Thanh văn,
đệ tử của ta có đủ
công đức rồi,
đủ sức tu tập kinh điển Đại thừa, ta mới thuyết với họ
sáu vị ở kinh này. Thế nào là sáu vị? Ta thuyết dạy rằng: khổ, đó là vị chua;
vô thường, đó là vị mặn;
vô ngã, đó là
vị đắng; lạc, đó là vị ngọt; ngã đó là vị cay; thường, đó là vị nhạt. Trong
thế gian có ba vị, ấy là:
vô thường,
vô ngã, vô lạc.
Phiền não là củi,
trí tuệ là lửa, với
nhân duyên ấy được cơm Niết-bàn. Ta dạy các
pháp thường, lạc, ngã, khiến cho các
đệ tử đều được món ngon
ưa thích.’
“Phật lại bảo người
phụ nữ ấy rằng: ‘Như cô có
việc phải đi đến xứ khác, nên
xua đuổi những đứa con
ngỗ nghịch ra khỏi nhà, rồi mới đem kho quý trong nhà mà giao cho những đứa con ngoan.’ Người
phụ nữ bạch Phật rằng: ‘Đúng như
lời Phật dạy, nên chỉ kho
trân bảo cho những đứa con ngoan, không nên cho những đứa
ngỗ nghịch.’
“Phật dạy: ‘Này cô! Ta đây
cũng thế, khi nhập Niết-bàn ta chẳng đem kho pháp
vi diệu sâu kín và
vô thượng của
Như Lai mà trao cho các
đệ tử Thanh văn; cũng như kho báu của cô không trao cho những đứa con
ngỗ nghịch. Ta cần
phó chúc cho hàng
Bồ Tát, cũng như cô đem kho báu mà giao cho những đứa con ngoan. Vì sao vậy? Vì các
đệ tử Thanh văn có
tư tưởng biến đổi, cho rằng
Phật Như Lai thật đã
diệt độ. Nhưng ta thật ra chẳng có
diệt độ.
Ví như trong khi cô đi xa chưa về, thì những đứa con
ngỗ nghịch sẽ nói rằng cô đã chết. Mà thật ra cô không hề chết. Chư
Bồ Tát đều nói rằng:
Như Lai là thường, chẳng
biến đổi. Các vị ấy giống như những đứa con ngoan của cô, chẳng nói rằng cô đã chết. Vì nghĩa ấy, ta đem kho pháp
bí mật vô thượng mà
phó chúc cho chư
Bồ Tát.’
“Thiện nam tử! Như có
chúng sanh nào bảo rằng Phật là
thường trụ, chẳng
biến đổi, nên biết rằng có Phật ở tại nhà người ấy.
“Đó gọi là làm cho kẻ khác trở nên chân chánh.
“Thế nào là có thể tùy chỗ hỏi mà đáp?
“Như có người đến hỏi
Phật Thế Tôn rằng: ‘Tôi nên làm thế nào để không bỏ
tiền của ra mà vẫn đáng gọi là bậc đại thí chủ?’
“Phật dạy: ‘Nếu có các vị sa-môn, bà-la-môn ít
ham muốn, biết đủ, chẳng thọ nhận, chẳng chứa trữ những vật
bất tịnh, nên thí cho các vị ấy những tôi trai tớ gái để làm kẻ hầu hạ
sai khiến. Đối với những vị
tu trì phạm hạnh, nên thí cho những
nữ nhân. Đối với những người đã dứt bỏ rượu thịt, nên thí cho rượu thịt. Đối với những vị không ăn quá ngọ, nên thí cho những bữa cơm quá ngọ. Đối với những vị chẳng trang sức bằng hoa hương, nên thí cho hoa hương. Những người thí như
vậy thì danh tiếng bố thí lan rộng ra khắp
mọi nơi mà không phải mất mát
tiền của chi cả.’ Đó gọi là có thể tùy chỗ hỏi mà đáp.”
Lúc ấy,
Bồ Tát Ca-diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Đối với người
ăn thịt chẳng nên cho thịt. Vì sao vậy? Con thấy rằng người không
ăn thịt được
công đức lớn.”
Phật khen ngợi
Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay,
lành thay! Nay ông biết rõ ý ta.
Bồ Tát hộ pháp nên làm như vậy.
“Thiện nam tử! Từ nay về sau ta không
cho phép các
đệ tử Thanh văn ăn thịt. Khi nhận ở người đàn-việt món thịt hiến cúng, nên
quán tưởng đó như là thịt con mình.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Tại sao
Như Lai không
cho phép ăn thịt?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Kẻ
ăn thịt làm dứt mất
hạt giống đại từ.”
Ca-diếp lại bạch: “Vậy tại sao lúc trước
Như Lai cho phép tỳ-kheo ăn ba loại tịnh nhục?”[2]
“Ca-diếp! [Việc
cho phép ăn] ba loại
tịnh nhục ấy là
tùy theo sự việc mà
hạn chế dần dần.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Do
nhân duyên gì mà từ mười loại thịt
bất tịnh cho đến chín loại tịnh nhục, Phật đều không
cho phép dùng nữa?”[3]
Phật dạy Ca-diếp: “Đó cũng là nhân nơi sự việc mà ta
dần dần hạn chế. Nên biết rằng đó là
ý nghĩa vì sao nay ta cấm hẳn việc
ăn thịt.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Tại sao
Như Lai khen rằng cá là món ăn ngon?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ta không hề nói rằng cá là món
ăn ngon. Ta nói rằng: mía, cơm gạo, đường phèn, tất cả những thứ
ngũ cốc cùng đường đen, sữa, bơ sữa, dầu... là những món
ăn ngon. Tuy ta nói rằng có thể cất giữ
các loại vải, nhưng phải làm cho mất vẻ đẹp đi,[4] huống chi lại còn
ham thích ăn món cá hay sao?”
Ca-diếp lại
bạch Phật: “Nếu
Như Lai đã chế
định không được
ăn thịt, vậy sữa và các món được chế ra từ sữa, cùng với
các loại dầu mè,
cho đến các loại vải vóc, như hàng lụa kiêu-sa-da, những loại
ngọc thạch, da thú,
vàng bạc, chén bát[5]... các thứ ấy cũng chẳng nên dùng sao?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ông không nên hiểu giống như bọn
ngoại đạo Ni-kiền.[6]
Như Lai chế định mỗi một
giới cấm đều có
dụng ý riêng. Vì có
dụng ý riêng, nên ta
cho phép ăn ba thứ
tịnh nhục. Vì có
dụng ý riêng, nên ta cấm dùng mười loại thịt
bất tịnh. Và cũng vì có
dụng ý riêng, nên nay ta cấm hẳn tất cả
các loại thịt, kể cả thịt của những con thú
tự nhiên chết, không
bị giết hại.
“Ca-diếp! Kể từ hôm nay ta cấm tất cả các
đệ tử không được ăn bất cứ loại thịt nào cả.
“Ca-diếp! Những người
ăn thịt, trong khi đi, đứng, ngồi nằm đều xông ra hơi thịt, tất cả
chúng sanh nghe hơi ấy, đều lấy làm sợ sệt.
Ví như một người kia, đã gần gũi với
sư tử, những kẻ khác khi gặp người ấy, nghe
mùi hôi của
sư tử cũng sanh lòng sợ sệt!
“Thiện nam tử!
Ví như người ăn tỏi, xông ra
mùi hôi khó chịu. Những ai gặp người ấy, nghe
mùi hôi liền bỏ đi. Dù là nhìn thấy từ xa còn chẳng muốn nhìn, huống chi lại muốn
đến gần hay sao?
“Những người
ăn thịt lại cũng như vậy. Tất cả
chúng sanh khi nghe hơi thịt thảy đều kinh sợ, phát sanh
tư tưởng sợ chết. Những loài có mạng sống, hoặc lội
dưới nước, hoặc đi trên đất, hoặc bay trên không, thảy đều xa lánh, đều cho rằng: ‘Người ấy là
kẻ thù của
chúng ta.’
“Bởi vậy,
Bồ Tát không có
thói quen ăn thịt. Vì độ
chúng sanh nên các ngài
thị hiện việc
ăn thịt. Tuy
thị hiện ăn thịt, thật ra là chẳng ăn.
“Thiện nam tử! Hàng
Bồ Tát như vậy, cả những món
thanh tịnh còn chẳng ăn, huống chi lại
ăn thịt hay sao?
“Thiện nam tử! Sau khi ta nhập Niết-bàn,
trải qua vô lượng trăm năm, các vị thánh
tu tập Tứ đạo[7] cũng đều nhập Niết-bàn.
Chánh pháp diệt rồi, trong
thời kỳ Tượng pháp sẽ có những tỳ-kheo, có vẻ như là giữ luật, nhưng ít
đọc tụng kinh điển, tham việc
ăn uống,
nuôi dưỡng xác thân. Họ mặc quần áo thô sơ
xấu xí,
hình dung tiều tụy, chẳng có
oai đức chi cả. Họ chăn bò, nuôi dê, gánh củi, đội cỏ, râu tóc để dài, móng tay ra nhọn.
“Tuy mặc áo cà-sa, nhưng bọn họ giống như thợ săn; mắt nhìn lấm lét, chân bước từ từ, dường như mèo rình chuột. Họ thường nói rằng: ‘Ta
đắc quả A-la-hán.’
“Họ có nhiều
bệnh khổ, ngủ nằm nơi phẩn uế.
Bề ngoài họ ra vẻ
hiền lành mà trong lòng ôm giữ sự
tham lam,
đố kỵ, như người thọ phép câm không nói của bà-la-môn.
“Họ đội lốt sa-môn nhưng thật chẳng phải sa-môn, trong lòng đầy
tà kiến,
phỉ báng Chánh pháp.
“Những người như vậy
phá hoại các
giới luật mà
Như Lai đã chế định,
phá hoại oai nghi của hạnh chân chánh và quả
giải thoát mà Phật đã thuyết. Họ
lìa bỏ pháp thanh tịnh và
phá hoại giáo pháp sâu xa bí mật của chư Phật.
“Mỗi người trong bọn họ đều theo ý mình mà nói ngược lại với kinh luật. Họ nói rằng: ‘Như Lai
cho phép chúng tôi ăn thịt.’ Họ tự
biện luận như thế, nhưng lại nói đó là
lời Phật dạy. Họ cãi lẫy và
kiện cáo nhau, người nào cũng tự xưng mình là sa-môn
Thích tử.
“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ lại có những sa-môn chứa trữ lúa thóc, nhận các món thịt cá rồi tự tay làm lấy món ăn; cầm nắm bình dầu, lọng báu, giày da, thân cận với
quốc vương, đại thần,
trưởng giả; coi sao đoán mệnh,
học nghề làm thuốc;
nuôi dưỡng nô tỳ,
chất chứa vàng, bạc,
lưu ly,
xa cừ,
mã não,
pha lê,
trân châu,
san hô,
hổ phách, ngọc bích,
ngọc thạch, các thứ dưa trái... Họ học các nghề tinh xảo, vẽ hình, nắn tượng, viết sách, dạy học, gieo giống, trồng cây, làm thuốc độc, bùa chú, pha chế thuốc, đàn ca hát xướng, cài hoa xức hương, đánh bạc đánh cờ, học các nghề nghiệp...
“Nếu có những tỳ-kheo nào có thể rời bỏ các việc xấu ác ấy, nên nói rằng những vị ấy là
đệ tử chân thật của ta.”
Lúc ấy, Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Chư tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di sống nhờ vào người khác. Trong khi
khất thực, như gặp những món ăn có
xen lẫn thịt thì nên ăn thế nào cho đúng phép thanh tịnh?”
Phật dạy: “Ca-diếp! Nên dùng nước mà rửa,
loại bỏ thịt ra khỏi
thức ăn rồi mới ăn. Như bát đựng cơm bị thịt làm ô uế, hãy rửa cho hết
mùi vị đi rồi dùng thì không có tội. Như thấy trong
thức ăn có nhiều thịt, chớ nên nhận lấy. Bất cứ món ăn nào nhìn thấy có thịt đều không nên ăn, nếu ăn thì có tội.
“Nay ta nói phép cấm
ăn thịt là như vậy, nếu nói rộng ra thì không thể hết. Sắp đến lúc nhập Niết-bàn nên ta chỉ dạy chỗ
đại lược như thế. Đó gọi là có thể tùy chỗ hỏi mà đáp.
“Ca-diếp! Thế nào là khéo giảng rõ nghĩa nhân duyên? Như có tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đến hỏi ta rằng: ‘Thế Tôn!
Nghĩa lý như vậy, tại sao lúc
ban đầu Như Lai chẳng thuyết với vua Ba-tư-nặc nghĩa
sâu xa vi diệu của
pháp môn ấy? Hoặc khi thì thuyết lẽ
sâu xa, khi thì thuyết lẽ nông cạn, hoặc khi gọi là
phạm giới, khi gọi là chẳng phạm giới? Thế nào gọi là sa đọa? Thế nào gọi là giới luật? Thế nào là
ý nghĩa của Ba-la-đề-mộc-xoa?’
“Phật dạy: ‘Ba-la-đề-mộc-xoa gọi là biết đủ,
thành tựu các
oai nghi, không nhận lãnh và chứa trữ gì cả, cũng gọi là
đời sống trong sạch.
“Sa đọa tức là bốn nẻo ác.[8]
“Sa đọa lại cũng có nghĩa là sa đọa vào
địa ngục, cho tới rơi vào
địa ngục Vô gián.[9] Luận về chỗ mau chậm thì sự sa đọa ấy còn nhanh hơn cả cơn mưa to trút xuống. Người nghe biết như vậy phải sanh lòng kinh sợ, giữ bền
giới cấm, chẳng phạm
oai nghi,
tu tập hạnh biết đủ, đối với tất cả những vật
bất tịnh đều không nhận lãnh.
“Sa đọa cũng có nghĩa là nuôi lớn thêm những
cảnh giới địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ.
“Vì những nghĩa trên, nên gọi là sa đọa.
“Ba-la-đề-mộc-xoa[10] nghĩa là
lìa bỏ những
nghiệp bất thiện,
tà vạy của thân, miệng, ý.
Giới luật nghĩa là
oai nghi của tám giới,[11] những nghĩa lành trong kinh
sâu xa, ngăn chặn việc nhận lãnh hết thảy những vật
bất tịnh cùng những
nhân duyên bất tịnh, cũng ngăn dứt Bốn tội trọng,[12] Mười ba tội
tăng tàn,[13] Hai tội không xác định,[14] Ba mươi tội
xả đọa,[15] Chín mươi tội đơn đọa,[16] Bốn tội cần
sám hối,[17] Một trăm
hành vi không tốt
cần phải học biết để tránh,[18] Bảy phép dứt tranh cãi.[19]
“Hoặc cũng có kẻ phạm vào tất cả các giới. Thế nào là tất cả? Đó là từ Bốn tội trọng cho tới Bảy phép dứt tranh cãi.
“Lại như có người
phỉ báng Chánh pháp của
kinh điển rất
sâu xa,
cho đến những kẻ nhất-xiển-đề,[20] hoặc kẻ cho là mình được
thành tựu đầy đủ, dứt hết tất cả tướng, không còn
nhân duyên. Những người như vậy đều tự nói rằng: ‘Ta là người
thông minh, có
trí tuệ sắc bén.’ Các tội nặng hay nhẹ đều che giấu cả; họ che giấu các điều ác như con rùa giấu cả đầu đuôi và bốn chân vào dưới mu. Những tội như vậy, kéo dài mãi chẳng hề
hối hận. Bởi không
hối hận, nên
tội lỗi ngày càng nhiều hơn. Những tỳ-kheo ấy đã
phạm tội nhưng rốt cùng vẫn luôn giấu kín. Điều đó làm cho
tội lỗi ngày càng lớn thêm, lan rộng.
Như Lai đã biết việc ấy, nên
lần lượt chế các
giới cấm chứ không nói ra một lúc.
“Bấy giờ, có những
thiện nam tử,
thiện nữ nhân bạch Phật rằng: ‘Thế Tôn!
Như Lai biết việc như vậy
đã lâu rồi, tại sao trước đó không ngăn cấm? Lẽ nào
Thế Tôn muốn cho
chúng sanh phải vào
địa ngục Vô gián hay sao?
Ví như có nhiều người muốn đi đến phương khác, nhưng lạc mất
con đường chính,
đi theo đường lạc hướng. Những người ấy chẳng biết rằng họ đang
đi lạc, thảy đều cho rằng mình đi đúng đường. Họ lại chẳng gặp ai để có thể hỏi xem đường đi đúng hay chẳng đúng.
“Chúng sanh cũng như thế, mê lạc mất
Phật pháp, chẳng thấy được chỗ chân chánh.
Như Lai trước nên vì họ chỉ dạy
con đường chân chánh, dạy các tỳ-kheo rằng: Thế này là
phạm giới. Thế này là
trì giới. Ngài nên ngăn cấm như vậy. Vì sao vậy? Vì
Như Lai Chánh giác là bậc
chân thật, thấy biết
con đường chân chánh. Chỉ có
Như Lai, vị cao trổi nhất trong các
cõi trời, mới có thể thuyết dạy chỗ tăng thêm
công đức và
ý nghĩa của
Mười điều lành.
Vì vậy chúng con
khải thỉnh Như Lai nên
chế giới cấm từ trước khi xảy việc.’
“Phật dạy: ‘Thiện nam tử! Nếu nói rằng
Như Lai có thể vì
chúng sanh giảng dạy chỗ tăng thêm
công đức của
Mười điều lành, vậy tức là
Như Lai coi
chúng sanh đồng như La-hầu-la. Sao lại
vặn hỏi rằng: ‘Lẽ nào
Thế Tôn muốn cho
chúng sanh phải vào địa ngục?’ Khi ta thấy một người có
nghiệp duyên phải đọa vào
địa ngục Vô gián, ta còn vì người ấy mà trụ thế một kiếp hoặc một
kiếp giảm. Ta có lòng
đại từ bi đối với
chúng sanh, đã thương như con một của mình thì
duyên cớ chi lại dối gạt để cho
chúng sanh phải vào địa ngục?
“Thiện nam tử!
Ví như trong nước của vua có người mặc áo
nạp y,[21] trước nhìn thấy áo có lỗ rách, rồi sau mới vá kín lại.
Như Lai cũng thế, thấy
chúng sanh có
nhân duyên vào
địa ngục Vô gián, mới dùng những giới lành mà vá kín những chỗ chẳng lành cho họ.
“Thiện nam tử!
Ví như vị
Chuyển luân Thánh vương, trước vì
chúng sanh thuyết dạy
Mười điều lành. Rồi về sau, nếu có những người làm ác, vua ấy sẽ tùy việc mà
dần dần dứt bỏ những việc ác. Những việc ác đã dứt rồi thì phép tắc của
Thánh vương tự nhiên lưu hành.
“Thiện nam tử! Ta đây
cũng thế. Tuy có thuyết dạy, nhưng không
thể chế các
giới cấm từ trước.
Cần phải dần dần do nơi những tỳ-kheo có
việc làm phi pháp, mới theo từng việc mà chế các
giới cấm. Có những
chúng sanh hâm mộ Phật pháp, theo đúng lời dạy mà
tu hành. Những chúng như vậy mới có thể thấy được
Pháp thân Như Lai.
“Ví như cái bánh xe báu của vị
Chuyển luân vương là không thể nghĩ bàn.
Như Lai cũng như thế, không thể nghĩ bàn. Hai ngôi báu Pháp và Tăng cũng không thể nghĩ bàn. Người có thể
thuyết pháp và người
nghe pháp cũng đều là không thể nghĩ bàn.
“Đó gọi là khéo giảng rõ nghĩa
nhân duyên.
“Bồ Tát
phân biệt và khai thị bốn
ý nghĩa biểu lộ ra như vậy,[22] đó gọi là nghĩa
nhân duyên trong Đại Niết-bàn của
Đại thừa.
“Lại nữa, tự sửa mình chân chánh, ấy là
đạt được Đại Bát Niết-bàn này. Làm cho kẻ khác trở nên chân chánh, là như ta vì các tỳ-kheo mà thuyết rằng: ‘Như Lai thường tồn, chẳng
biến đổi.’ Ca-diếp! Tùy chỗ hỏi mà đáp, là như nhân nơi chỗ hỏi của ông mà ta thuyết rộng
nghĩa lý rất
thâm sâu vi diệu này với các vị
Đại Bồ Tát, tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di. Về nghĩa
nhân duyên, hàng
Thanh văn,
Duyên giác chẳng thể
hiểu rõ nghĩa rất
sâu xa như vậy, chẳng nghe biết rằng chữ Y do ba chấm hợp thành, cũng như tạng
bí mật do
Giải thoát, Niết-bàn và
Đại trí tuệ Bát-nhã hợp thành.
“Nay ta xiển dương
phân biệt nghĩa này, vì hàng
Thanh văn mà khai mở con mắt
trí tuệ.
Ví như có người nói rằng: ‘Trong bốn việc kể trên, sao gọi là một, chẳng phải là
hư dối đó sao?’ Nên hỏi ngược lại rằng: ‘Như
hư không đây vốn chẳng có chi hết, chẳng động, chẳng ngại. Bốn việc ấy có gì khác nhau? Vậy có thể nói là
hư dối chăng?’”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch
Thế Tôn, không phải. Những lời như vậy đều là một nghĩa, ấy là
nghĩa không. Các việc
như tự sửa mình chân chánh, làm cho kẻ khác trở nên chân chánh, tùy chỗ hỏi mà đáp, giảng rõ nghĩa
nhân duyên, cũng đều là như vậy, tức là Đại Niết-bàn, chẳng có gì khác nhau.”
Phật bảo Ca-diếp: “Như có kẻ nói rằng: ‘Như Lai là
vô thường. Làm sao biết là vô thường? Như Phật có nói: Dứt các
phiền não gọi là Niết-bàn, cũng như lửa tắt chẳng còn gì cả. Dứt các
phiền não lại cũng như vậy, cho nên gọi là Niết-bàn. Vậy làm sao
Như Lai lại là
pháp thường trụ, không biến đổi?
“Như Phật có nói: Lìa khỏi các cảnh có,[23] mới gọi là Niết-bàn. Vậy trong Niết-bàn không có các cảnh có. Vậy làm sao
Như Lai lại là
pháp thường trụ, không biến đổi?
“Như cái áo đã hư rách hết thì chẳng còn ra vật gì. Niết-bàn
cũng thế, diệt hết các
phiền não thì chẳng còn gì cả. Vậy làm sao
Như Lai lại là
pháp thường trụ, không biến đổi?
“Như Phật có nói: Lìa dục
tịch diệt, gọi là Niết-bàn. Như người kia bị chém đầu, tức không có đầu. Lìa dục
tịch diệt lại cũng như vậy, không có chi cả, nên gọi là Niết-bàn. Vậy làm sao
Như Lai lại là
pháp thường trụ, không biến đổi?
Như Phật có nói:
Ví như sắt nung đỏ,
Búa nện, nháng lửa văng.
Văng ra liền diệt mất,
Chẳng biết ở nơi nào!
Được giải thoát chân chánh,
Lại cũng như vậy đó.
Đã vượt khỏi:
dâm dục,
Các cảnh có,
bùn lầy,
Được chỗ không lay động,
Chẳng biết
tới nơi nào!
“Vậy làm sao
Như Lai lại là
pháp thường trụ, không biến đổi?
“Ca-diếp! Như có người
vặn hỏi [những điều] như vậy, thì đó là sự
vặn hỏi sai trái. Ca-diếp! Ông cũng chẳng nên
nghĩ tưởng như thế, cho rằng tánh của
Như Lai là dứt mất.
“Ca-diếp! Việc dứt các
phiền não không thuộc về sự vật. Vì sao vậy? Vì dứt sạch
mãi mãi nên gọi là thường. Nói như vậy nghĩa là
vắng lặng hoàn toàn, không còn chi hơn nữa. Dứt sạch hết các tướng, chẳng còn chút dấu vết. Nói như vậy nghĩa là sáng rõ,
thường trụ, chẳng thối lui. Vậy nên Niết-bàn gọi là
thường trụ.
“Như Lai
cũng thế,
thường trụ, chẳng
biến đổi. Khi búa nện xuống sắt đỏ, nháng lửa liền văng ra, đó là
ví như phiền não. Văng ra liền diệt mất, chẳng biết ở nơi nào, đó là
ví như các
đức Như Lai đã dứt sạch
phiền não, chẳng
lưu chuyển trong Năm đường.[24] Cho nên
Như Lai là
pháp thường trụ, chẳng
biến đổi.
“Lại nữa, Ca-diếp! Pháp là thầy của chư Phật, cho nên
Như Lai cung kính cúng dường. Vì pháp là thường, nên chư Phật cũng là thường.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng: “Như lửa
phiền não dứt thì
Như Lai cũng dứt. Như vậy tức là
Như Lai không có chỗ
thường trụ.
Ví như những nháng lửa kia, khi màu đỏ tắt mất thì chẳng biết đi đến chỗ nào.
Phiền não của
Như Lai cũng vậy, chẳng biết đi đến chỗ nào. Lại như khối sắt kia, nung nóng có màu đỏ, khi nguội rồi thì hơi nóng và màu đỏ đều không còn nữa.
Như Lai cũng thế, diệt rồi là
vô thường, lửa
phiền não đã dứt, liền nhập Niết-bàn. Nên biết rằng
Như Lai là
vô thường.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Khối sắt mà ông ví dụ đó, ấy là hạng
phàm phu.
Phàm phu tuy dứt
phiền não, nhưng dứt rồi lại sanh ra, cho nên gọi là
vô thường.
Như Lai chẳng phải vậy, đã dứt rồi chẳng sanh ra nữa, cho nên gọi là thường.”
Bồ Tát Ca-diếp lại nói: “Như khối sắt kia đã mất màu đỏ, nếu đặt trở vào trong lửa thì màu đỏ lại sanh ra.
Như Lai cũng thế, lẽ ra lại sanh các mối
trói buộc. Nếu
trói buộc lại sanh ra, tức là
vô thường.”
Phật dạy: “Ca-diếp! Nay ông không nên nói
Như Lai là
vô thường. Tại sao vậy? Vì
Như Lai là thường.
“Thiện nam tử! Như người đốt cây, lửa tắt rồi thì có tro.
Phiền não dứt rồi, liền có Niết-bàn. Những ví dụ khác như cái áo rách nát, cái đầu bị chém, cái bình hư bể... cũng đều như vậy. Những vật ấy đều có tên gọi, như là cái áo rách nát, cái đầu bị chém, cái bình hư bể...
“Ca-diếp! Như sắt nguội rồi, có thể làm nóng lại.
Như Lai chẳng phải thế, dứt sạch
phiền não,
rốt ráo trở nên
trong sạch mát mẻ, lửa nóng
phiền não không thể sanh
trở lại.
“Ca-diếp! Nên biết rằng
vô lượng chúng sanh dường như sắt kia, ta dùng lửa nóng của
trí tuệ vô lậu mà đốt cháy những
phiền não trói buộc họ.”
Ca-diếp bạch rằng: “Lành thay,
lành thay! Nay con đã rõ chỗ
Như Lai thuyết dạy: ‘Chư Phật là thường tồn.’”
Phật dạy: “Ca-diếp!
Ví như vị
thánh vương, thường ngự nơi hậu cung, hoặc có khi ra sau vườn
ngoạn cảnh. Dù vua chẳng ở giữa các
cung nữ, nhưng không thể nói là
Thánh vương đã chết.
“Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế, dù nhập Niết-bàn, chẳng
hiện ra ở cõi Diêm-phù-đề, nhưng không thể nói là
vô thường.
“Như Lai đã ra khỏi
vô lượng phiền não, vào cảnh an vui Niết-bàn, dạo chơi
thanh thoát trong vườn hoa
trí tuệ giác ngộ.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Như Phật có nói: ‘Từ lâu ta đã
vượt qua biển cả
phiền não.’ Nếu như Phật đã
vượt qua biển
phiền não từ lâu, vậy
duyên cớ gì lại cùng bà Da-du-đà-la sanh ra La-hầu-la?
Cứ theo như việc này thì thấy rằng
Như Lai chưa
vượt qua biển cả
phiền não trói buộc. Vậy xin
Như Lai giảng rõ
nhân duyên này.”
Phật bảo Ca-diếp: “Ông chẳng nên nói rằng: ‘Như Lai từ lâu đã
vượt qua biển cả
phiền não, vậy
duyên cớ gì lại cùng bà Du-da-đà-la sanh ra La-hầu-la?
Cứ theo như việc này thì thấy rằng
Như Lai chưa
vượt qua biển cả
phiền não trói buộc.’
“Thiện nam tử! Kinh Đại Niết-bàn này có thể
kiến lập nghĩa lớn. Nay các ông nên
hết lòng lắng nghe, ta sẽ vì
mọi người mà thuyết rộng, chớ nên sanh tâm sợ sệt,
nghi ngờ.
“Như có vị
Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn, vị ấy có thể đem núi chúa Tu-di cao rộng như thế kia mà đưa vào trong vỏ hạt
đình lịch.[25] Trong khi đó, những
chúng sanh sống trong núi Tu-di ấy cũng chẳng có
cảm giác bị dồn ép và bị
mang đi, vẫn thấy như thường, không có chi lạ. Chỉ có người cần được
hóa độ[26] mới thấy vị
Bồ Tát ấy đem núi Tu-di đặt vào vỏ hạt
đình lịch, rồi đặt núi ấy
trở lại chỗ cũ một cách
yên ổn.
“Thiện nam tử! Lại như có vị
Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn, vị ấy có thể đem cõi
thế giới tam thiên đại thiên mà đặt vào trong vỏ hạt
đình lịch. Trong khi ấy,
chúng sanh ở toàn cõi
thế giới chẳng có
cảm tưởng là bị dồn ép và bị
mang đi lại, thảy đều như thường, không có chi lạ. Chỉ có người cần được
hóa độ mới thấy vị
Bồ Tát ấy đem cõi
thế giới tam thiên đại thiên mà đặt vào vỏ hạt
đình lịch, rồi đặt cõi ấy
trở lại chỗ cũ một cách
yên ổn.
“Thiện nam tử! Cũng giống như vậy, vị
Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn có thể đem cõi
thế giới tam thiên đại thiên mà để vào một chỗ chân lông, rồi lại đem cõi ấy đặt về chỗ cũ.
“Thiện nam tử! Lại có vị
Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn, bứt lấy nhiều cõi
thế giới tam thiên đại thiên của chư Phật ở
mười phương, đặt nơi đầu một cây kim, như xâu những lá táo lại, rồi ném những cõi ấy đến những
cõi Phật ở phương khác. Trong khi ấy, tất cả
chúng sanh ở những cõi ấy chẳng hay biết rằng mình bị
mang đi hay đang ở chỗ nào. Chỉ có người cần được
hóa độ mới thấy được việc ấy.
Cho đến khi
Bồ Tát đặt những cõi ấy
trở lại chỗ cũ một cách
yên ổn.
“Thiện nam tử! Lại có vị
Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn, bứt lấy các cõi
thế giới tam thiên đại thiên của chư Phật ở
mười phương, đặt nơi lòng bàn tay phải của mình, như cái bàn xoay của người thợ lò gốm, rồi ném những cõi ấy đến các cõi
thế giới nhiều như những
hạt bụi nhỏ ở các phương khác, mà chẳng có một
chúng sanh nào ở các cõi ấy có
cảm giác là bị
mang đi. Chỉ có người cần được
hóa độ mới thấy được việc ấy.
Cho đến khi
Bồ Tát đặt những cõi ấy
trở lại chỗ cũ một cách
yên ổn.
“Thiện nam tử! Lại có vị
Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn, bứt lấy tất cả những cõi
thế giới của
vô lượng chư Phật trong
mười phương, dồn nạp hết vào thân mình.
Chúng sanh trong các cõi ấy cũng chẳng có những
cảm giác như là bị dồn ép, bị
mang đi hay bị đặt ở chỗ nào. Chỉ có người cần được
hóa độ mới thấy được việc ấy.
Cho đến khi
Bồ Tát đặt những cõi ấy
trở lại chỗ cũ một cách
yên ổn.
“Thiện nam tử! Lại có vị
Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn, đem tất cả các cõi
thế giới trong
mười phương mà dồn nạp vào trong một
hạt bụi nhỏ. Các
chúng sanh ở trong các cõi ấy cũng chẳng có
cảm giác là bị dồn ép và bị
mang đi. Chỉ có người cần được
hóa độ mới thấy được việc ấy.
Cho đến khi
Bồ Tát đặt những cõi ấy
trở lại chỗ cũ một cách
yên ổn.
“Thiện nam tử! Vị
Đại Bồ Tát trụ ở Đại Niết-bàn như vậy, có thể
thị hiện vô số các loại thần thông biến hóa.
Vì vậy nên gọi là Đại Bát Niết-bàn.
Vô số các loại thần thông biến hóa mà vị
Đại Bồ Tát ấy có thể
thị hiện như vậy, tất cả
chúng sanh đều không
thể tính lường được.
“Nay ông làm sao có thể hiểu nổi chỗ
Như Lai gần gũi
ái dục, sanh ra La-hầu-la?
“Thiện nam tử! Từ lâu ta đã trụ ở Đại Niết-bàn này,
thị hiện đủ
các loại thần thông biến hóa. Ở
thế giới tam thiên đại thiên này, trăm ngàn
mặt trời mặt trăng, trăm ngàn cõi Diêm-phù-đề, đủ mọi cách
thị hiện, như trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm đã có giảng rộng.
“Ta ở trong cõi
thế giới tam thiên đại thiên, hoặc trong cõi Diêm-phù-đề
thị hiện nhập Niết-bàn, nhưng
rốt ráo chẳng chấp giữ Niết-bàn. Hoặc ta ở cõi Diêm-phù-đề
thị hiện vào thai mẹ, khiến
cha mẹ tưởng rằng ta là con. Nhưng thân này của ta
hoàn toàn chẳng do
ái dục hòa hiệp mà có thể sanh ra được.
Từ vô lượng kiếp
đến nay ta đã
lìa bỏ ái dục. Thân này của ta tức là
Pháp thân, vì
tùy thuận thế gian nên
thị hiện vào trong
bào thai.
“Thiện nam tử! Tại Diêm-phù-đề, trong vườn Lam-tì-ni, ta
thị hiện sanh ra bởi mẹ là bà Ma-da. Sanh ra rồi, ta liền đi bảy bước về phương đông, nói lên lời này: ‘Trong
cõi trời, người, a-tu-la, ta là bậc cao quý hơn hết.’
Cha mẹ,
mọi người,
chư thiên thấy vậy đều lấy làm
kinh dị và
vui mừng, cho là việc chưa từng có.
“Nhưng
ai nấy đều bảo rằng ta vẫn là một hài nhi. Tuy vậy, thân này của ta
từ vô lượng kiếp
đến nay đã lìa khỏi mọi cách
nuôi dưỡng thông thường. Thân
Như Lai tức là
Pháp thân, chẳng phải do máu thịt, gân, mạch, cốt tủy mà thành. Vì
tùy thuận theo pháp
thế gian của
chúng sanh nên
thị hiện làm một hài nhi.
“Ta đi bảy bước về phương nam,
thị hiện muốn làm chỗ
ruộng phước cao trổi nhất cho
vô lượng chúng sanh.
“Ta đi bảy bước về phương tây,
thị hiện không còn sanh ra nữa,
mãi mãi chấm dứt sự già, chết,
hiện thân cuối cùng.
“Ta đi bảy bước về phương bắc,
thị hiện đã vượt khỏi mọi
cảnh giới hiện hữu trong
sanh tử.
“Ta đi bảy bước về phương đông,
thị hiện làm bậc đi đầu
dẫn đường cho tất cả
chúng sanh.
“Ta đi bảy bước về
bốn phương phụ,[27]
thị hiện dứt sạch mọi
phiền não và bốn thứ ma, thành bậc
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri.
“Ta đi bảy bước về phương trên,
thị hiện chẳng bị
nhiễm ô bởi những vật
bất tịnh, dường như
hư không.
“Ta đi bảy bước về phương dưới,
thị hiện mưa pháp rưới tắt lửa
địa ngục, khiến các
chúng sanh ở đó được cái vui
yên ổn,
thị hiện [phá tan mọi
tà kiến như] mù sương và mưa đá [làm dập nát mọi thứ cây cỏ] đối với những kẻ phạm vào
giới cấm.
“Ở cõi Diêm-phù-đề, khi sanh ra được bảy ngày ta lại
thị hiện việc
cạo tóc.
Ai nấy đều gọi ta là một hài nhi. Lúc mới
cạo tóc, hết thảy hàng trời, người,
Ma vương Ba-tuần, sa-môn, bà-la-môn, không ai có thể thấy được tướng trên đỉnh đầu[28] của ta, huống chi là có việc cầm dao cạo tóc? Không một người nào có thể cầm dao chạm được đến đỉnh đầu ta cả. Vì trong
vô lượng kiếp ta vốn đã dứt trừ râu tóc, chỉ muốn
tùy thuận pháp
thế gian nên mới
thị hiện việc
cạo tóc đó thôi.
“Ta sanh ra rồi,
cha mẹ bèn đưa ta vào đền thờ
thiên thần để
ta ra mắt vị
Đại tự tại Thiên vương.[29] Vừa trông thấy ta,
Đại tự tại Thiên vương liền
chắp tay cung kính đứng sang một bên. Trong
vô lượng kiếp qua ta đã
lìa bỏ không vào những nơi thờ
thiên thần như thế, chẳng qua vì muốn
tùy thuận thế gian nên ta mới
thị hiện như vậy.
“Ở cõi Diêm-phù, ta
thị hiện việc xỏ lỗ tai. Thật ra, trong tất cả
chúng sanh không ai có thể xỏ lỗ tai ta được. Chẳng qua vì
tùy thuận chúng sanh ở
thế gian nên ta
thị hiện như vậy. Người ta lại dùng các
vật báu làm ra
hoa tai sư tử để làm đẹp hai lỗ tai của ta.
Tuy nhiên, trong
vô lượng kiếp qua ta đã
lìa bỏ những món trang sức như vậy. Chẳng qua vì muốn
tùy thuận thế gian nên ta mới
thị hiện như vậy.
“Ta
thị hiện vào học đường, học tập sách vở.
Tuy nhiên, trong
vô lượng kiếp ta đã
thành tựu đầy đủ, nhìn khắp
chúng sanh trong
Ba cõi không ai
đủ sức làm thầy ta, cho nên
danh hiệu của ta là
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri. Chẳng qua vì muốn
tùy thuận thế gian mà ta
thị hiện vào học đường. Ta học các phép cưỡi voi, phi ngựa, đấu sức và đủ các nghề khéo léo cũng chỉ là sự
thị hiện tùy thuận chúng sanh giống như vậy.
“Ở Diêm-phù-đề, ta
thị hiện làm
thái tử con vua.
Chúng sanh đều thấy ta làm
thái tử,
vui hưởng năm món
dục lạc.[30]
Tuy nhiên, trong
vô lượng kiếp ta đã
lìa bỏ sự
vui thích năm món
dục lạc ấy. Chẳng qua vì muốn
tùy thuận phép
thế gian, cho nên ta
thị hiện tướng trạng như vậy.
“Vị thầy
xem tướng cho ta đoán rằng: ‘Nếu chẳng
xuất gia, sẽ làm
Chuyển luân Thánh vương,
thống trị cõi Diêm-phù-đề.’ Tất cả
chúng sanh đều tin lời ấy.
Tuy nhiên, trong
vô lượng kiếp ta đã
lìa bỏ ngôi
Chuyển luân mà làm vị
Pháp luân vương.[31]
“Ở Diêm-phù-đề, ta
thị hiện lìa bỏ sự
vui hưởng năm món dục với các
cung nữ. Lại
thị hiện gặp người già, người bệnh và thầy sa-môn, rồi
xuất gia tu học đạo lý.
Chúng sanh đều nói rằng: ‘Thái tử Tất-đạt mới vừa
xuất gia.’
Tuy nhiên, ta vốn đã
xuất gia học đạo từ vô lượng kiếp. Chẳng qua
tùy thuận phép
thế gian nên
thị hiện như vậy.
“Ở Diêm-phù-đề, ta
thị hiện xuất gia,
thọ giới cụ túc,
tinh cần tu đạo,
đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán.
Chúng sanh đều bảo rằng ta
thành tựu quả A-la-hán thật rất dễ dàng.
Tuy nhiên, ta đã
thành tựu quả A-la-hán
từ vô lượng kiếp. Chẳng qua vì muốn
độ thoát các
chúng sanh, nên ta trải cỏ làm tòa ngồi ở
đạo tràng nơi cội cây bồ-đề mà
hàng phục chúng ma.
Mọi người đều bảo rằng ta mới vừa
hàng phục binh ma ở
đạo tràng nơi cội cây bồ-đề.
Tuy nhiên, ta đã
hàng phục chúng ma
từ vô lượng kiếp rồi. Chẳng qua vì muốn độ những
chúng sanh ngang bướng, cho nên ta
thị hiện cách
hóa độ ấy mà thôi.
“Ta lại
thị hiện các việc đại,
tiểu tiện,
thở ra,
thở vào...
Ai nấy đều bảo ta có đại,
tiểu tiện,
thở ra,
thở vào...
Tuy nhiên, chỗ
quả báo mà thân ta đây có được
thật không có những việc đại,
tiểu tiện,
thở ra,
thở vào ấy. Chẳng qua ta
tùy thuận thế gian nên
thị hiện như vậy.
“Ta lại
thị hiện nhận sự
bố thí của người có
lòng tin.
Tuy nhiên, thân ta vốn không có sự
đói khát. Chẳng qua
tùy thuận pháp
thế gian nên ta
thị hiện như vậy.
“Ta lại
thị hiện đồng như
chúng sanh, có sự ngủ nghỉ.
Tuy nhiên, trong
vô lượng kiếp rồi, ta đã có đầy đủ
trí tuệ sâu xa mầu nhiệm hơn hết, lìa xa
Ba cõi.
“Ta cũng
thị hiện những
oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi, nhức đầu, đau bụng, đau lưng, khảy đàn, rửa chân, rửa tay, rửa mặt, súc miệng, xỉa răng...
Mọi người đều bảo rằng ta có những việc ấy.
Tuy nhiên, thân này của ta vốn không có những việc ấy. Tay chân ta vốn sạch sẽ như
hoa sen, hơi miệng ta thơm tho như
hương hoa ưu-bát-la. Tất cả
chúng sanh đều bảo rằng ta là người, nhưng thật ra ta vốn chẳng thuộc về
loài người.
“Ta lại
thị hiện thọ nhận lấy y
phấn tảo[32] rồi giặt giũ, vá may.
Tuy nhiên, từ lâu ta vốn chẳng cần thứ áo như vậy.
“Mọi người đều nói rằng La-hầu-la là con ta, vua Tịnh-phạn là cha ta,
phu nhân Ma-da là mẹ ta. Ta ở
tại thế gian,
thọ hưởng các sự khoái lạc, rồi
lìa bỏ tất cả để
xuất gia học đạo.
Mọi người lại nói rằng: ‘Vị
thái tử họ Cồ-đàm ấy lìa xa mọi sự
vui sướng của
thế gian, tìm
cầu pháp xuất thế gian.’
Tuy nhiên, từ lâu ta đã lìa xa mọi
ái dục thế gian. Những việc như vậy chỉ là sự
thị hiện. Tất cả
chúng sanh đều bảo rằng ta là người, nhưng thật ra ta vốn chẳng thuộc về
loài người.
“Thiện nam tử! Tuy rằng ta ở tại cõi Diêm-phù-đề này đã biết bao lần
thị hiện nhập Niết-bàn, nhưng thật
rốt ráo chẳng nhập Niết-bàn.
Chúng sanh đều bảo rằng
Như Lai thật đã diệt mất, nhưng tánh
Như Lai thật
vĩnh viễn không diệt mất.
Vì vậy, nên biết rằng đó là
pháp thường trụ, pháp chẳng
biến đổi.
“Thiện nam tử! Đại Niết-bàn là cõi pháp của
chư Phật Như Lai. Ta lại
thị hiện ra đời trong cõi Diêm-phù-đề.
Chúng sanh đều bảo rằng ta mới
thành Phật.
Tuy nhiên,
từ vô lượng kiếp ta đã làm xong những
việc phải làm. Chẳng qua
tùy thuận thế gian nên ta lại
thị hiện ra đời rồi
thành Phật ở cõi Diêm-phù-đề.
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, chẳng
giữ giới cấm, phạm Bốn tội trọng.[33]
Mọi người đều thấy, bảo rằng ta thật có
phạm giới.
Tuy nhiên, trong
vô lượng kiếp rồi ta đã
giữ giới cấm một cách
kiên cố, chẳng hề có sự
thiếu sót lỗi lầm.
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, làm kẻ nhất-xiển-đề.[34]
Mọi người đều thấy rằng đó là kẻ nhất-xiển-đề.
Tuy nhiên, ta thật chẳng phải là kẻ nhất-xiển-đề. Nếu ta là kẻ nhất-xiển-đề, làm sao có thể
thành quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề?
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, phá hòa hiệp Tăng.
Chúng sanh đều bảo rằng ta là kẻ
phá Tăng. Thật ra, ta quán xét khắp
cõi trời người vốn chẳng ai có thể phá được
Chúng tăng hòa hiệp!
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề,
hộ trì Chánh pháp.
Ai nấy đều bảo rằng ta là người
hộ pháp, thảy đều lấy làm kinh quái. Nhưng pháp của chư Phật là như thế, chẳng nên lấy làm kinh quái.
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, làm ma Ba-tuần.
Ai nấy đều bảo rằng ta là Ba-tuần.
Tuy nhiên,
từ vô lượng kiếp tới nay, ta đã lìa khỏi những việc của ma,
thanh tịnh không
nhiễm ô, dường như
hoa sen.
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, làm thân nữ
thành Phật.
Mọi người đều nói: ‘Kỳ lạ thay! Người nữ mà có thể thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề!’ Thật ra,
Như Lai rốt cùng chẳng thọ thân nữ. Chẳng qua vì muốn
điều phục vô lượng chúng sanh nên
hiện ra hình tượng người nữ. Vì
thương xót tất cả
chúng sanh, cho nên ta cũng
thị hiện ra đủ mọi thứ
hình sắc,
cảnh tượng.
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, sanh vào bốn nẻo ác.[35]
Tuy nhiên, từ lâu ta đã dứt hết các nhân sanh vào đó.
Chúng sanh vì
nghiệp nhân mới sanh vào bốn nẻo ác, còn ta vì
cứu độ chúng sanh nên sanh vào đó.
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề làm
Phạm thiên vương, khiến những ai thờ
Phạm thiên đều được trụ yên nơi
Chánh pháp.
Tuy nhiên, ta thật chẳng phải
Phạm thiên.
Chúng sanh đều bảo rằng ta thật là
Phạm thiên. Cũng như thế, ta
thị hiện làm
hình tượng chư thiên ở khắp các miếu thờ
thiên thần.
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, vào nhà
dâm nữ.
Tuy nhiên, ta thật chẳng có
tư tưởng tham dục,
thanh tịnh chẳng
nhiễm ô, dường như
hoa sen. Ta vì những
chúng sanh tham dâm đắm sắc nên ở nơi ngã tư đường mà
tuyên thuyết pháp mầu.
Tuy nhiên, ta thật chẳng có lòng
dâm dục ô uế.
Mọi người đều nói rằng ta
che chở bảo vệ cho người nữ.
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, vào chốn lầu xanh để
giáo hóa các kỹ nữ, khiến họ trụ nơi
Chánh pháp.
Tuy nhiên, ta
thật không có các
nghiệp ác để phải đọa vào chốn ấy.
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, làm người
học rộng biết nhiều để dạy dỗ trẻ con, khiến cho trụ nơi
Chánh pháp.
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, vào những nơi quán rượu, những nơi cờ bạc,
thị hiện nhận lấy mọi cách
tranh đấu hơn thua, vì ta muốn cứu giúp những
chúng sanh ở đó. Thật ta không có các
nghiệp ác như vậy. Nhưng
chúng sanh đều thấy rằng ta có tạo các nghiệp như vậy.
“Ta lại
thị hiện ở lâu nơi vùng mồ mả, làm loài chim kên kên lớn để
hóa độ các loài chim.
Chúng sanh đều bảo rằng ta thật là thân kên kên.
Tuy nhiên, từ lâu ta đã lìa khỏi các nghiệp như thế, chỉ vì muốn độ những loài chim kia nên
thị hiện thân ấy.
“Ta lại
thị hiện trong cõi Diêm-phù-đề, làm vị đại
trưởng giả, vì ta muốn làm cho
vô lượng chúng sanh trụ yên nơi
Chánh pháp. Ta cũng
thị hiện làm vua,
quan đại thần, con vua, tể tướng. Ở trong mỗi hạng ấy, ta đều làm bậc cao trổi nhất. Vì tu
Chánh pháp ta mới ở
địa vị của vua.
“Ta lại
thị hiện [làm cho] trong cõi Diêm-phù-đề
phát khởi bệnh dịch lớn nhất trong kiếp. Nhiều
chúng sanh khổ não vì bệnh, trước ta cho họ thuốc men, sau mới thuyết
Chánh pháp vi diệu, khiến họ được trụ yên nơi đạo bồ-đề
vô thượng.
Mọi người đều bảo rằng đó bệnh tật trong kiếp tự
sanh khởi.
“Ta lại
thị hiện [làm cho] trong cõi Diêm-phù-đề có nạn đói lớn nhất trong kiếp. Rồi tùy chỗ
chúng sanh cần đến, ta
cung cấp đủ món ăn
thức uống cho họ, sau mới thuyết
Chánh pháp vi diệu, khiến họ trụ yên nơi đạo bồ-đề
vô thượng.
“Ta lại
thị hiện [làm cho] trong cõi Diêm-phù-đề có nạn đao binh lớn nhất trong kiếp. Ta vì
chúng sanh mà
thuyết pháp, khiến họ lìa khỏi sự oán hại, được trụ yên nơi đạo bồ-đề
vô thượng.
“Ta lại
thị hiện vì những kẻ chấp thường mà
giảng thuyết phép
quán tưởng vô thường; vì những kẻ chấp lấy sự vui mà
giảng thuyết phép
quán tưởng lẽ khổ; vì những kẻ
chấp ngã mà
giảng thuyết phép
quán vô ngã; vì những kẻ chấp lấy sự
trong sạch mà
giảng thuyết về sự
bất tịnh.
“Như có những
chúng sanh tham đắm
Ba cõi, ta liền
thuyết pháp khiến cho họ lìa khỏi
Ba cõi. Vì độ
chúng sanh, ta mới dùng đến món thuốc là pháp
vi diệu cao trổi nhất. Vì trừ tuyệt tất cả những cây
phiền não, ta mới trồng cây thuốc pháp cao trổi nhất. Vì muốn cứu vớt những kẻ
ngoại đạo, ta mới
diễn thuyết Chánh pháp. Tuy ta
thị hiện làm thầy của
chúng sanh, nhưng chẳng hề có
tư tưởng là thầy của
chúng sanh. Vì muốn cứu vớt những kẻ hạ tiện, ta mới
thị hiện vào trong
cảnh ngộ của họ mà
thuyết pháp, chứ không phải vì
nghiệp ác mà phải chịu thân hạ tiện.
“Như Lai
Chánh giác trụ yên nơi Đại Bát Niết-bàn như vậy đó. Cho nên gọi là
thường trụ, chẳng
biến đổi. Như cõi Diêm-phù-đề, cõi Phất-vu-đãi phương đông, cõi Cồ-da-ni phương tây, cõi Uất-đan-việt phương bắc đều cũng như vậy.[36] Như
bốn cõi thiên hạ, cõi
thế giới tam thiên đại thiên lại cũng như vậy.
Cho đến khắp
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu[37] như trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm đã có giảng rộng.
Vì vậy nên gọi là Đại Bát Niết-bàn. Như có vị
Bồ Tát nào trụ yên nơi Đại Bát Niết-bàn ấy, có thể
thị hiện biến hóa thần thông như
vậy mà không có sự sợ sệt chi cả.
“Ca-diếp! Vì
nhân duyên như thế, ông chớ nên nói rằng: ‘La-hầu-la là con của Phật.’ Vì sao vậy?
Từ vô lượng kiếp
đến nay ta đã
lìa bỏ lòng dục.
Vì vậy nên
Như Lai gọi là
thường trụ, không có
biến đổi.”
Ca-diếp lại
bạch Phật rằng: “Sao gọi
Như Lai là thường trụ? Như Phật có dạy: ‘Như
ngọn đèn tắt rồi, chẳng đi về đâu cả;
Như Lai cũng thế, khi
diệt độ rồi cũng chẳng đi về đâu.’”
Phật bảo Ca-diếp: “Thiện nam tử! Nay ông không nên nói rằng: ‘Như
ngọn đèn tắt rồi, chẳng đi về đâu cả;
Như Lai cũng thế, khi
diệt độ rồi cũng chẳng đi về đâu.’
“Thiện nam tử!
Ví như người đốt đèn, châm dầu đầy vào đèn. Khi dầu còn thì đèn còn sáng, dầu hết thì đèn cũng hết sáng. Ánh sáng không còn là
ví như phiền não đã dứt.
Mặc dầu ánh sáng không còn nhưng cái đèn vẫn còn đó.
Như Lai cũng vậy,
phiền não tuy đã dứt, nhưng
pháp thân thường còn.
“Thiện nam tử! Ông nghĩ sao, ánh sáng với cái đèn có phải cả hai đều cùng mất đi chăng?”
Ca-diếp thưa: “Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Nhưng tuy cả hai không cùng mất đi, vẫn là
vô thường. Nếu đem
pháp thân mà
ví như cái đèn, thì cái đèn là
vô thường,
pháp thân cũng vậy, hẳn là
vô thường.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nay ông chẳng nên
cật vấn như thế. Như
thế gian nói đến các món chứa đựng, thì
Như Lai Thế Tôn là món chứa đựng pháp
vô thượng. Món đồ chứa đựng của
thế gian là
vô thường chứ
Như Lai chẳng phải là
vô thường. Trong tất cả các pháp, Niết-bàn là thường.
Như Lai là thể của Niết-bàn, cho nên gọi là thường.
“Lại nữa,
Thiện nam tử! Nói là đèn tắt, đó là chỗ chứng Niết-bàn của A-la-hán. Bởi dứt các
phiền não tham ái, cho nên
so sánh với đèn tắt vì hết dầu. Quả A-na-hàm gọi là còn có tham. Bởi còn có tham nên không được
so sánh với cây đèn tắt. Vậy nên trước kia ta lấy nghĩa này mà ví dụ như cây đèn tắt,
thật không phải Đại Niết-bàn là như cây đèn tắt.
“A-na-hàm nghĩa là không còn phải sanh lại chốn
nhân gian nhiều lần nữa, cũng chẳng
trở lại trong
Hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu,
mãi mãi chẳng còn thọ lấy cái thân hôi hám, cái thân [là nơi
tụ họp của các loài] trùng, cái thân nuôi sống bằng
ăn uống, cái
thân độc hại. Như vậy gọi là A-na-hàm.
“Như còn phải thọ thân sau thì gọi là Na-hàm; chẳng còn phải thọ thân sau thì gọi là A-na-hàm. Còn đến đi ở chốn này gọi là Na-hàm; chẳng còn đến đi nữa gọi là A-na-hàm.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN BỐN
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN NĂM
PHẨM TÁNH
NHƯ LAIPhẩm thứ tư – Phần hai[38]
Lúc ấy,
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật có dạy rằng: Chư
Phật Thế Tôn có tạng
bí mật. Nghĩa ấy chẳng đúng. Tại sao vậy? Chư
Phật Thế Tôn chỉ có
mật ngữ mà thôi, chứ chẳng có
mật tạng.[39]
Ví như một hình nhân điều khiển bằng máy móc, tuy người ta thấy được hình nhân ấy co lại, duỗi ra, cúi xuống, ngẩng lên, nhưng chẳng ai biết được bên trong có những gì làm ra như vậy.
Phật pháp không phải như thế, hết thảy
chúng sanh đều được thấy biết. Như vậy, sao lại nói rằng chư
Phật Thế Tôn có tạng bí mật?”
Phật khen
Bồ Tát Ca-diếp rằng: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Đúng như lời ông nói,
Như Lai thật chẳng có tạng
bí mật. Tại sao vậy?
Ví như vầng trăng thu tròn, hiện rõ giữa không trung,
trong trẻo không bị
che lấp,
ai nấy đều trông thấy. Lời dạy của
đức Như Lai cũng vậy,
hiển nhiên rõ rệt,
trong sáng không
che lấp. Kẻ ngu chẳng hiểu cho rằng đó là
bí mật, che giấu. Người
trí thông suốt chẳng gọi là che giấu.
“Thiện nam tử!
Ví như có người kia, chứa trữ nhiều
vàng bạc, nhiều đến
vô số. Người ấy có lòng keo lận, chẳng chịu
bố thí và giúp đỡ kẻ bần cùng.
Của cải tích tụ như vậy mới gọi là
bí mật, che giấu.
Như Lai chẳng phải như thế, trong
vô số kiếp đã
tích tụ vô số trân bảo là
diệu pháp, nhưng lòng không hề keo lận, thường
bố thí cho tất cả
chúng sanh. Sao có thể gọi là tạng
bí mật của Như Lai?
“Thiện nam tử!
Ví như có người kia,
thân thể và các
giác quan chẳng đầy đủ, hoặc thiếu một mắt, một tay, một chân... Vì
xấu hổ, người ấy không để cho người khác thấy được chỗ
thiếu sót của mình. Vì không để người khác thấy nên gọi là che giấu.
Như Lai chẳng phải như thế,
Chánh pháp của ngài vốn đầy đủ không
thiếu sót, đều khiến cho
mọi người thấy được. Sao có thể gọi là tạng
bí mật của Như Lai?
“Thiện nam tử!
Ví như kẻ nghèo kia,
thiếu nợ người ta rất nhiều. Người ấy sợ chủ nợ, trốn lánh chẳng muốn
lộ hình, cho nên gọi là che giấu.
Như Lai chẳng phải như thế, chẳng hề
thiếu nợ pháp
thế gian của hết thảy
chúng sanh. Dù có nợ pháp
xuất thế của
chúng sanh, nhưng không hề giấu giếm. Tại sao vậy? Đối với
chúng sanh, ngài thường thương tưởng
bình đẳng như con một của ngài, nên vì
chúng sanh mà
giảng thuyết pháp
vô thượng.
“Thiện nam tử!
Ví như một
trưởng giả, có nhiều
của cải và
trân bảo nhưng chỉ có một đứa con. Ông ta rất thương con, chẳng muốn xa rời, bao nhiêu
trân bảo đều chỉ cho con biết hết.
Như Lai cũng như thế, xem
chúng sanh đồng như con một của ngài, [nên không có sự che giấu].
“Thiện nam tử!
Ví như người đời cho rằng
nam căn và
nữ căn[40] là đáng
xấu hổ, là
thô tục, dùng
y phục mà phủ kín nên gọi là che giấu.
Như Lai chẳng phải như thế, đã dứt hẳn những căn ấy. Vì không có những căn ấy nên không có gì phải che giấu.
“Thiện nam tử!
Ví như hàng bà-la-môn, trong khi nói năng,
đàm luận, chẳng hề muốn cho hàng sát-lỵ, tỳ-xá, thủ-đà được nghe. Vì sao vậy? Vì trong việc
đàm luận của họ có chỗ
tội lỗi,
xấu xa.
Chánh pháp của
Như Lai chẳng phải như vậy, từ đầu đến cuối chỉ toàn là những điều lành.
Vì vậy nên không thể gọi là tạng
bí mật.
“Thiện nam tử!
Ví như người
trưởng giả chỉ có một đứa con, lòng thường nghĩ nhớ đến và rất
thương yêu, ông mang con đến trường, nhờ thầy dạy học. Rồi ông sợ con chậm thành tài, liền mang
trở về nhà. Vì lòng thương con, ngày đêm ông
ân cần dạy cho những điều
sơ học,[41] nhưng chẳng dạy cho học luận Tỳ-già-la.[42] Tại sao vậy? Vì nó còn non nớt, chưa
đủ sức học luận ấy.
“Thiện nam tử! Như khi vị
trưởng giả dạy con những điều
sơ học rồi, đứa con ấy liền có thể hiểu rành luận Tỳ-già-la hay chăng?”
Bồ Tát Ca-diếp thưa: “Bạch
Thế Tôn, không hiểu!”
Phật hỏi: “Như vậy, vị
trưởng giả ấy có chỗ che giấu với con chăng?”
Bồ Tát Ca-diếp đáp: “Bạch
Thế Tôn, không có! Vì sao vậy? Vì đứa con còn nhỏ tuổi, cho nên ông ấy không thuyết dạy, chứ không phải vì muốn che giấu, tiếc giữ mà chẳng dạy. Như có lòng
ganh ghét, keo lận, mới gọi là che giấu.
Như Lai không phải như thế, sao có thể gọi là tạng
bí mật của Như Lai?”
Phật dạy: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử, đúng như lời ông nói, nếu có lòng giận hờn,
ganh ghét, keo lận mới gọi là giấu giếm.
Như Lai không có lòng giận hờn,
ganh ghét, sao có thể gọi là che giấu?
“Thiện nam tử! Vị
trưởng giả ấy ví với
Như Lai. Đứa con một ấy
ví như tất cả
chúng sanh.
Như Lai xem tất cả
chúng sanh đồng như con một của ngài. Dạy dỗ đứa con một ấy, tức là
Như Lai khuyên dạy hàng
đệ tử Thanh văn. Những điều
sơ học ví như chín bộ kinh điển. Tỳ-già-la luận
ví như kinh điển Phương đẳng Đại thừa. Vì hàng
Thanh văn chưa đủ
trí tuệ nên
Như Lai chỉ dạy những điều
sơ học, tức là
chín bộ kinh điển, nhưng không thuyết dạy luận Tỳ-già-la, là những
kinh phương đẳng Đại thừa.
“Thiện nam tử! Như vị
trưởng giả ấy, đến khi người con đã lớn khôn
đủ sức đọc hiểu, nếu chẳng thuyết dạy luận Tỳ-già-la mới gọi là che giấu. Cũng vậy, nếu hàng
Thanh văn đủ sức nhận lãnh
kinh điển Đại thừa mà
Như Lai tiếc giấu chẳng thuyết dạy, như vậy mới có thể nói rằng
Như Lai có tạng
bí mật.
“Như Lai chẳng phải vậy, cho nên chẳng có tạng
bí mật. Như
Trưởng giả ấy đã dạy cho con những điều
sơ học rồi, kế đó mới vì con mà
giảng giải luận Tỳ-già-la. Nay ta
cũng thế, ta dạy cho các
đệ tử những điều
sơ học rồi, tức là
chín bộ kinh điển, kế đó mới vì các
đệ tử mà
diễn thuyết luận Tỳ-già-la, tức là nghĩa
Như Lai thường tồn, không
biến đổi.
“Lại nữa,
Thiện nam tử!
Ví như trong những tháng
mùa hạ, trời kéo mây đen và
sấm sét, rồi đổ mưa lớn xuống, khiến người làm ruộng gieo giống gặt hái được nhiều. Như người không gieo giống thì chẳng có chi để gặt hái. Họ chẳng có chi để gặt hái, đó không phải lỗi ở
thời tiết, mà
thời tiết như vậy không có chi gọi là che giấu. Nay
Như Lai cũng vậy, đổ cơn mưa pháp lớn là kinh Đại Niết-bàn. Những
chúng sanh nào gieo giống lành sẽ được mầm
trí tuệ, quả
trí tuệ. Những ai không gieo giống lành, ắt chẳng thu hoạch được chi cả! Họ chẳng thâu hoạch được chi cả, đó không phải lỗi của
Như Lai. Như vậy,
Như Lai thật không có chi gọi là che giấu.”
Bồ Tát Ca-diếp lại bạch: “Nay con biết chắc rằng
Như Lai Thế Tôn chẳng có chi là
bí mật, che giấu. Nhưng như Phật vừa dạy, luận Tỳ-già-la đó là ví với nghĩa
Phật Như Lai thường tồn, không
biến đổi, thì nghĩa ấy không đúng! Vì sao vậy? Vì trước kia Phật có thuyết kệ rằng:
Chư Phật và
Duyên giác,
Với hết thảy
đệ tử,
Còn bỏ thân
vô thường,
Huống chi kẻ phàm phu?
“Nay Phật lại dạy là thường tồn, không
biến đổi, nghĩa ấy là thế nào?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ta vì tất cả
đệ tử Thanh văn mà dạy những điều
sơ học, nên mới thuyết kệ ấy.
“Thiện nam tử! Khi mẹ vua Ba-tư-nặc
mạng chung, vua khóc kể luyến mến, không tự
kiềm chế được, tìm đến chỗ ta. Ta hỏi vua rằng: ‘Đại vương! Tại sao lại buồn khổ
áo não đến thế?’
“Vua đáp: ‘Thế Tôn! Hôm nay mẹ tôi vừa mất. Giá như có ai làm cho mẹ tôi
sống lại được, tôi sẽ đem cả đất nước này, cùng với voi, ngựa,
bảy món báu và cả
thân mạng tôi mà đền đáp.’
“Ta liền bảo vua rằng: ‘Đại vương! Chớ nên
sầu não, buồn đau khóc kể. Tất cả
chúng sanh, khi
thọ mạng đã hết thì gọi là chết. Chư Phật,
Duyên giác và hàng
đệ tử Thanh văn còn bỏ thân này, huống chi kẻ phàm phu?’
“Thiện nam tử! Vì ta dạy những điều
sơ học cho vua Ba-tư-nặc nên mới thuyết
bài kệ ấy. Nay ta lại vì hàng
đệ tử Thanh văn mà thuyết dạy [
nghĩa chân thật như] luận Tỳ-già-la, tức là nghĩa
Như Lai thường còn, không
biến đổi. Nếu ai nói rằng
Như Lai là
vô thường, làm sao người ấy lại chẳng bị thụt lưỡi?”[43]
Ca-diếp lại thưa: “Như Phật có thuyết kệ rằng :
Không chứa giữ chi cả,
Biết đủ trong
ăn uống,
Như chim giữa không trung,
Dấu chân chẳng thể tìm.
“Nghĩa ấy là thế nào? Bạch Thế Tôn! Ở trong chúng này, ai có thể gọi là người không chứa giữ chi cả? Ai có thể gọi là người biết đủ trong việc ăn uống? Ai có thể đi giữa không trung chẳng để lại dấu vết? Và đi như thế sẽ đến nơi nào?”
Phật dạy: “Ca-diếp! Nói chứa giữ đó, là nói vật quí báu.
Thiện nam tử! Có hai loại chứa giữ: một là
hữu vi, hai là
vô vi. Chứa giữ
hữu vi, tức là hạnh
Thanh văn. Chứa giữ
vô vi, tức là hạnh
Như Lai.
“Thiện nam tử! Tăng cũng có hai hạng:
hữu vi và
vô vi.
Tăng hữu vi tức là hàng
Thanh văn. Tăng
Thanh văn không chứa giữ nô tỳ, những vật
phi pháp, kho lẫm, lúa thóc, muối, tương, mè, đậu... Nếu ai nói rằng
Như Lai cho phép hàng
Thanh văn nuôi chứa tôi trai, tớ gái, những kẻ hầu hạ, những vật như vậy, người ấy ắt phải bị thụt lưỡi.[44] Những
đệ tử Thanh văn của ta đều là người không chứa giữ chi cả, và cũng là người biết đủ trong việc
ăn uống. Nếu ai tham ăn thì gọi là chẳng biết đủ. Ai không tham ăn mới được gọi là biết đủ. Người mà khó
tìm thấy dấu chân, ắt là đã
đến gần đạo Bồ-đề
Vô thượng. Ta nói rằng người ấy dù có đi mà chẳng có đến.”
Ca-diếp lại thưa rằng: “Như hạng
tăng hữu vi còn chẳng có chứa giữ, huống chi là hạng tăng vô vi? Tăng
vô vi tức là
Như Lai. Làm sao
Như Lai lại có chỗ chứa giữ? Nếu là chứa giữ, gọi là che giấu. Cho nên sự
thuyết giảng của
Như Lai không hề có sự keo lận, sao lại gọi là che giấu?
Dấu chân không thể
tìm thấy, đó là Niết-bàn. Ở trong Niết-bàn chẳng có
mặt trời,
mặt trăng, các
tinh tú, nóng, lạnh, gió, mưa, sanh, già, bệnh, chết,
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu, lìa các ưu khổ và
phiền não. Niết-bàn như vậy, chỗ trụ của
Như Lai là thường tồn, chẳng
biến đổi. Vì
nhân duyên ấy,
đức Như Lai đến nơi rừng cây sa-la,
do nơi Đại Niết-bàn mà nhập Niết-bàn.”
Phật bảo Ca-diếp: “Dùng chữ đại đó là nói tánh rộng khắp.
Ví như có người sống lâu
vô cùng, gọi là
đại trượng phu. Nếu người ấy trụ yên nơi
Chánh pháp thì gọi là Bậc hơn hết trong
nhân loại. Như ta có thuyết về
tám điều giác ngộ của bậc
đại nhân,[45] một người có đủ, hoặc nhiều người có đủ. Nếu một người có đủ tám điều ấy là cao trổi hơn hết.
“Nói là Niết-bàn, nghĩa là không có những
đau đớn,
thương tổn.
Thiện nam tử!
Ví như một người kia bị trúng tên độc, chịu nhiều
đau đớn khổ sở. May gặp vị
lương y lấy mũi tên độc ra, cho dùng vị thuốc hay, giúp người ấy dứt khổ, được sự an vui. Sau đó, vị
lương y ấy lại đi đến các thành ấp, xóm làng. Nơi nào có người bị
đau đớn,
thương tổn, ông liền đến đó để
điều trị cho
mọi người dứt sự
đau đớn khổ sở.
“Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế, ngài thành bậc
Đẳng chánh giác, làm vị
Đại y vương, thấy
chúng sanh khổ não ở Diêm-phù-đề, trong
vô lượng kiếp bị trúng tên độc là
phiền não, tham dâm,
sân hận,
si mê; chịu sự
khổ não cấp thiết. Ngài vì những
chúng sanh ấy,
diễn thuyết kinh Đại thừa là vị thuốc pháp
cam lộ. Trị bệnh xong rồi, ngài lại đi đến phương khác. Nơi nào có
chúng sanh bị tên độc
phiền não, ngài liền
thị hiện làm Phật để liệu trị cho họ.
Vì vậy nên gọi là Đại Bát Niết-bàn.
“Đại Bát Niết-bàn gọi là chỗ
giải thoát. Nơi nào có
chúng sanh cần
điều phục,
Như Lai liền thị hịên ở đó. Vì
nghĩa chân thật rất
sâu xa như vậy, nên gọi là Đại Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Một vị thầy thuốc
thế gian có thể trị lành hết thảy những
đau đớn,
thương tổn của
chúng sanh hay chăng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Đau đớn,
thương tổn ở
thế gian có hai loại: một là có thể trị, hai là không thể trị. Với loại có thể trị thì thầy thuốc có thể trị lành, với loại không thể trị thì thầy thuốc không thể trị lành.”
Ca-diếp lại thưa hỏi: “Như Phật nói rằng:
Như Lai đã trị dứt bệnh cho
chúng sanh ở cõi Diêm-phù-đề. Nếu nói đã trị dứt, sao trong
chúng sanh ấy vẫn còn những kẻ chưa được Niết-bàn? Nếu họ chưa được Niết-bàn, sao
Như Lai nói rằng ngài đã trị dứt bệnh của họ nên muốn đến phương khác?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Trong cõi Diêm-phù-đề có hai hạng
chúng sanh: một là hạng có
đức tin, hai là hạng không có
đức tin. Hạng có
đức tin là có thể trị. Vì sao vậy? Vì những người ấy
chắc chắn sẽ được Niết-bàn, không còn
đau đớn,
thương tổn. Cho nên ta nói là đã trị dứt cho
chúng sanh ở cõi Diêm-phù-đề. Còn hạng người không có
đức tin, gọi là nhất-xiển-đề. Như kẻ nhất-xiển-đề là không thể trị. Trừ hạng nhất-xiển-đề, còn
ngoài ra ta đã trị dứt bệnh cho hết thảy
chúng sanh.
Vì vậy, Niết-bàn gọi là không có
đau đớn,
thương tổn.”
Bồ Tát Ca-diếp lại hỏi: “Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là Niết-bàn?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Giải thoát gọi là Niết-bàn.”
Ca-diếp lại thưa hỏi: “Giải thoát mà Phật nói đó là
hình sắc hay không thuộc về hình sắc?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! [
Giải thoát] cũng là
hình sắc, cũng không phải
hình sắc. Không phải
hình sắc là
giải thoát của hàng
Thanh văn,
Duyên giác; có
hình sắc là
giải thoát của
chư Phật Như Lai.
“Thiện nam tử!
Vì vậy cho nên
giải thoát cũng là
hình sắc, mà cũng không phải
hình sắc.
Như Lai vì hàng
đệ tử Thanh văn mà dạy là không phải
hình sắc.”
“Bạch Thế Tôn! Hàng
Thanh văn,
Duyên giác,
nếu không phải
hình sắc thì làm sao có thể trụ?”
“Thiện nam tử! Như cảnh
trời Phi tưởng phi
phi tưởng là sắc mà cũng không phải sắc, nhưng ta nói là không phải sắc. Như có người
vặn hỏi rằng: ‘Nếu cảnh
trời Phi tưởng phi
phi tưởng không phải sắc, vậy
chư thiên ở cảnh ấy làm sao đứng vững, làm sao đi lại, tới lui?’
Ý nghĩa như vậy là thuộc
cảnh giới của chư Phật, không phải hàng
Thanh văn,
Duyên giác có thể biết được.
“Giải thoát cũng như thế, là sắc mà cũng không phải sắc, nhưng ta nói là không phải sắc; là tưởng mà cũng không phải tưởng, nhưng ta nói là không phải tưởng.
Ý nghĩa như vậy là thuộc
cảnh giới của chư Phật, chẳng phải hàng
Thanh văn,
Duyên giác có thể biết được.”
Lúc ấy,
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Xin
thương xót mà giảng rộng
một lần nữa về
ý nghĩa giải thoát của hạnh Đại Bát Niết-bàn.”
Phật
ngợi khen Bồ Tát Ca-diếp: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử!
Giải thoát chân thật là lìa xa hết thảy mọi sự
trói buộc. Lìa hết thảy
trói buộc, tức là không có sanh ra, cũng không có sự
hòa hợp.
Ví như cha mẹ có sự
hòa hợp mới sanh ra con.
Giải thoát chân thật không phải như vậy, cho nên
giải thoát gọi là không sanh ra.
“Ca-diếp!
Ví như đề-hồ tự có
bản tính thanh tịnh.
Như Lai cũng thế, không do
cha mẹ hòa hợp sanh ra nên
bản tính thanh tịnh.
Sở dĩ thị hiện có
cha mẹ là vì muốn
hóa độ chúng sanh.
Giải thoát chân thật chính là
Như Lai.
Như Lai và
giải thoát chẳng phải là hai, chẳng phải là khác.
“Ví như trong
mùa xuân gieo
các loại giống, nhờ khí trời ấm áp mà
dần dần mọc lên.
Giải thoát chân thật chẳng phải như vậy!
“Lại nữa,
giải thoát gọi là rỗng không; rỗng không tức là
giải thoát.
Giải thoát tức là
Như Lai;
Như Lai là rỗng không, vốn không tạo tác, không có chỗ được tạo tác. Nếu là tạo tác thì cũng giống như những cảnh thành quách, lầu đài...
Giải thoát chân thật chẳng phải như vậy, cho nên
giải thoát tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát tức là
pháp vô vi.
Ví như người thợ lò gốm làm ra các món đồ, [về sau ắt] phải vỡ nát, hư hoại.
Giải thoát không phải như thế.
Giải thoát chân thật là không sanh, không diệt. Cho nên
giải thoát tức là
Như Lai.
Như Lai cũng vậy, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng già, chẳng chết, chẳng bị
phá hoại, chẳng phải
pháp hữu vi. Vì nghĩa ấy cho nên nói là
Như Lai nhập Đại Niết-bàn.
“Chẳng già, chẳng chết có những
ý nghĩa gì? Già tức là thay đổi,
tóc bạc, da nhăn... Chết tức là
thân thể hư hoại, mạng sống
chấm dứt.
Giải thoát không có những việc như vậy. Vì không có những việc ấy nên mới gọi là
giải thoát.
Như Lai cũng không có
tóc bạc, da nhăn, không có những
pháp hữu vi, cho nên
Như Lai không có già; vì không có già nên không có chết.
“Lại nữa,
giải thoát là không có bệnh. Nói về bệnh, có bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh[46] cùng
mọi việc từ ngoài
xâm nhập làm
tổn hại thân thể. Đại Niết-bàn không có như vậy nên gọi là
giải thoát. Không có tật bệnh, tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai. Vì
Như Lai không bệnh, cho nên
pháp thân cũng không bệnh. Không bệnh như vậy tức là
Như Lai.
“Chết tức là
thân thể hư hoại, mạng sống dứt. Đại Niết-bàn không có sự chết, tức là thuốc
cam lộ trường sanh.
Cam lộ ấy là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Như Lai
thành tựu công đức như vậy, sao có thể nói
Như Lai là vô thường? Nếu nói là
vô thường,
thật không có lý!
Thân kim cang này sao lại là vô thường? Vậy nên
Như Lai không thể nói là
mạng chung.
Như Lai là
thanh tịnh, không có nhơ nhớp. Thân của
Như Lai chẳng bị thai bào làm cho nhơ nhớp, như hoa [sen trắng] phân-đà-lỵ vốn tánh
thanh tịnh.
Như Lai,
giải thoát lại cũng như vậy.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai. Cho nên
Như Lai vốn là
thanh tịnh, không có sự nhơ nhớp.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không còn các
lậu hoặc, những sự
đau đớn,
thương tổn đều dứt sạch chẳng còn dấu vết.
Như Lai cũng thế, không có tất cả các
lậu hoặc,
đau đớn,
thương tổn.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không có
tranh giành.
Ví như người đói, thấy kẻ khác
ăn uống thì có
ý muốn giành giật lấy;
giải thoát chẳng phải như thế!
“Lại nữa,
giải thoát gọi là yên tĩnh. Kẻ
phàm phu nói rằng: ‘Yên
tĩnh tức là cảnh trời
Đại tự tại thiên.’ Nói như vậy tức là
sai trái,
không thật. Sự yên tĩnh
chân thật là
giải thoát rốt ráo.
Giải thoát rốt ráo, tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
an ổn. Như trong vùng có nhiều giặc cướp không thể gọi là
an ổn. Chốn
thanh bình,
vui vẻ mới gọi là
an ổn. Trong
sự giải thoát không có sợ sệt nên gọi là
an ổn. Cho nên
an ổn tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
Như Lai tức là Pháp vậy.[47]
“Lại nữa,
giải thoát nghĩa là không có kẻ
ngang hàng. Có kẻ
ngang hàng là
ví như một vị vua có những vua
ngang hàng ở những nước láng giềng.
Giải thoát thì không phải như thế. Không có kẻ
ngang hàng,
ví như vị
Chuyển luân thánh vương không ai có thể
sánh bằng.
Giải thoát cũng vậy, không có
ngang hàng. Không có
ngang hàng tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai Chuyển pháp luân vương. Cho nên
Như Lai là không ai
sánh bằng. Nếu nói có người
sánh bằng Như Lai thì thật là
vô lý.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không lo buồn. Sự lo buồn đó,
ví như một vị
quốc vương vì sợ nạn xâm lăng của những nước mạnh ở gần bèn sanh ra lo buồn.
Giải thoát thì không có như vậy.
Ví như những kẻ oán thù bị phá tan rồi thì không còn
lo nghĩ.
Giải thoát cũng thế, chẳng có lo sợ; không lo sợ tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không buồn vui.
Ví như bà mẹ chỉ có một đứa con phải tòng quân chiến đấu nơi xa. Bỗng có tin dữ về, bà
nghe được lấy làm buồn khổ. Sau đó, lại nghe rằng con bà vẫn còn sống, bà lấy làm
vui mừng.
Giải thoát thì không có những việc như thế. Không buồn,
không vui, tức là
giải thoát chân thật;
giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không có bụi nhơ.
Ví như vào
mùa xuân, sau khi
mặt trời lặn thì gió thổi tung bụi mù mịt. Trong
giải thoát không có việc như vậy. Không có bụi mù là ví với
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Ví như hạt
minh châu trong búi tóc của vị
thánh vương, không có bợn nhơ. Tánh của
giải thoát cũng như vậy, không có bợn nhơ. Không có bợn nhơ là
ví như giải thoát chân thật;
giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Ví như tánh chất của vàng thật là không thể hòa chung với cát đá, nên mới thật là vật quý. Người có được vàng liền nghĩ rằng mình có được
của quý. Tánh của
giải thoát cũng vậy, như vàng thật quý ấy. Vàng quý là
ví như giải thoát chân thật;
giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Ví như bình sành, khi vỡ phát ra tiếng kêu loảng xoảng. Bình
kim cang thì không như thế.
Giải thoát thì không có bể vỡ. Bình quý
kim cang là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai. Vì thế nên thân
Như Lai chẳng thể hư hoại.
“Phát ra tiếng kêu loảng xoảng, ấy cũng như hạt tỳ-ma
đang khi trời nóng mà để
ngoài nắng thì phát ra tiếng nổ.
Giải thoát không có những chuyện như vậy. Như bình
kim cang quý báu kia chẳng thể bể vỡ mà phát ra tiếng kêu loảng xoảng. Dẫu cho có
vô số trăm ngàn người cùng đập phá cũng không thể làm cho bể vỡ được. Không phát ra tiếng kêu vỡ loảng xoảng là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Như người bần cùng,
thiếu nợ những kẻ khác cho nên bị họ buộc trói,
gông cùm, đánh đập, chịu nhiều
khổ não.
Giải thoát thì không có chuyện như vậy. Không có
nợ nần,
ví như vị
trưởng giả có nhiều
của báu, số nhiều
vô lượng,
thế lực tự tại, không hề
thiếu nợ người khác.
Giải thoát cũng như thế, có
vô lượng của báu là pháp,
thế lực tự tại, không
thiếu nợ ai cả. Không
thiếu nợ ai là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không bị bức thiết. Như
mùa xuân gặp nóng,
mùa hạ ăn món ngọt,[48]
mùa đông chịu lạnh. Trong
giải thoát chân thật không có những việc trái ý như vậy. Không bị bức thiết là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa, không bị bức thiết đó,
ví như có người ăn cá đến no bụng rồi lại uống sữa vào, ắt không bao lâu sẽ chết. Trong
giải thoát chân thật không có việc như thế. Như người ấy được món thuốc
cam lộ thần diệu mới có thể thoát cơn nguy ngập.
Giải thoát chân thật lại cũng như vậy. Món thuốc
cam lộ là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Thế nào là bị bức thiết và không bị bức thiết?
Ví như có kẻ
phàm phu cao ngạo, tự nghĩ rằng: “Hết thảy mọi loài đều chẳng thể hại được ta.” Liền gần gũi
tiếp xúc với những loài rắn, cọp, trùng độc... Nên biết rằng người như vậy, dù mạng số chưa hết cũng phải chết đột ngột.
Giải thoát chân thật không có việc như vậy. Không bị bức thiết là
ví như vị
Chuyển luân vương có một hạt châu
thần diệu. Hạt châu ấy có thể
hàng phục loài bọ hung và chín mươi sáu thứ trùng độc. Nếu ai
nghe được mùi thơm của hạt
thần châu ấy thì các chất độc đều
tiêu diệt.
Giải thoát chân thật cũng như thế, lìa xa tất cả
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Các chất độc đều
tiêu diệt là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa, không bị bức thiết là
ví như hư không.
Giải thoát cũng thế.
Hư không ấy là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa, chịu sự bức thiết là
ví như ở gần cỏ khô mà đốt đèn lửa, tất phải cháy bùng. Trong
giải thoát chân thật chẳng có việc như vậy.
“Lại nữa, không bị bức thiết là
ví như mặt trời và
mặt trăng chẳng
bức bách chúng sanh.
Giải thoát cũng thế, đối với
chúng sanh không có bức thiết. Không có bức thiết là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
pháp không xao động.
Ví như có [sự
phân biệt] kẻ oán và người thân. Trong
sự giải thoát chân thật không có việc như vậy.
“Lại nữa, không
xao động là
ví như vị
Chuyển luân vương, không có vị
Thánh vương nào để làm bạn hữu. Nếu vị ấy có bạn hữu, đó là chuyện
vô lý.
Giải thoát cũng thế, không có chỗ thân cận. Nếu
giải thoát lại có chỗ thân cận, cũng là chuyện
vô lý. Vị vua kia không có bạn hữu là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật, tức là
Như Lai.
Như Lai tức là pháp vậy.[49]
“Lại nữa, không
xao động đó,
ví như cái áo trắng tinh thì dễ nhuộm các màu khác.
Giải thoát chẳng phải như thế.
“Lại nữa, không
xao động đó,
ví như hoa bà-sư,[50] nếu muốn cho
có mùi hôi và màu xanh, thật là chuyện
vô lý.
Giải thoát cũng như thế, nếu muốn cho
có mùi hôi và các màu sắc thì thật
vô lý.
Vì vậy nên
giải thoát tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là ít có.
Ví như ở trong nước sanh ra
hoa sen, đó là việc
bình thường. Như ở trong lửa sanh ra [
hoa sen] mới thật là ít có, ai thấy được việc ấy đều lấy làm
vui sướng.
Giải thoát chân thật cũng như thế, như có người thấy được ắt lấy làm
vui sướng. Việc ít có là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
Như Lai tức là
Pháp thân.[51]
“Lại nữa, việc ít có đó,
ví như đứa trẻ sơ sanh răng còn chưa mọc,
dần dần lớn lên rồi răng mới mọc.
Giải thoát chẳng phải như thế, không có việc sanh cùng chẳng sanh.[52]
“Lại nữa,
giải thoát gọi là rỗng không
vắng lặng, không có gì là không xác định. Không xác định là như [nói rằng] hạng nhất-xiển-đề rốt cùng không thay đổi, kẻ
phạm trọng cấm[53] không thể
thành Phật là
vô lý. Vì sao vậy? Nếu những người này ở trong
Chánh pháp của Phật có được
lòng tin trong sạch,
lập tức sẽ không còn là nhất-xiển-đề. Nếu được làm người
cư sĩ nam,[54] cũng sẽ không còn là nhất-xiển-đề. Như kẻ
phạm trọng cấm, nếu trừ xong tội ấy ắt được
thành Phật. Cho nên, nếu nói
chắc chắn là không thay đổi, không
thành Phật đạo thì thật là
vô lý. Trong
sự giải thoát chân thật không có những chuyện diệt mất như vậy.
“Lại nữa, rỗng không
vắng lặng là
dự vào pháp giới. Như tánh của
pháp giới tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa, nếu nhất-xiển-đề là dứt mất thì không thể gọi là nhất-xiển-đề. Sao gọi là nhất-xiển-đề? Nhất-xiển-đề là kẻ dứt tuyệt gốc rễ của mọi điều lành, lòng không nương theo bất cứ pháp lành nào, thậm chí chẳng sanh được một niệm lành. Trong
giải thoát chân thật không có việc như vậy. Không có việc như vậy tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là chẳng thể đo lường.
Ví như một đống lúa, có thể biết được số lượng.
Giải thoát chân thật chẳng phải như vậy.
Ví như biển cả không thể đo lường.
Giải thoát cũng thế, không thể đo lường. Không thể đo lường tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là pháp
vô lượng. Như mỗi
chúng sanh có nhiều
nghiệp báo.
Giải thoát cũng thế, có
vô lượng báo.
Vô lượng báo tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là rộng lớn.
Ví như biển cả rộng lớn không gì
sánh bằng.
Giải thoát cũng thế, rộng lớn không gì
sánh bằng. Không gì
sánh bằng tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là cao trổi hơn hết.
Ví như hư không là cao
nhất không gì
sánh bằng.
Giải thoát cũng thế, cao trổi hơn hết, không gì
sánh bằng. Cao trổi hơn hết, không gì
sánh bằng tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không thể
vượt qua.
Ví như nơi ở của
sư tử thì hết thảy các loài thú không con nào có thể
vượt qua.
Giải thoát cũng thế, không ai có thể
vượt qua. Không thể
vượt qua tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không còn gì trên nữa.
Ví như trong các phương, phương bắc là trên hết.
Giải thoát cũng thế, không còn gì trên nữa. Không còn gì trên nữa tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là trên cả bậc trên hết.
Ví như phương bắc đối với phương đông là trên cả bậc trên hết.
Giải thoát cũng thế, không còn có bậc nào trên nữa. Không còn có bậc nào trên nữa tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
pháp thường còn.
Ví như loài người và
chư thiên, khi
thân thể đã hư hoại và mạng sống dứt rồi thì gọi là thường còn,[55] chẳng phải không thường còn.
Giải thoát cũng thế, chẳng phải không thường còn. Chẳng phải không thường còn tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là chắc thật.
Ví như những cây khư-đà-la, chiên-đàn
trầm thủy, tánh vốn chắc thật.
Giải thoát cũng thế, tánh vốn chắc thật. Tánh chắc thật tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là chẳng trống không.
Ví như các loài tre, sậy, trong ruột trống rỗng.
Giải thoát chẳng phải như thế. Vậy nên biết rằng
giải thoát tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không thể
bám víu.
Ví như vách tường chưa quét vôi thì muỗi mòng bu đậu, bám vào trên đó. Nếu quét vôi và sơn vẽ lên rồi, chúng nghe mùi vôi và sơn thì không thể bám vào. Không thể
bám víu là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không có
giới hạn.
Ví như làng xóm mỗi nơi đều có
ranh giới bao quanh.
Giải thoát chẳng phải như thế.
Ví như hư không chẳng có
ranh giới.
Giải thoát cũng thế, không có
giới hạn.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không thể thấy.
Ví như giữa
hư không,
dấu chân chim khó thấy. Việc khó thấy như vậy
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là rất
sâu xa. Vì sao vậy? Đó là chỗ mà hàng
Thanh văn,
Duyên giác không thể vào được. Không thể vào được tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa, rất
sâu xa tức là chỗ mà chư Phật
Bồ Tát đều
cung kính.
Ví như một người con hiếu, nhờ
cúng dường cha mẹ nên được
công đức rất
sâu xa.
Công đức rất
sâu xa là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không thể thấy.
Ví như người ta không thể thấy đỉnh đầu của mình.
Giải thoát cũng thế, đó là chỗ mà hàng
Thanh văn,
Duyên giác không thể thấy được. Không thể thấy được tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không có nhà cửa.
Ví như giữa
hư không chẳng có nhà cửa.
Giải thoát cũng thế. Nói nhà cửa là
ví như hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Không có nhà cửa là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không thể nắm bắt.
Ví như trái a-ma-lặc, người ta có thể nắm lấy được.
Giải thoát không như thế, không ai nắm bắt được. Không thể nắm bắt tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không thể cầm giữ.
Ví như vật
ảo hóa không thể cầm giữ được.
Giải thoát cũng thế, không thể cầm giữ được. Không thể cầm giữ tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không có
thân thể.
Ví như có người, từ nơi
thân thể sanh ra các thứ ghẻ chốc, phung cùi, ung thư,
điên cuồng, khô héo. Trong
giải thoát chân thật không có những bệnh như vậy. Không có những bệnh như vậy là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là chỉ có một vị.
Ví như sữa chỉ có một vị.
Giải thoát cũng thế, chỉ có một vị. Chỉ có một vị tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
trong sạch.
Ví như nước không có bùn dơ, lắng yên
trong sạch.
Giải thoát cũng thế, lắng yên
trong sạch. Lắng yên
trong sạch tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là chỉ có một vị.
Ví như mưa giữa không trung, chỉ có một vị
trong sạch. Một vị
trong sạch là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là trừ bỏ hết.
Ví như đêm trăng tròn không có mây
che khuất.
Giải thoát cũng thế, không có mây
che khuất. Không có mây
che khuất tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
vắng lặng yên tĩnh.
Ví như có người trừ dứt được bệnh nóng,
thân thể được
vắng lặng yên tĩnh.
Giải thoát cũng thế, thân được
vắng lặng yên tĩnh. Thân được
vắng lặng yên
tĩnh tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát tức là
bình đẳng.
Ví như ở nơi đồng hoang, những loài
rắn độc, chuột, chó sói đều có tâm giết hại.
Giải thoát chẳng phải như thế, không hề có tâm giết hại. Không có tâm giết hại tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
bình đẳng là
ví như cha mẹ lòng luôn
bình đẳng đối với các con.
Giải thoát cũng thế, lòng luôn
bình đẳng. Lòng
bình đẳng tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không có nơi nào khác.
Ví như có người chỉ ở nơi nhà cửa cao đẹp, sạch sẽ, không còn có nơi nào khác.
Giải thoát cũng thế, không có nơi nào khác. Không có nơi nào khác tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là biết đủ.
Ví như người đói gặp bữa cơm ngon thì ăn chẳng muốn thôi.
Giải thoát chẳng phải thế, như ăn cháo sữa rồi thì chẳng cần thêm
gì nữa. Chẳng cần thêm
gì nữa là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là dứt hẳn.
Ví như người bị trói, cắt đứt dây trói thì được thoát ra.
Giải thoát cũng thế, dứt hẳn tất cả sự
trói buộc của lòng
nghi ngờ. Dứt hẳn lòng nghi như vậy tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
đến bờ bên kia.
Ví như một con sông lớn có bờ bên này và
bờ bên kia.
Giải thoát chẳng phải như thế, tuy không có bờ bên này mà có
bờ bên kia. Có
bờ bên kia tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
vắng lặng tự nhiên.
Ví như biển cả, nước lớn
mênh mông có nhiều loại tiếng ồn.
Giải thoát chẳng phải như thế.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là vị ngon lạ.
Ví như trong các món thuốc, có lẫn vị ha-lê-lặc thì phải bị đắng.
Giải thoát chẳng phải như thế, có vị như chất
cam lộ. Vị như
cam lộ là
ví như giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát là dứt
trừ phiền não.
Ví như một vị
lương y pha trộn các vị thuốc, khéo trị các chứng bệnh.
Giải thoát cũng thế, có thể dứt
trừ phiền não. Dứt
trừ phiền não tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không chật hẹp.
Ví như nhà nhỏ không chứa được nhiều người.
Giải thoát chẳng phải như thế, dung chứa được rất nhiều. Dung chứa rất nhiều tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là dứt trừ
ái luyến, không còn lẫn sự
dâm dục.
Ví như người nữ có nhiều
ái dục.
Giải thoát chẳng phải như thế.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
Như Lai chẳng hề có những sự
trói buộc bởi
tham dục,
sân khuể,
ngu si,
kiêu mạn.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không có lòng
ái luyến.
Ái luyến có hai loại: một là lòng
ái luyến của loài
ngạ quỷ, hai là lòng
ái luyến đối với pháp. Bậc
giải thoát chân thật lìa xa lòng
ái luyến của loài
ngạ quỷ, vì
thương xót chúng sanh nên có lòng
ái luyến đối với pháp. Có lòng
ái luyến đối với pháp tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát là
lìa bỏ cái ta và vật của ta.[56]
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
Như Lai tức là pháp.
“Lại nữa,
giải thoát tức là dứt hết,
lìa bỏ sự
tham lam.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
Như Lai tức là pháp.
“Lại nữa,
giải thoát tức là
che chở cứu giúp, có thể cứu giúp tất cả những kẻ sợ sệt.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
Như Lai tức là pháp.
“Lại nữa,
giải thoát tức là chỗ
quay về. Như đã
quay về nương tựa bậc
giải thoát như
vậy thì chẳng cần nương tựa nơi nào khác nữa.
Ví như có người nương tựa với vua thì chẳng cần nương tựa ai khác. Tuy vậy, nương tựa với vua còn có sự
biến động thay đổi, còn nương tựa bậc
giải thoát thì không có sự
biến động thay đổi. Không có sự
biến động thay đổi tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
Như Lai tức là pháp.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là nhà cửa.
Ví như có người
đi vào chốn đồng hoang ắt
gặp nạn hiểm.
Giải thoát chẳng phải như thế, không có nạn hiểm. Không có nạn hiểm tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát là không có sự sợ sệt.
Ví như chúa
sư tử đối với cả trăm loài thú cũng chẳng hề sợ sệt.
Giải thoát cũng thế, đối với chúng ma chẳng hề sợ sệt. Không sợ sệt tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát tức là không chật hẹp.
Ví như có
con đường nhỏ hẹp, thậm chí không đủ chỗ để hai người cùng đi ngang nhau.
Giải thoát chẳng phải như thế.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
“Lại nói không chật hẹp,
ví như có người vì sợ cọp lại rơi xuống giếng.[57]
Giải thoát chẳng như thế.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
“Lại nữa, không chật hẹp là
ví như giữa biển cả mà bỏ thuyền nhỏ, được thuyền lớn
vững chắc, dùng để vượt biển đến xứ
an ổn, lòng được
vui thích.
Giải thoát cũng thế, trong lòng được
vui thích. Được
vui thích tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát nghĩa là
dẹp bỏ các
nhân duyên.
Ví như có người nhờ có sữa mà làm được kem sữa, nhờ có kem sữa mà làm được bơ, nhờ có bơ lại làm được món đề-hồ.[58] Trong
sự giải thoát không có những nhân
tiếp nối như vậy. Không có nhân như vậy tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát có thể khuất phục được sự
kiêu căng ngạo mạn.
Ví như vị vua lớn
kiêu căng ngạo mạn với các vua nhỏ.
Giải thoát chẳng phải như thế.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
Như Lai tức là pháp.
“Lại nữa,
giải thoát là khuất phục sự buông thả, lười nhác. Buông thả, lười nhác ắt có nhiều
ham muốn. Trong
giải thoát chân thật chẳng có những tên gọi ấy. Chẳng có những tên gọi ấy tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát có thể trừ dứt
vô minh.
Ví như loại bơ sữa tốt nhất
loại bỏ hết những cặn cáu mới thành được đề-hồ.
Giải thoát cũng thế, trừ được cặn cáu là
vô minh,
hiện ra sự
sáng suốt chân thật. Sự
sáng suốt chân thật đó tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
vắng lặng yên tĩnh,
thuần nhất chẳng
phân chia.
Ví như con voi giữa đồng hoang, chỉ sống
một mình không có bạn.
Giải thoát cũng thế,
duy nhất chẳng
phân chia.
Duy nhất chẳng
phân chia tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là chắc thật.
Ví như thân cây tre, sậy, tỳ-ma đều rỗng ruột, nhưng măng non lại chắc đặc, không rỗng.
Trừ ra Phật Như Lai, các hàng trời, người đều không chắc thật.
Giải thoát chân thật lìa xa tất cả những cảnh
hiện hữu lưu chuyển không bền.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là có thể
hiểu rõ, thêm phần
lợi ích cho mình.
Giải thoát chân thật là như vậy.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
buông bỏ những
cảnh giới hiện hữu.
Ví như có người ăn xong rồi nôn ra.
Giải thoát cũng như thế,
buông bỏ những
cảnh giới hiện hữu.
Buông bỏ những cảnh có tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
quyết định.
Ví như hương hoa bà-sư [
nhất định là] không có trong hoa thất diệp.
Giải thoát cũng như thế.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là chất nước.[59]
Ví như chất nước hơn hẳn trong
bốn đại, có thể làm tươi nhuận
hạt giống hết thảy
các loại cây cỏ.
Giải thoát cũng thế, có thể làm tươi nhuận hết thảy những loài có mạng sống.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là nhập vào.
Ví như nhà có cửa ngõ, ắt thông với đường đi. Lại như xứ có vàng, ắt có thể được vàng.
Giải thoát cũng thế. Cũng như cửa ngõ kia, người
tu pháp vô ngã ắt là vào được lẽ ấy.
Giải thoát như vậy, tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
tốt lành.
Ví như người
đệ tử theo thầy hầu hạ, khéo
vâng theo lời dạy, đó gọi là
tốt lành.
Giải thoát cũng thế.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là pháp
xuất thế. Đối với tất cả pháp, pháp ấy là cao trổi hơn hết. Như trong các
mùi vị,
mùi vị của bơ sữa là hơn hết.
Giải thoát cũng thế.
Giải thoát như vậy tức là
Như lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là chẳng lay động.
Ví như ở cửa buồng trong không có gió lay động.
Giải thoát chân thật lại
cũng thế.
Giải thoát như vậy, tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không có sóng nước.
Ví như nơi biển cả nước dậy thành sóng.
Giải thoát chẳng như thế.
Giải thoát như vậy, tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát ví như cung điện.
Giải thoát cũng như thế. Nên biết rằng
giải thoát tức là
Như Lai.[60]
“Lại nữa,
giải thoát gọi là chỗ dùng.
Ví như vàng Diêm-phù-đàn có thể dùng vào nhiều việc, không ai có thể nói được chỗ xấu dở của loại vàng này.
Giải thoát cũng thế, không có chỗ xấu ác. Không có chỗ xấu ác tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát là
buông bỏ hết những
hành vi trẻ con.
Ví như người
trưởng thành thì bỏ hết những nết trẻ con.
Giải thoát cũng thế, trừ bỏ
năm ấm.[61] Trừ bỏ
năm ấm tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là chỗ
rốt ráo sau cùng.
Ví như người bị trói, khi được
mở trói liền tắm rửa sạch sẽ rồi mới về nhà.
Giải thoát cũng thế,
rốt ráo trở nên thanh tịnh.
Rốt ráo thanh tịnh tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là niềm vui không tạo tác. Vui không tạo tác, là vì đã nôn ra hết những
tham dục,
sân khuể,
ngu si.
Ví như có người uống phải nọc độc của rắn. Muốn trừ chất độc ấy, phải dùng thuốc gây nôn. Khi nôn rồi, nọc đã ra hết thì
thân thể được yên vui.
Giải thoát cũng thế, nôn ra nọc độc là các
phiền não trói buộc, thân được yên vui, đó gọi là niềm vui không tạo tác. Vui không tạo tác tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là trừ dứt bốn loại
rắn độc phiền não. Dứt
trừ phiền não tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
lìa bỏ các
cảnh giới hiện hữu, diệt hết thảy sự khổ, được hết thảy sự vui, dứt trừ
vĩnh viễn những
tham dục,
sân khuể,
ngu si, nhổ bỏ hết thảy mọi gốc rễ của
phiền não. Nhổ bỏ gốc rễ đó tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là dứt trừ hết thảy các
pháp hữu vi, sanh ra hết thảy các pháp lành
vô lậu, dứt hẳn các khuynh hướng như
chấp ngã,
vô ngã, chẳng phải ngã chẳng phải
vô ngã. Chỉ dứt bỏ sự vướng chấp mà thôi, không dứt bỏ sự thấy biết về cái ngã. Sự thấy biết về cái ngã đó gọi là tánh Phật. Tánh Phật tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là chẳng phải
không không.
Không không đó gọi là không có gì hết. Không có gì hết, tức là cách hiểu
giải thoát của bọn
ngoại đạo Ni-kiền. Nhưng bọn Ni-kiền ấy thật chẳng có
giải thoát, nên gọi là
không không.
Giải thoát chân thật chẳng phải như vậy, cho nên chẳng phải
không không. Chẳng phải
không không, tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là không chẳng phải không.
Ví như những cái bình đựng nước, rượu, kem sữa, bơ sữa, đường.
Mặc dầu trong những bình ấy không có nước, rượu, kem sữa, bơ sữa, đường, nhưng vẫn gọi là bình nước, bình rượu.v.v... Những cái bình như vậy, không thể nói là không, cũng không thể nói là chẳng phải không. Nếu nói là không thì chẳng thể có những
hình sắc,
mùi vị, xúc chạm... Nếu nói là chẳng phải không thì những cái bình ấy thật là không có nước, rượu.v.v...
Giải thoát cũng thế, không thể nói là
hình sắc hay chẳng phải
hình sắc, không thể nói là không hay chẳng phải không. Nếu nói là không thì chẳng thể có thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu nói là chẳng phải không thì ai thọ nhận những thường, lạc, ngã, tịnh ấy?
“Vì nghĩa ấy nên chẳng thể nói là không hay là chẳng phải không. Không, đó là không
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu cùng với các
phiền não, tất cả các khổ, tất cả các tướng, tất cả hạnh
hữu vi.
Ví như cái bình không có đựng sữa thì gọi là không. Còn chẳng phải không là nói đến những
hình sắc chân thật tốt đẹp như thường, lạc, ngã, tịnh,
bất động,
bất biến. Như cái bình kia, có
hình sắc, hương vị, xúc chạm, nên gọi là chẳng phải không.
Vì vậy nên
giải thoát ví như cái bình kia. Nhưng cái bình ấy nếu gặp duyên xấu thì hư nát.
Giải thoát chẳng phải như vậy, không thể hư nát. Không thể hư nát tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
“Lại nữa,
giải thoát gọi là
lìa bỏ luyến ái.
Ví như người có lòng
luyến ái, mong cầu được cảnh Đế-thích, cảnh
Đại Phạm thiên vương, cảnh
Tự tại thiên vương.
Giải thoát chẳng như thế. Nếu thành
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề rồi thì không có
luyến ái, không có
nghi ngại. Không
luyến ái, không
nghi ngại tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai. Nếu nói rằng
giải thoát có
luyến ái, có
nghi ngại thì thật là
vô lý.
“Lại nữa,
giải thoát là dứt hết các mối tham, dứt hết tất cả tướng, hết thảy mọi sự
trói buộc, hết thảy
phiền não, hết thảy
sanh tử, hết thảy
nhân duyên, hết thảy
quả báo.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
Như Lai tức là Niết-bàn.
“Tất cả
chúng sanh vì sợ
sanh tử và các
phiền não nên mới
quy y nơi
Tam bảo.
Ví như bầy nai, vì sợ người thợ săn mà được
thoát ly. Như thoát được
một lần là
ví như một sự
quy y, thoát được ba lần là
ví như quy y Tam bảo. Thoát được ba lần nên được yên vui.
“Chúng sanh
cũng thế, vì sợ thợ săn dữ là
bốn loại ma[62] nên mới
quy y Tam bảo. Nhờ
quy y Tam bảo nên được yên vui. Được yên vui tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.
Như Lai tức là Niết-bàn. Niết-bàn tức là không
cùng tận. Không
cùng tận tức là tánh Phật. Tánh Phật tức là
quyết định.
Quyết định tức là
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu Niết-bàn, tánh Phật, sự
quyết định và
Như Lai là cùng một nghĩa, vì sao nói rằng có Ba quy y?”[63]
Phật dạy Ca-diếp: “Thiện nam tử! Tất cả
chúng sanh vì sợ
sanh tử nên cầu
quy y Tam bảo. Nhờ
quy y Tam bảo nên biết được tánh Phật,
quyết định, Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Có những pháp cùng tên mà khác nghĩa. Lại có những pháp tên và nghĩa đều khác nhau. Cùng tên mà khác nghĩa là như Phật thường,
Pháp thường, Tỳ-kheo tăng thường, Niết-bàn,
hư không cũng là thường. Đó là cùng một tên mà khác nghĩa.
“Tên và nghĩa đều khác nhau, như Phật gọi là giác, Pháp gọi là
bất giác, Tăng gọi là hòa hiệp, Niết-bàn gọi là
giải thoát,
hư không gọi là chẳng lành, cũng gọi là không ngăn ngại. Đó là tên và nghĩa đều khác nhau.
“Thiện nam tử!
Ba quy y cũng vậy, tên và nghĩa đều khác nhau, sao lại gọi là một? Cho nên ta có dạy bà
Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di[64] rằng: ‘Đừng
cúng dường ta, nên
cúng dường chư tăng. Như
cúng dường chư tăng tức là
cúng dường đủ cả ba chỗ
quy y.’[65] Bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề liền hỏi lại rằng: ‘Trong
chúng tăng không có Phật, không có Pháp, sao nói rằng
cúng dường chúng tăng là
cúng dường đủ cả ba chỗ quy y?’ Ta lại dạy rằng: ‘Nếu bà
vâng theo lời ta, đó là
cúng dường Phật; vì cầu
sự giải thoát, đó là
cúng dường Pháp;
chúng tăng thọ dụng, đó là
cúng dường Tăng.’
“Thiện nam tử! Vậy nên
Ba quy y không thể là một.
“Thiện nam tử!
Ba quy y đó, có khi
Như Lai nói một là ba, có khi nói ba là một. Những nghĩa như vậy thuộc về
cảnh giới của chư Phật, chẳng phải chỗ hàng
Thanh văn,
Duyên giác có thể rõ biết được.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa rằng: “Như Phật có dạy: ‘Rốt ráo được yên vui gọi là Niết-bàn.’ Nghĩa ấy là thế nào? Niết-bàn tức là
xả thân, bỏ trí. Như đã
xả thân bỏ trí thì còn ai là người thọ nhận cái vui ấy?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Ví như có người vừa ăn xong thấy trong bụng khó chịu, muốn ra ngoài nôn. Nôn xong, người ấy trở vào. Các bạn hỏi rằng: ‘Anh đã hết khó chịu chưa mà vào đây?’ Người ấy đáp: “Đã hết khó chịu rồi, bây giờ thân được yên vui.’
“Như Lai
cũng thế,
rốt ráo xa lìa hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu,
mãi mãi được Niết-bàn, cảnh yên vui, không thể lay động,
chuyển đổi, không có sự diệt mất, dứt hết mọi
cảm thọ, gọi là chỗ vui không
cảm thọ. Chỗ không
cảm thọ như vậy gọi là
thường lạc. Nếu nói rằng
Như Lai có thọ nhận cái vui, thật là
vô lý. Cho nên cái vui
rốt ráo tức là Niết-bàn. Niết-bàn tức là
giải thoát chân thật.
Giải thoát chân thật tức là
Như Lai.”
Ca-diếp lại hỏi: “Có phải chẳng sanh chẳng diệt là
giải thoát chăng?”
Phật dạy: “Đúng vậy, đúng vậy!
Thiện nam tử! Chẳng sanh chẳng diệt tức là
giải thoát.
Giải thoát như vậy, tức là
Như Lai.”
Ca-diếp lại nói: “Nếu chẳng sanh chẳng diệt là
giải thoát, thì tánh của
hư không vốn không
sanh diệt, ắt cũng là
Như Lai. Như tánh
Như Lai, tức là
giải thoát.”
Phật bảo Ca-diếp: “Thiện nam tử! Chẳng phải như vậy!”
“Bạch Thế Tôn! Tại sao chẳng phải như vậy?”
“Thiện nam tử! Như chim ca-lan-già và chim mạng-mạng, tiếng kêu
trong trẻo rất hay, có giống với tiếng quạ kêu chăng?”
“Bạch
Thế Tôn, không giống! Như tiếng chim ca-lan-già và chim mạng-mạng mà so với tiếng quạ kêu thì
vượt trội hơn đến trăm ngàn vạn lần, không thể
so sánh được!”
Bồ Tát Ca-diếp lại nói: “Những loài chim như ca-lan-già tiếng kêu rất hay,
thân hình lại chẳng giống quạ, vì sao
Như Lai lại
so sánh với chim quạ? Như vậy chẳng khác nào đem hạt
đình lịch mà so với núi Tu-di. Phật so với
hư không lại cũng như thế. Tiếng chim ca-lan-già có thể
so sánh với
âm thanh của Phật, chứ không thể so với tiếng kêu của quạ.”
Lúc ấy, Phật khen
Bồ Tát Ca-diếp rằng: “Lành thay,
lành thay! Nay ông đã
hiểu rõ việc rất khó hiểu. Có khi vì
nhân duyên nên
Như Lai lấy
hư không mà
ví như giải thoát.
Giải thoát như vậy tức là
Như Lai.
“Giải thoát
chân thật đó, hết thảy
loài người và
chư thiên không ai có thể sánh được. Như
hư không kia thật ra cũng chẳng thể dùng làm
thí dụ so sánh được. Nhưng Phật vì
hóa độ chúng sanh nên lấy
hư không mà tạm
so sánh với
giải thoát. Vậy nên biết rằng
giải thoát tức là
Như Lai. Tánh của
Như Lai tức là
giải thoát.
Giải thoát và
Như Lai vốn chẳng
phân chia, chẳng khác biệt nhau.
“Thiện nam tử! Không
tỷ dụ được, là
ví như có một vật không chi sánh được, thì không thể lấy vật gì khác mà làm
thí dụ so sánh. Nhưng vì có
nhân duyên nên có thể [tạm] dẫn làm
thí dụ so sánh. Như trong kinh nói ‘vẻ mặt đoan chánh dường như trăng tròn, voi trắng tinh sạch dường như núi tuyết.’ Thật ra,
mặt trăng tròn không thể đồng với khuôn mặt, núi tuyết cũng chẳng thể là voi trắng.
“Thiện nam tử! Không
tỷ dụ được, là
ví như giải thoát chân thật. Ta vì
hóa độ chúng sanh nên đặt ra các
thí dụ. Nhờ có các
thí dụ mà biết được tánh của các pháp, thảy đều là như vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp lại hỏi: “Vì sao
Như Lai thuyết dạy
hai nghĩa khác nhau?”[66]
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Ví như có người tay cầm đao kiếm, vì giận tức nên muốn làm hại
Như Lai. Nhưng
đức Như Lai vẫn
hiền hòa vui vẻ, không có vẻ giận. Vậy người ấy có
phá hoại được thân
Như Lai mà thành tội nghịch hay chăng?”
“Bạch Thế Tôn! Không thể được. Vì sao vậy? Thân
Như Lai không ai có thể
phá hoại được. Vì sao vậy? Vì không có cái thân kết tụ, chỉ có
pháp tánh. Tánh của
pháp tánh, tất nhiên là không thể
phá hoại. Vậy người ấy làm sao có thể
phá hoại thân Phật? Chỉ vì người ấy đem lòng ác muốn làm hại Phật, cho nên thành tội
vô gián. Vì
nhân duyên ấy, các
thí dụ đưa ra có thể giúp người ta hiểu được
pháp chân thật.”
Lúc ấy, Phật khen
Bồ Tát Ca-diếp rằng: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Việc ta muốn nói, nay ông đã nói.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như có kẻ ác muốn hại mẹ mình, bèn núp dưới đống rơm ngoài đồng ruộng. Bà mẹ đem cơm ra đồng cho con. Thấy mẹ từ xa, người ấy sanh lòng muốn hại mẹ, liền lấy dao ra mài. Bà mẹ đã biết, bèn trốn vào trong đống rơm. Người ấy cầm dao, vừa đi quanh đống rơm vừa chém. Chém xong, lấy làm
thỏa dạ, tưởng rằng đã giết được mẹ rồi. Sau đó, bà mẹ từ trong đống rơm
bước ra,
trở về nhà. Ý ông thế nào? Người ấy có tạo thành tội
vô gián chăng?”
“Thế Tôn! Không thể nói chắc được. Vì sao vậy? Nếu nói rằng người ấy có tội, thì
thân thể bà mẹ phải bị chém. Nhưng
thân thể của bà không bị
tổn hại, sao có thể nói rằng người ấy có tội? Nhưng nếu nói là không có tội, thì lúc tưởng là đã giết mẹ rồi, lấy làm
thỏa dạ, sao có thể nói là không tội? Tuy người ấy chưa tạo ra đầy đủ tội nghịch, nhưng cũng là nghịch. Vì
nhân duyên ấy, các
thí dụ đưa ra có thể giúp người ta hiểu được
pháp chân thật.”
Phật khen Ca-diếp rằng: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Vì
nhân duyên ấy, ta nói ra rất nhiều
thí dụ phương tiện để
so sánh với
giải thoát. Tuy dùng
vô số thí dụ, nhưng thật ra chẳng thể lấy
thí dụ mà
so sánh được.
Tùy theo nhân duyên, có khi ta có thể nói ra
thí dụ, cũng có khi không thể nói ra bằng
thí dụ.
“Cho nên
giải thoát thành tựu vô lượng công đức như vậy, hướng về Niết-bàn. Niết-bàn,
Như Lai cũng có
vô lượng công đức như vậy. Vì có đầy đủ
vô lượng công đức như vậy nên gọi là Đại Niết-bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nay con mới biết chỗ đến của
Như Lai là không
cùng tận. Nếu chỗ ấy là không
cùng tận, thì nên biết rằng
thọ mạng của
Như Lai cũng là không
cùng tận.”
Phật dạy: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Nay ông có thể khéo
hộ trì Chánh pháp. Nếu có
thiện nam tử,
thiện nữ nhân nào muốn dứt hết các
phiền não trói buộc thì nên
hộ trì Chánh pháp giống như vậy.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN NĂM
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN SÁU
PHẨM TÁNH
NHƯ LAIPhẩm thứ tư – Phần ba[67]
Phật dạy: “Thiện nam tử! Theo kinh Đại Niết-bàn
vi diệu này, có bốn hạng người có thể
ủng hộ Chánh pháp,
kiến lập Chánh pháp,
nghĩ tưởng đến
Chánh pháp, có thể
thương xót và làm
lợi ích nhiều cho
thế gian, là chỗ nương theo cho
thế gian, làm cho
loài người và
chư thiên đều được yên vui.
“Bốn hạng người ấy là những ai? Thứ nhất là những người ra đời có đủ tánh
phiền não. Thứ nhì là các vị Tu-đà-hoàn và Tư-đà-hàm. Thứ ba là các vị A-na-hàm. Thứ tư là các vị A-la-hán.[68] Bốn hạng người này
xuất hiện ở đời có thể
thương xót và làm
lợi ích nhiều cho
thế gian, là chỗ nương theo cho
thế gian, làm cho
loài người và
chư thiên đều được yên vui.
“Sao gọi là có đủ tánh phiền não? Như người có thể vâng
giữ giới cấm, đầy đủ các
oai nghi,
kiến lập Chánh pháp, theo Phật
nghe pháp, hiểu được
nghĩa lý rồi
phân biệt giảng rộng với người khác. Chẳng hạn như nói rằng: ít
ham muốn là hợp đạo, nhiều
ham muốn là trái đạo... giảng rộng
tám điều giác ngộ[69] của bậc
đại nhân như vậy, đối với kẻ
phạm tội liền dạy họ
phát lộ sám hối[70] để
diệt trừ tội lỗi, hiểu rành những phép
phương tiện và sở hành
bí mật của
Bồ Tát. Gọi là
phàm phu thì chẳng phải là người có đủ
tám điều giác ngộ.[71] Người có đủ
tám điều giác ngộ thì chẳng gọi là
phàm phu, gọi là
Bồ Tát, chẳng gọi là Phật.
“Hạng người thứ nhì là các vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm. Các vị này nếu được
Chánh pháp,
thọ trì Chánh pháp, theo Phật
nghe pháp, liền
y như chỗ đã nghe mà ghi chép,
thọ trì,
đọc tụng, đem
giảng giải với người khác. Như với các vị này mà bảo rằng
nghe pháp rồi chẳng ghi chép, chẳng
thọ trì, chẳng đem
giảng giải cho người khác, lại nói rằng Phật
cho phép chứa trữ nô tỳ, những vật
bất tịnh, đều là chuyện
vô lý. Như vậy là hạng người thứ nhì. Các vị này chưa được như hạng người thứ ba. Được như hạng người thứ ba gọi là
Bồ Tát đã được
thọ ký.
“Hạng người thứ ba là các vị A-na-hàm. Nếu bảo rằng các vị A-na-hàm
phỉ báng Chánh pháp, như nói:
Như Lai cho phép chứa trữ nô tỳ, tôi tớ, những vật
bất tịnh; hoặc nói các vị
thọ trì kinh điển, sách luận
ngoại đạo; hoặc nói các vị bị các
phiền não khách trần[72] ngăn trở, bị các
phiền não từ trước
che lấp; hoặc nói các vị giấu giếm xá-lỵ
chân thật của
Như Lai; hoặc nói các vị bị các bệnh ở ngoài gây
não hại, hoặc bị
rắn độc bốn đại xâm tổn; hoặc nói các vị theo
luận thuyết chấp ngã, đều là những việc
vô lý.
“Nếu bảo rằng các vị A-na-hàm
giảng thuyết pháp vô ngã, đó là việc có lý. Nếu bảo rằng các vị giảng lẽ
chấp trước theo pháp
thế gian, đó là việc
vô lý. Nếu bảo các vị
giảng pháp Đại thừa tiếp nối chẳng dứt, đó là việc có lý.
“Nếu bảo rằng các vị A-na-hàm có cái thân chứa tám vạn loại trùng,[73] đó cũng là việc
vô lý. Nếu bảo rằng các vị đã
vĩnh viễn xa lìa sự
dâm dục,
cho đến trong
giấc mộng cũng không phạm việc
bất tịnh, đó là việc có lý. Nếu bảo rằng các vị A-na-hàm đến ngày
lâm chung sanh lòng sợ sệt, đó cũng là việc
vô lý.
“Vậy A-na-hàm có nghĩa là gì? Như trước đây ta có nói, bậc A-na-hàm chẳng còn phải
trở lại thế gian này; những
lỗi lầm tai hại từ trước chẳng còn có thể
nhiễm ô. Nếu vị ấy còn
tới lui ở cõi
thế gian này, đó gọi là
Bồ Tát đã được
thọ ký, chẳng bao lâu sẽ được thành
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đó là hạng người thứ ba.
“Hạng người thứ tư gọi là A-la-hán. Vị A-la-hán là người đã dứt hết
phiền não, đã trút bỏ
gánh nặng, đã được sự
lợi ích cho mình, đã làm xong
việc phải làm, trụ ở
địa vị thứ mười.[74] Bậc ấy được trí
tự tại,
tùy theo sự
ưa thích của
chúng sanh có thể
thị hiện ra mọi thứ
hình sắc,
ảnh tượng. Như chỗ
trang nghiêm của vị này, nếu muốn
thành Phật đạo liền có
đủ khả năng để thành. Có thể
thành tựu vô lượng công đức như vậy nên gọi là A-la-hán.
“Đó gọi là bốn hạng người
xuất hiện ở đời có thể
thương xót và làm
lợi ích nhiều cho
thế gian, là chỗ nương cậy cho
thế gian, làm cho
loài người và
chư thiên đều được yên vui. Các vị này đều là bậc tối tôn,
tối thắng trong
cõi trời người, không khác gì
đức Như Lai. Gọi là bậc cao trổi trong
loài người tức là chỗ
quay về nương theo của cả
nhân loại và
chư thiên.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Nay con chẳng nương theo bốn hạng người ấy. Vì sao vậy? Như trong kinh Cồ-sư-la[75] Phật dạy ông Cồ-sư-la rằng: ‘Như có
thiên ma hay
Phạm thiên, vì muốn
phá hoại nên biến ra hình Phật có đủ
ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm, tám mươi vẻ đẹp,
hào quang chiếu quanh một tầm,[76] khuôn mặt tròn đầy như
trăng rằm sáng rỡ, có lông trắng ở khoảng giữa hai chân mày màu trắng như ngọc, như tuyết. Nếu có người hình thể
trang nghiêm như vậy đi đến chỗ ông, thì ông nên xét kỹ xem là thật hay là giả. Khi biết rõ [là ma
giả dạng] rồi thì nên
hàng phục nó.’
“Thế Tôn! Bọn ma ấy có thể hóa làm thân Phật được, huống chi là các thân như A-la-hán, A-na-hàm... của bốn hạng người trên, hoặc những việc như nằm ngồi giữa không trung, hông trái phun nước, hông phải
phun lửa,
thân thể tuôn ra khói lửa như một đám lửa. Vì
nhân duyên ấy, với những hạng người này con chẳng sanh
lòng tin, hoặc như có
thuyết giảng điều chi, con cũng không thể nhìn nhận, cũng không sanh tâm
cung kính mà nương theo họ.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Đối với những điều chính ta
giảng thuyết, nếu có lòng nghi còn chẳng nên nhận, huống chi là với những hạng người ấy. Cho nên phải khéo
phân biệt biết rõ là điều lành hay dữ, nên làm hay chẳng nên làm. Nếu được như
vậy thì sẽ
thọ hưởng sự yên vui
lâu dài.
“Thiện nam tử!
Ví như con chó hoang ban đêm vào nhà người ta. Kẻ tôi tớ nhà ấy nếu hay biết được, liền đuổi mắng rằng: ‘Mày mau đi khỏi đây. Nếu mày chẳng đi ngay tao sẽ giết mày.’ Chó hoang nghe vậy liền bỏ đi không dám
trở lại. Từ nay trở đi các ông cũng nên làm như vậy để
hàng phục ma Ba-tuần. Nên nói như thế này: ‘Ba-tuần! Nay ông không nên biến ra
hình tượng như vậy. Nếu ông còn
cố ý hóa hiện như vậy nữa, ta sẽ dùng năm sợi dây mà
trói buộc ông.’ Ma
nghe lời ấy ắt sẽ ra đi, cũng như con chó hoang kia không còn dám
trở lại.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật có dạy
trưởng giả Cồ-sư-la rằng: ‘Nếu ông có thể dùng cách ấy mà
hàng phục ma thì cũng có thể
đến gần Đại Niết-bàn.’
Như Lai cần chi phải nói rằng bốn hạng người ấy là chỗ
quay về nương theo? Bốn hạng người như vậy có
giảng thuyết điều chi, chưa chắc đã là
đáng tin.”
Phật dạy Ca-diếp: “Thiện nam tử! Ngay như những điều ta thuyết dạy, cũng là như vậy, chẳng ra ngoài lẽ ấy.
“Thiện nam tử! Ta vì hàng
Thanh văn mắt thịt mà nói việc
hàng phục chúng ma, không phải vì những người
tu học Đại thừa mà nói. Hàng
Thanh văn dẫu có
thiên nhãn cũng gọi là
mắt thịt. Người
tu học Đại thừa tuy mang
mắt thịt nhưng gọi là
Phật nhãn. Vì sao vậy?
Kinh Đại thừa này gọi là
Phật thừa, cao quý hơn hết,
vượt trội hơn hết.
“Thiện nam tử!
Ví như có người mạnh mẽ, oai dũng. Những kẻ
yếu đuối nhút nhát thường đến nương tựa người ấy. Người mạnh mẽ ấy thường dạy những kẻ
yếu đuối nhút nhát rằng: ‘Các ông nên cầm cung tên như thế này, luyện tập múa giáo, móc câu, quăng dây trói như thế này...’ Rồi lại dạy rằng: ‘Trong việc chiến đấu, tuy như đi trên mũi nhọn cũng không được sợ sệt. Hãy nhìn người khác với
ý tưởng coi khinh là
yếu ớt. Tự mình nên có
tư tưởng là người mạnh mẽ. Như gặp người vốn không
can đảm dũng mãnh nhưng giả làm bộ dạng mạnh mẽ, cầm cung xách đao cùng mọi thứ
khí giới bước ra giữa trận lớn tiếng quát thét; đối với người ấy đừng sanh lòng sợ sệt. Hạng người như vậy, nếu thấy ông chẳng khiếp sợ, nên biết rằng chẳng bao lâu họ sẽ tự tan rã,
bại hoại, cũng như con chó hoang kia vậy.’
“Thiện nam tử!
Như Lai cũng vậy, thường dạy các vị
Thanh văn rằng: ‘Các ông chớ nên sợ ma Ba-tuần. Nếu ma Ba-tuần hóa làm thân Phật và đi đến chỗ các ông, các ông nên
tinh cần giữ tâm
vững chãi,
hàng phục ma ấy. Khi ấy ma sẽ phải lo sầu chẳng vui, theo đường cũ mà rút lui.
“Thiện nam tử! Như người dũng mạnh kia, chẳng chịu bắt chước theo kẻ khác. Người
tu học Đại thừa cũng thế, khi
nghe được đủ các
kinh điển sâu xa bí mật, trong lòng lấy làm
vui sướng, chẳng hề kinh sợ. Vì sao vậy? Vì người
tu học Đại thừa như vậy vốn đã từng
cúng dường,
cung kính,
lễ bái vô số đức Phật trong
quá khứ, dẫu có
vô số ma muốn đến
quấy rối,
phá hoại thì đối với việc ấy người cũng chẳng hề kinh sợ.
“Thiện nam tử!
Ví như có người được món thuốc a-kiệt-đà,[77] chẳng còn sợ bất cứ loài
rắn độc nào. Loại thuốc này có thể
giải trừ tất cả
các loại chất độc.
Kinh Đại thừa này cũng như vậy, có
công năng như loại thuốc kia, không sợ tất cả các thứ
độc hại của chúng ma, lại còn có thể
hàng phục khiến
cho không còn dấy lên được nữa.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như có một con rồng tánh hay
ganh ghét,
xấu xa. Khi muốn hại người thì lấy mắt mà nhìn hoặc dùng miệng mà phun, cho nên tất cả những giống
sư tử, cọp, beo, sói, chó đều sợ sệt. Các loài
thú dữ ấy, hoặc nghe tiếng nó, hoặc nhìn thấy nó, hoặc đụng chạm với nó đều phải
mất mạng.
“Nhưng có một người giỏi về
chú thuật, có thể
dùng sức của
thần chú mà làm cho các loài
rồng độc,
chim kim sí cùng với voi dữ,
sư tử, cọp, beo, sói thảy đều trở nên
hiền hòa, dùng để cưỡi hoặc kéo xe. Những loài thú ấy thấy người giỏi về
chú thuật kia liền chịu khuất phục.
“Hàng
Thanh văn,
Duyên giác cũng thế, nhìn thấy ma Ba-tuần thì thảy đều khiếp sợ. Còn ma Ba-tuần lại chẳng hề sợ sệt, cứ làm việc của ma.
“Người
tu học Đại thừa lại cũng như người giỏi
chú thuật kia, thấy hàng
Thanh văn khiếp sợ những việc của ma, đối với
Đại thừa chẳng đem
lòng tin tưởng,
ưa thích, nên trước dùng
phương tiện hàng phục chúng ma, khiến cho trở nên
hiền hòa, có thể cưỡi được, rồi nhân đó mới giảng rộng đủ các môn
diệu pháp. Hàng
Thanh văn,
Duyên giác thấy người
điều phục chúng ma rồi, không còn sợ sệt, đối với
Chánh pháp vô thượng Đại thừa mới sanh
lòng tin tưởng,
ưa thích mà nói rằng: ‘Chúng ta từ nay đối với
Chánh pháp này không nên ngăn trở nữa.’
“Lại nữa,
thiện nam tử! Hàng
Thanh văn,
Duyên giác đối với
phiền não sanh lòng sợ sệt. Những người
tu học Đại thừa thảy đều không khiếp sợ. Người
tu học Đại thừa có
sức mạnh như vậy. Vì
nhân duyên này, nên những điều ta thuyết dạy trước đây là vì muốn cho hàng
Thanh văn,
Duyên giác điều phục các ma, chẳng phải vì hàng
Đại thừa mà nói.
“Kinh điển Đại Niết-bàn
vi diệu này không thể tiêu mất, không thể
thua kém, rất
kỳ diệu và đặc biệt! Nếu có người
nghe được kinh điển này rồi sanh
lòng tin tưởng,
thọ trì, có thể tin rằng
Như Lai là
pháp thường trụ, đó là người rất ít có,
ví như hoa ưu-đàm.
“Sau khi ta nhập Niết-bàn, nếu như có người
nghe được nghe
kinh điển Đại thừa vi diệu như thế này rồi đem
lòng tin tưởng,
kính trọng, nên biết rằng những người ấy
trong đời vị lai,
cho đến trăm nghìn
ức kiếp chẳng rơi vào các nẻo dữ.”
Bấy giờ, Phật dạy
Bồ Tát Ca-diếp rằng: “Thiện nam tử! Sau khi ta nhập Niết-bàn, sẽ có trăm ngàn
vô lượng chúng sanh phỉ báng và chẳng tin vào
kinh điển Đại Niết-bàn
vi diệu này.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Bạch
Thế Tôn, sau khi Phật nhập Niết-bàn bao lâu thì những
chúng sanh ấy sẽ
phỉ báng kinh này? Lại có những
chúng sanh thuần thiện nào có thể cứu vớt những kẻ
phỉ báng giáo pháp?”
Phật bảo Ca-diếp: “Thiện nam tử! Ta nhập Niết-bàn rồi, trong bốn mươi năm
kinh Đại thừa này sẽ được
truyền bá rộng rãi trong cõi Diêm-phù-đề. Nhưng sau đó lại đành
mai một.
“Thiện nam tử!
Ví như các loại mía đường, nếp hương, đường phèn, sữa, bơ sữa, đề-hồ,
tùy theo mỗi xứ mà người dân đều chọn một món trong đó cho là ngon nhất. Lại có những người chỉ ăn toàn cháo kê. Những người ấy cũng nói rằng: ‘Món mà
chúng tôi ăn là ngon nhất.’ Ấy là những người ít phước nên phải chịu
nghiệp báo. Nếu là người có phước thì tai chẳng hề nghe đến cháo kê, chỉ ăn toàn
các loại gạo ngon, mía ngọt, đường phèn, đề-hồ.
“Kinh điển Đại Niết-bàn
vi diệu này
cũng thế. Những kẻ
căn cơ đần độn, ít phước chẳng hề thích nghe. Cũng như những kẻ ít phước kia không ưa
các loại gạo ngon, đường phèn... hàng
Nhị thừa[78]
cũng thế, không ưa kinh Đại Niết-bàn cao trổi nhất này. Như có những
chúng sanh sẵn lòng
ưa thích nghe và
thọ trì kinh này, nghe rồi
vui vẻ, chẳng sanh lòng
phỉ báng, cũng như những người có phước kia, được ăn toàn
các loại gạo ngon.
“Thiện nam tử!
Ví như có một vị vua ở giữa vùng núi non
hiểm trở. Tuy vua ấy có các món mía đường, gạo ngon, đường phèn... nhưng cho là khó kiếm nên
tham tiếc mà tích trữ, chẳng dám ăn vì sợ hết đi, chỉ ăn toàn món cháo kê mà thôi. Có một vị vua nước khác
nghe được chuyện ấy, lấy làm
thương xót và buồn cười, liền cho xe chở gạo ngon, mía đường đến biếu tặng. Vua kia nhận được rồi, liền phân phát rộng ra khắp nước để cùng ăn. Dân chúng ăn xong, lấy làm
vui sướng, nói rằng: ‘Nhờ có vị vua kia nên
chúng ta mới được ăn những món ít có này.’
“Thiện nam tử! Bốn hạng người kia lại cũng như vậy. Họ là những tướng soái của
Đại pháp Vô thượng này. Trong bốn hạng người ấy, như có một người nhìn thấy ở phương khác có
vô số Bồ Tát, dẫu
tu học kinh điển Đại thừa này, tự mình sao chép hay khiến người khác sao chép, vì
lợi dưỡng hay vì
danh dự, hoặc vì muốn
hiểu rõ pháp, hoặc vì muốn làm người cho kẻ khác nương theo, hoặc vì muốn
trao đổi rộng rãi với các kinh khác, nhưng lại chẳng
đủ sức vì người khác mà
giảng thuyết. Nhìn thấy như vậy rồi, vị ấy liền mang
kinh điển vi diệu này đến phương ấy mà tặng cho các
Bồ Tát kia, khiến cho các vị ấy
phát tâm bồ-đề
vô thượng, trụ yên nơi bồ-đề. Các
Bồ Tát ấy được kinh này rồi, liền vì người khác mà giảng rộng, khiến
vô lượng chúng sanh được hưởng thọ vị pháp của
Đại thừa như thế này. Đó đều là nhờ sức của một vị
Bồ Tát mà những ai chưa nghe kinh này thảy đều được nghe, cũng như nhờ sức của vị vua kia mà
ai nấy đều được món ăn ít có.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Kinh điển Đại Niết-bàn
vi diệu này
lưu hành ở xứ nào, nên biết rằng vùng đất đó hẳn là
kim cang, người ở đó cũng như
kim cang. Nếu ai có thể
nghe được kinh này liền không còn
thối chuyển đối với quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, có
cầu nguyện việc chi ắt đều được
thành tựu. Như hôm nay ta
tuyên thuyết ra đây, tỳ-kheo các ông nên khéo
thọ trì. Nếu những
chúng sanh nào chẳng thể
nghe được kinh điển như thế này, nên biết là những người ấy rất đáng
thương xót. Vì sao vậy? Vì những người ấy chẳng
đủ sức thọ trì kinh điển Đại thừa nghĩa lý rất
sâu xa này.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn!
Như Lai nhập Niết-bàn rồi, trong bốn mươi năm
kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn này sẽ được
lưu hành rộng rãi trong cõi Diêm-phù-đề, sau đó thì đành
mai một. Nhưng rồi bao lâu sau nữa sẽ được
xuất hiện trở lại?”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Cho đến khi
Chánh pháp của ta còn ở cõi thế được tám mươi năm, thì trong bốn mươi năm đầu kinh này sẽ đổ cơn mưa pháp lớn ở cõi Diêm-phù-đề.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật: “Thế Tôn! Vào lúc
Chánh pháp đã diệt,
Chánh giới bị
tiêu hủy,
phi pháp tăng trưởng, không có
chúng sanh nào làm theo đúng pháp, liệu còn ai có thể nghe nhận, phụng trì,
đọc tụng kinh này cho
thông thuộc, cùng là
cúng dường,
cung kính, sao chép,
giảng thuyết kinh này? Xin
Như Lai thương xót chúng sanh,
phân biệt thuyết rộng, khiến chư
Bồ Tát nghe rồi
thọ trì;
thọ trì rồi liền không còn
thối chuyển đối với tâm
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”
Lúc ấy, Phật khen Ca-diếp rằng: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Nay ông khéo có thể hỏi ta về nghĩa như vậy.
“Thiện nam tử! Như có
chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát sông Hy-liên mà
phát tâm bồ-đề, thì mới có thể ở vào đời xấu ác ấy[79] mà
thọ trì kinh điển như thế này, chẳng sanh lòng
phỉ báng.
“Thiện nam tử! Như người có thể ở nơi chư
Phật Thế Tôn nhiều như số cát một con
sông Hằng mà
phát tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà chẳng
phỉ báng pháp này, lại
ưa thích kinh điển này, nhưng không thể vì người khác mà
phân biệt giảng rộng.
“Thiện nam tử! Như có
chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát hai
sông Hằng mà
phát tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà chẳng
phỉ báng pháp này, lại hiểu đúng và
tin tưởng,
ưa thích,
thọ trì,
đọc tụng, nhưng cũng không thể vì người khác mà
phân biệt giảng rộng.
“Như có
chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát ba
sông Hằng mà
phát tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà chẳng
phỉ báng pháp này, lại
thọ trì,
đọc tụng, sao chép kinh. Tuy có thể vì người khác
giảng thuyết nhưng chưa giảng được nghĩa sâu.
“Như có
chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát bốn
sông Hằng mà
phát tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà chẳng
phỉ báng pháp này, lại
thọ trì,
đọc tụng, sao chép kinh, vì người khác mà giảng rộng được một phần trong mười sáu phần
nghĩa lý của kinh này. Tuy là
giảng thuyết nhưng cũng chưa được đầy đủ.
“Như có
chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát năm
sông Hằng mà
phát tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà chẳng
phỉ báng pháp này, lại
thọ trì,
đọc tụng, sao chép kinh, vì người khác mà giảng rộng được tám phần trong mười sáu phần
nghĩa lý của kinh này.
“Như có
chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát sáu
sông Hằng mà
phát tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà chẳng
phỉ báng pháp này, lại
thọ trì,
đọc tụng, sao chép kinh, vì người khác mà giảng rộng được mười hai phần trong mười sáu phần
nghĩa lý của kinh này.
“Như có
chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát bảy
sông Hằng mà
phát tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà chẳng
phỉ báng pháp này, lại
thọ trì,
đọc tụng, sao chép kinh, vì người khác mà giảng rộng được mười bốn phần trong mười sáu phần
nghĩa lý của kinh này.
“Như có
chúng sanh nào ở nơi chư Phật nhiều như số cát tám
sông Hằng mà
phát tâm bồ-đề, rồi mới có thể ở vào đời xấu ác ấy mà chẳng
phỉ báng pháp này, lại
thọ trì,
đọc tụng, sao chép kinh, khuyến khích và làm cho người khác sao chép. Tự mình có thể nghe và thọ nhận, lại khuyến khích và làm cho người khác nghe và thọ nhận,
đọc tụng thông thuộc,
kiên trì ủng hộ; vì lòng
thương xót chúng sanh trong
thế gian mà
cúng dường kinh này, lại khuyến khích và làm cho người khác
cúng dường. Đối với các việc như
cung kính,
tôn trọng,
đọc tụng,
lễ bái kinh này, lại cũng
thực hiện đầy đủ như vậy. Người ấy có thể giảng trọn
ý nghĩa kinh này, như là:
Như Lai là
thường trụ, chẳng
biến đổi,
rốt ráo yên vui; giảng rộng nghĩa tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật;
hiểu rõ được chỗ
pháp tạng của
Như Lai. Người ấy đã
cúng dường chư Phật như vậy rồi,
kiến lập Chánh pháp vô thượng như thế này và
thọ trì,
ủng hộ.
“Như có người vừa mới
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nên biết rằng
trong đời vị lai người ấy sẽ có khả năng
kiến lập được
Chánh pháp như thế này và
thọ trì,
ủng hộ. Cho nên hiện nay các ông có thể biết được những người
hộ pháp trong đời vị lai. Vì sao vậy? Vì người vừa mới
phát tâm ấy
trong đời vị lai ắt sẽ
đủ sức hộ trì Chánh pháp vô thượng.
“Thiện nam tử! Có những tỳ-kheo xấu, nghe ta vào Niết-bàn họ chẳng sanh lo buồn, nói rằng: “Hôm nay
Như Lai nhập Niết-bàn, thật
vui thích biết bao!
Như Lai ở đời này luôn ngăn trở sự
lợi dưỡng của
chúng ta. Nay
Như Lai đã nhập Niết-bàn, còn ai ngăn trở làm mất sự
lợi dưỡng của
chúng ta nữa? Nếu chẳng có ai ngăn trở thì
chúng ta lại sẽ được sự
lợi dưỡng như cũ.
Như Lai ở đời này đưa ra những
giới cấm rất
nghiêm khắc. Nay
Như Lai nhập Niết-bàn,
chúng ta sẽ
buông bỏ hết. Áo cà-sa vốn là pháp thức
chúng ta đã
thọ lãnh, từ nay
chúng ta sẽ bỏ đi như tháo bỏ lá phướn trên ngọn cây.” Những kẻ như vậy sẽ
phỉ báng,
chống lại kinh Đại thừa này.
“Thiện nam tử! Nay ông nên ghi nhớ lấy điều này: ‘Chỉ có
chúng sanh nào
thành tựu đầy đủ
vô lượng công đức mới có thể tin được
kinh điển Đại thừa này, tin rồi
thọ trì.
Ngoài ra, trong các
chúng sanh khác còn có những người
ưa thích pháp.
Nếu có thể rộng vì những người ấy mà
giảng thuyết kinh này, họ được nghe rồi thì những
ác nghiệp đã tạo ra trong
vô lượng vô số kiếp đã qua thảy đều
tiêu diệt.
“Những ai chẳng tin
kinh điển này, ở đời
hiện tại sẽ chịu
vô số bệnh khổ não hại, nhiều người trong số ấy thường bị người
mắng nhiếc, làm nhục. Sau khi qua đời sẽ bị người ta khinh chê, lại sanh làm người mặt mũi
hình tướng xấu xí, việc mưu sanh
vất vả khó khăn, thường không được đầy đủ, tuy có kiếm được đôi chút cũng chỉ là những món thô xấu,
tồi tệ. Rồi đời này qua đời khác họ luôn sanh ra trong những cảnh bần cùng, hạ tiện, sanh vào những nhà
tà kiến phỉ báng Chánh pháp.
Cho đến lúc
lâm chung, hoặc gặp buổi
loạn lạc đao binh, vua chúa bạo ngược, hoặc là bị việc xâm hại
bức bách bởi những kẻ oán thù
hiềm khích. Dẫu họ có bạn lành nhưng phải
xa cách chẳng được gặp gỡ. Những thứ
cần dùng trong cuộc sống, mong cầu đều chẳng được. Dẫu có được đôi chút
lợi lạc nhưng thường phải
đói khát. Chỉ những kẻ tầm thường, hạ tiện mới
giao du với họ; hàng
quốc vương, đại thần đều khinh rẻ không biết đến
tên tuổi họ. Như họ có nói ra
điều chi rất
hợp lý cũng chẳng ai tin nhận. Người như vậy không thể sanh về những nơi
tốt đẹp, cũng như con chim bị chặt cánh không thể bay đi. Người này
cũng thế,
trong đời vị lai không thể được sanh về những nơi
tốt đẹp trong
cõi trời người.
“Nếu ai có thể tin vào
kinh điển Đại thừa này, tuy đáng phải
thọ hình tướng thô xấu[80] nhưng nhờ
công đức của kinh nên sẽ được
hình dung đoan chánh, oai nghiêm,
sức mạnh ngày càng tăng. Người ta và
chư thiên đều muốn được gặp gỡ,
cung kính, yêu mến, chẳng muốn rời xa người ấy. Các bậc
quốc vương, đại thần cùng với
thân thuộc của họ, nếu nghe người ấy nói ra điều gì đều
kính trọng tin theo.
“Trong hàng
đệ tử Thanh văn của ta, như ai muốn làm nên việc ít có hơn hết, thì nên vì
thế gian mà giảng rộng
kinh điển Đại thừa như thế này.
“Thiện nam tử!
Ví như sương mù, dù muốn
tồn tại cũng chẳng qua khỏi lúc
mặt trời mọc. Khi
mặt trời đã
hiện ra, liền tan biến chẳng còn gì.
Thiện nam tử!
Nghiệp ác của
chúng sanh lại cũng như vậy,
tồn tại ở đời cũng chẳng qua khỏi lúc
chúng sanh được thấy
mặt trời Đại Niết-bàn. Khi
mặt trời Đại Niết-bàn
xuất hiện liền có thể
tiêu trừ hết thảy các
nghiệp ác.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như có người
cạo tóc xuất gia, tuy mặc áo cà-sa nhưng chưa được thọ
mười giới sa-di.[81] Nếu có người
trưởng giả đến thỉnh
chúng tăng thì người chưa
thọ giới ấy cũng được thỉnh cùng với
đại chúng. Tuy chưa
thọ giới cũng đã được
dự vào hàng
tăng chúng.
Thiện nam tử! Nếu có những
chúng sanh phát tâm bắt đầu
tu học kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn, sao chép và
thọ trì,
đọc tụng kinh thì cũng được giống như vậy, tuy chưa được đầy đủ các
địa vị trong
Thập địa[82] nhưng cũng đã
dự vào trong số
Bồ Tát Thập trụ.[83]
“Như có những
chúng sanh là
đệ tử Phật, hoặc chẳng phải
đệ tử Phật, hoặc vì
tham lam, hoặc vì sợ sệt, hoặc vì
lợi dưỡng mà nghe và
thọ trì kinh này, nghe rồi không chê bai, thậm chí chỉ là một
bài kệ trong kinh, nên biết rằng những người ấy đã được
đến gần quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện nam tử! Vì
nhân duyên ấy, ta dạy rằng có bốn hạng người là chỗ nương theo của
thế gian.
Thiện nam tử!
Không có lý nào mà bốn hạng người ấy đối với những điều Phật đã thuyết lại nói rằng không phải
Phật thuyết.
Vì vậy mà ta nói rằng bốn hạng người ấy là chỗ nương theo của
thế gian.
Thiện nam tử! Các ông nên
cúng dường bốn hạng người ấy.”
Bồ Tát Ca-diếp lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Làm sao chúng con
nhận biết được bốn hạng người ấy để cúng dường?”
Phật dạy Ca-diếp: “Nếu như có người
kiến lập,
hộ trì Chánh pháp thì những hạng người này sẽ
đi theo thưa thỉnh, nên bỏ cả
thân mạng mà
cúng dường. Như ta thuyết dạy trong
kinh Đại thừa này:
Nếu có người biết pháp,
Dù người già, người trẻ,
Nên
thành tâm cúng dường,
Cung kính và
lễ bái,
Như người bà-la-môn,
Thờ phụng vị thần lửa.
Nếu có người biết pháp,
Dù người già, người trẻ,
Nên
thành tâm cúng dường,
Cung kính và
lễ bái,
Cũng như hàng
chư thiên,
Hầu hạ vị Đế-thích.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật có dạy,
cúng dường bậc
sư trưởng nên làm như vậy. Nay con có chỗ nghi, xin Phật giảng rộng. Như có bậc
trưởng lão nghiêm
trì giới luật, theo người trẻ tuổi để
học hỏi và thọ nhận những điều chưa biết, làm sao vị
trưởng lão ấy lại nên
lễ kính [người trẻ tuổi]? Nếu như [vị ấy]
lễ kính [người trẻ tuổi] thì không thể gọi là bậc
trì giới.
“Lại như người trẻ tuổi nghiêm
trì giới luật, theo người cao niên không
giữ giới để
học hỏi và thọ nhận những điều chưa biết, vậy có nên
lễ kính [kẻ
phá giới kia] chăng?
“Như có người
xuất gia theo người
tại gia để
học hỏi và thọ nhận những điều chưa được nghe, có nên
lễ kính [người
tại gia ấy] hay không?
“Theo lý thì người
xuất gia không nên
lễ kính người
tại gia; trong
Phật pháp thì người nhỏ tuổi phải
cung kính bậc cao niên, vì bậc cao niên đã
thọ giới cụ túc trước và
thành tựu các
oai nghi, cho nên phải
cung kính cúng dường. [Nhưng] Phật có dạy: ‘Phật
pháp không chấp nhận những kẻ
phá giới, họ như cỏ dại trong đám ruộng tốt.’
“Lại như Phật vừa dạy: ‘Nếu có người biết pháp, dù người già, người trẻ, nên
thành tâm cúng dường...’
cho đến ‘như hàng
chư thiên hầu hạ vị Đế-thích.’ Hai
bài kệ ấy là nghĩa thế nào? Lẽ nào Phật lại nói ra điều
sai trái hay sao? Như Phật có nói: ‘Tỳ-kheo
trì giới cũng có chỗ sai phạm.’ Vì sao
Như Lai nói ra lời ấy? Lại trong các kinh khác
Thế Tôn có nói: ‘Ta
cho phép trừng trị những kẻ
phá giới.’ Những lời dạy như thế ắt là không rõ nghĩa.”
Phật bảo Ca-diếp: “Thiện nam tử! Ta vì các vị
Bồ Tát tu học Đại thừa trong đời vị lai mà dạy hai
bài kệ trên, chẳng phải vì hàng
đệ tử Thanh văn.
“Thiện nam tử! Như ta đã nói, vào lúc
Chánh pháp đã diệt,
Chánh giới bị
tiêu hủy, những kẻ
phá giới tăng trưởng, những sự
phi pháp phát triển rất mạnh, hết thảy các bậc thánh đều
ẩn dật không
xuất hiện, những tôi trai, tớ gái và những vật
bất tịnh đều được thọ nhận và chứa trữ. Vào
lúc ấy, tất sẽ có một trong bốn hạng người trên
xuất hiện ở
thế gian, cạo bỏ râu tóc
xuất gia tu đạo. Vị ấy nhìn thấy các tỳ-kheo thọ nhận và chứa trữ tôi trai, tớ gái và những vật
bất tịnh, lại không biết thế nào là
trong sạch hay
bất tịnh, cũng không biết thế nào là đúng luật hay không đúng luật. Vị ấy vì muốn
điều phục các tỳ-kheo như vậy nên cùng họ giao tiếp gần gũi, nhưng không nhiễm lấy những
thói xấu của họ.[84] Từ chỗ sở hành của
bản thân cho đến chỗ sở hành của chư Phật, vị ấy đều khéo
phân biệt rõ. Tuy thấy những người phạm các giới ba-la-di[85] nhưng vị ấy lặng thinh chẳng nêu tội ấy ra.[86] Vì sao vậy? Vị ấy nghĩ rằng: ‘Ta ra đời là để
kiến lập và
hộ trì Chánh pháp.’ Cho nên vị ấy lặng thinh chẳng nêu tội ấy ra.
“Thiện nam tử! Người như vậy là vì sự
hộ pháp, nên dù có chỗ
phạm giới cũng chẳng gọi là
phá giới.
“Thiện nam tử!
Ví như có vị
quốc vương mang bệnh băng hà. Vị
trừ quân[87] còn non nớt chưa
đủ sức nối ngôi cai trị. Bấy giờ, có một người chiên-đà-la[88]
giàu có vô cùng, lại có nhiều
quyến thuộc, bèn
dùng sức mạnh của mình,
nhân lúc đất nước
suy yếu mà cướp ngôi vua. Người này làm vua chẳng bao lâu thì những người trong nước,
cư sĩ,[89] bà-la-môn... thảy đều chẳng phục, bỏ trốn sang nước khác. Tuy có những người ở lại, họ cũng chẳng muốn nhìn thấy vua ấy. Nếu có những người
trưởng giả,[90] bà-la-môn... không rời xứ ấy, chỉ như cây cối sanh trưởng ở nơi nào rồi cũng chết tại nơi ấy.[91]
“Vị vua chiên-đà-la biết rằng người trong nước trốn đi rất nhiều, bèn sai những người chiên-đà-la đi tuần trên các nẻo đường trọn bảy ngày, đánh trống truyền lệnh của vua rằng:[92] ‘Trong hàng bà-la-môn, nếu có ai chịu làm vị thầy ban
lễ quán đảnh[93] cho ta, ta sẽ đem phân nửa đất nước mà phong thưởng.’
“Nghe được lời ấy, trong hàng bà-la-môn chẳng có ai tìm đến. Thảy đều nói rằng: ‘Không khi nào có một người dòng bà-la-môn lại chịu làm việc ấy!’
“Vua chiên-đà-la lại nói rằng: ‘Nếu trong hàng bà-la-môn chẳng có ai chịu làm thầy ta, ta sẽ buộc những người bà-la-môn và chiên-đà-la ăn
ở chung cùng
với nhau, cùng làm việc
với nhau.[94] Còn nếu có ai đến làm phép
quán đảnh cho ta, ta sẽ đem phân nửa đất nước mà phong thưởng.
Lời nói ấy chẳng phải là
giả dối.
Thuốc trường sanh thượng diệu
cam lộ của
cõi trời Tam thập tam thiên do
chú thuật mà có được, ta cũng sẽ chia đều cho người ấy cùng hưởng với ta.’
“Lúc ấy có một thầy bà-la-môn tuổi vừa được hai mươi, vâng giữ hạnh
thanh tịnh, để tóc dài,
thông thạo chú thuật, tìm đến chỗ vua tâu rằng: ‘Đại vương! Tôi chịu làm theo lệnh của ngài.’
“Lúc ấy, vị
đại vương lấy làm
vui sướng, liền nhận người thanh niên bà-la-môn ấy làm thầy ban phép
quán đảnh.
Nghe được việc ấy, các vị bà-la-môn đều
nổi giận,
chê trách người trẻ tuổi ấy rằng: ‘Ông là dòng bà-la-môn, sao lại làm thầy
truyền pháp cho người dòng chiên-đà-la?’
“Bấy giờ, vua liền chia phân nửa nước cho thầy bà-la-môn trẻ tuổi ấy, cả hai cùng trị nước qua một
thời gian dài. Rồi thầy bà-la-môn trẻ tuổi ấy mới bảo vua rằng: ‘Tôi đã bỏ cả phép nhà[95] đến đây làm thầy của vua, đã đem
chú thuật vi mật truyền dạy cho vua, nhưng nay vua chưa xem tôi là người thân.’ Vua hỏi: ‘Như hiện nay chẳng phải tôi đã thân với thầy rồi sao?’ Thầy bà-la-môn: ‘Đến nay
chúng ta vẫn chưa cùng hưởng vị
thuốc trường sanh của vua trước để lại.’ Vua nói: ‘Lành thay,
lành thay! Đại sư! Thật tôi chẳng
biết điều ấy, nếu thầy cần xin cứ
lấy đi.’
“Thầy bà-la-môn trẻ tuổi nghe vua nói lời ấy rồi liền lấy thuốc mang về nhà, mời các đại thần cùng đến dùng với mình. Các quan dùng xong, đồng tâu với vua rằng: ‘Vui thay!
Đại sư có thuốc
cam lộ bất tử.’ Vua
biết điều đó, liền trách thầy rằng: ‘Tại sao
đại sư chỉ cùng các quan dùng thuốc
cam lộ ấy mà không thấy chia cho trẫm?’
“Lúc ấy thầy bà-la-môn trẻ tuổi liền lấy loại thuốc trộn lẫn rất nhiều chất độc đưa cho vua uống. Vua uống xong, chỉ trong giây lát thì
hơi thở rối loạn,
mê man té nhào xuống đất, chẳng còn biết gì cả, dường như người đã chết.
“Lúc ấy thầy bà-la-môn trẻ tuổi liền tôn vị
trừ quân của vua trước
lên ngôi, bảo vị ấy rằng: “Nơi tòa
sư tử không nên để cho chiên-đà-la lên ngồi.
Xưa nay, ta chưa từng nghe thấy người chiên-đà-la làm vua bao giờ. Nếu người chiên-đà-la trị nước, chăn dân, đó là việc vô lý! Nay ngài nên
kế vị tiên vương, lấy
Chánh pháp mà trị nước.”
“Bấy giờ, thầy bà-la-môn trẻ tuổi
sắp đặt mọi việc xong rồi, liền lấy
thuốc giải độc cho người chiên-đà-la, khiến cho được
tỉnh lại, rồi đuổi ra khỏi nước.
Lúc ấy, thầy bà-la-môn trẻ tuổi tuy làm
mọi việc như vậy nhưng chẳng để mất khuôn phép dòng bà-la-môn. Những
vị cư sĩ, bà-la-môn khác, khi nghe biết được việc người ấy làm đều khen là việc chưa từng có,
ca ngợi rằng: ‘Lành thay,
lành thay! Nhân giả có tài khéo léo đuổi được vua chiên-đà-la.’
“Thiện nam tử! Sau khi ta vào Niết-bàn, các vị
Bồ Tát hộ trì Chánh pháp cũng làm như thế,
dùng sức phương tiện ở chung với những kẻ
phá giới, giả làm vị tăng thâu nhận và chứa trữ tất cả những vật
bất tịnh, cùng làm công việc giống như họ. Lúc bấy giờ, nếu
Bồ Tát thấy có người phạm nhiều
cấm giới nhưng lại có thể
trừng trị những tỳ-kheo xấu ác
phá hủy giới cấm, liền đến chỗ người ấy,
cung kính lễ bái,
cúng dường đủ bốn việc,[96] dâng lên cho họ đủ thứ kinh sách và
mọi vật.
Như tự mình chẳng có
của cải, liền dùng
phương tiện đến tìm cầu ở người đàn-việt[97] để có mà dâng cho họ. Vì làm việc như vậy, cho nên phải chứa trữ tám thứ vật
bất tịnh.[98] Vì sao vậy? Vì người ấy muốn
sửa trị những tỳ-kheo xấu ác, cũng như thầy bà-la-môn trẻ tuổi kia đuổi người chiên-đà-la vậy. Lúc bấy giờ, vị
Bồ Tát tuy
cung kính lễ bái người ấy, chứa trữ tám thứ đồ vật
bất tịnh, nhưng không có tội. Vì sao vậy? Vì
Bồ Tát ấy muốn
xua đuổi,
trừng trị những tỳ-kheo xấu, làm cho những vị tăng
thanh tịnh được
sống yên ổn, rộng
truyền kinh điển
phương đẳng Đại thừa, làm
lợi ích cho tất cả
chư thiên và
loài người.
“Thiện nam tử! Bởi
nhân duyên ấy, nên trong kinh ta thuyết hai
bài kệ trên, khiến chư
Bồ Tát đều khen ngợi người
hộ pháp, cũng như các hàng
cư sĩ, bà-la-môn kia khen ngợi thầy bà-la-môn trẻ tuổi kia, nói rằng: ‘Lành thay,
lành thay! Bồ Tát hộ pháp phải là như vậy!’
“Nếu ai thấy người
hộ pháp cùng làm công việc với kẻ
phá giới mà cho là có tội, nên biết rằng kẻ ấy tự chịu lấy
tai ương. Người
hộ pháp ấy
thật không có tội.
“Thiện nam tử! Như có thầy tỳ-kheo đã
phạm giới cấm, nhưng vì lòng
kiêu mạn bèn che giấu
tội lỗi, chẳng chịu
sám hối, nên biết rằng người như vậy mới thật là kẻ
phá giới. Còn vị
Đại Bồ Tát, vì việc
hộ pháp, dù có chỗ
phạm giới cũng chẳng gọi là
phá giới. Tại sao vậy? Vì không có lòng
kiêu mạn, biết bày tỏ và
sám hối.
“Thiện nam tử! Cho nên trong kinh ta
che lấp chỗ
hình tướng mà nói kệ rằng:
Nếu có người biết pháp,
Dù người già, người trẻ,
Nên
thành tâm cúng dường,
Cung kính và
lễ bái,
Như người bà-la-môn,
Thờ phụng vị thần lửa.
Lại như
đệ nhị thiên,[99]
Hầu hạ vị Đế-thích.”
“Vì
nhân duyên ấy, ta chẳng vì người
tu học trong hàng
Thanh văn, chỉ vì hàng
Bồ Tát mà nói kệ ấy.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Các vị
Đại Bồ Tát như vậy đối với
giới luật có phần
chểnh mảng. Vậy
giới luật mà họ đã thọ từ trước có còn được nguyên vẹn hay chăng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nay ông chẳng nên nói ra lời ấy. Vì sao vậy?
Giới luật mà các vị
Bồ Tát ấy đã thọ vẫn còn nguyên vẹn chẳng mất.
Ví như có phạm
điều chi, vị ấy liền
tức thời sám hối.
Sám hối rồi liền trở nên
trong sạch.
“Thiện nam tử!
Ví như cái bờ đê cũ, có lỗ thủng bên này
xuyên qua bên kia, tất nhiên nước phải rỉ chảy. Vì sao vậy? Vì không có ai
sửa chữa. Nếu có người
sửa chữa, ắt nước chẳng còn chảy ra.
Bồ Tát cũng thế, tuy cùng với những người
phá giới mà bố-tát,[100]
thọ giới,
tự tứ,[101] làm các việc tăng với họ, nhưng về
giới luật của mình thì chẳng để như bờ đê bị thủng lỗ. Vì sao vậy? Nếu chẳng có những người
giữ giới thanh tịnh thì
chúng tăng phải tổn giảm, những kẻ
kiêu mạn,
chểnh mảng,
biếng nhác ngày càng nhiều hơn. Nếu có những người
giữ giới thanh tịnh thì có thể làm cho đầy đủ, chẳng mất đi
giới luật căn bản.
“Thiện nam tử! Đối với [việc
tu tập]
giáo pháp mà trì trệ mới gọi là
chểnh mảng; đối với
giới luật nếu có chỗ
chậm trễ không gọi là
chểnh mảng. Vị
Đại Bồ Tát đối với
giáo pháp Đại thừa này không có tâm
biếng nhác, ngạo mạn, đó gọi là
giới căn bản. Vì
bảo vệ Chánh pháp nên vị ấy dùng nước
Đại thừa để tự tắm rửa.
Vì vậy nên
Bồ Tát tuy
thị hiện phá giới cũng không gọi là
chểnh mảng.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Trong
chúng tăng có bốn hạng người mà Phật đã dạy. Nhưng
ví như trái am-la, rất khó
phân biệt trái sống với trái chín. Làm sao
nhận biết được là người
trì giới hay phá giới?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Nhờ
kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này, có thể dễ dàng biết được. Vì sao mà nhờ kinh Đại Niết-bàn này có thể biết được?
Ví như người làm ruộng gieo trồng lúa nếp, nhổ bỏ cỏ dại. Lấy
mắt thường mà xem thì ai cũng gọi là đám ruộng sạch cỏ, nhưng đến khi có hạt thì cỏ và lúa tất khác nhau.
“Cũng vậy, tám việc
bất tịnh có thể
ô nhiễm chúng tăng. Như vị nào có thể trừ bỏ được tám việc ấy thì dùng
mắt thường mà xem cũng biết được đó là vị tăng
thanh tịnh.
“Như có những người
trì giới và
phá giới, trong khi không làm việc ác thì khó dùng
mắt thường mà
phân biệt. Nếu như việc ác đã biểu
hiện ra, liền có thể biết được một cách dễ dàng. Cũng như cỏ dại kia đến lúc có hạt thì dễ
phân biệt. Trong
chúng tăng cũng thế. Nếu như ai có thể lìa xa tám việc
bất tịnh, các pháp
độc hại, thì những người ấy gọi là
thánh chúng phước điền, xứng đáng cho
loài người và
chư thiên cúng dường. Chỗ
quả báo thanh tịnh không thể lấy
mắt thường mà
phân biệt được.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như trong rừng ca-la-ca, thứ cây ấy chiếm đa phần, chỉ xen có một cây trấn-đầu-ca. Hai loại trái cây ấy tương tợ như nhau, không thể
phân biệt. Vào mùa trái chín, có một cô gái đến hái. Cô hái được chỉ một phần là trái trấn-đầu-ca mà đến mười phần là trái ca-la-ca. Cô chẳng biết việc ấy, liền mang hết ra chợ bán. Có những đứa nhỏ
ngu dại chẳng biết
phân biệt, mua lấy những trái ca-la-ca, ăn xong thì chết.
“Những người có trí
nghe được chuyện ấy, bèn hỏi cô gái ấy rằng: ‘Chị hái những trái cây ấy ở đâu mang lại đây?’
Lúc ấy, cô gái liền nói ra chỗ hái trái cây. Những người ấy liền nói rằng: ‘Chỗ ấy có rất nhiều cây ca-la-ca, nhưng chỉ có một cây trấn-đầu-ca mà thôi.’ Biết như vậy rồi liền
cười chê mà bỏ đi.
“Thiện nam tử!
Tám pháp bất tịnh ở trong
đại chúng lại cũng như vậy. Trong chúng này có rất nhiều người
thọ dụng tám phép ấy, chỉ có một người
thanh tịnh trì giới, chẳng thọ nhận tám phép
bất tịnh.
Mặc dầu biết rằng những người khác thâu nhận và chứa trữ vật
phi pháp, nhưng người ấy cũng làm việc với họ, chẳng rời bỏ họ, như cây trấn-đầu-ca
duy nhất đứng giữa rừng kia.
“Có người ưu-bà-tắc thấy trong
chúng tăng có nhiều người không theo đúng pháp, cho nên đối với tất cả đều chẳng
cung kính cúng dường. Người ấy nếu muốn
cúng dường, trước hết nên hỏi rằng: ‘Đại đức! Tám việc như vậy có nên thâu nhận và chứa trữ hay chăng? Phật có
cho phép hay chăng? Nếu nói rằng Phật
cho phép, thì những người như vậy có được chung cùng với người
thanh tịnh mà
thi hành các pháp bố-tát, yết-ma và
tự tứ chăng?’
“Người ưu-bà-tắc ấy hỏi như vậy rồi,
chúng tăng đều đáp rằng: ‘Đức Phật vì lòng
thương xót, có
cho phép chứa trữ tám việc như vậy.’ Người ưu-bà-tắc ấy nói rằng: ‘Ở Kỳ-hoàn
tinh xá có những tỳ-kheo nói rằng: Phật
cho phép chứa trữ vàng, bạc. Lại có những tỳ-kheo khác nói rằng: Phật không
cho phép chứa trữ. Những tỳ-kheo nói rằng ‘cho phép’ và những tỳ-kheo nói rằng ‘không cho phép’, hai nhóm tỳ-kheo ấy chẳng
ở chung, chẳng
thuyết giới chung và chẳng
tự tứ với nhau,
cho đến chẳng uống nước chung một dòng sông. Và đồ vật
lợi dưỡng họ cũng chẳng hưởng chung. Như vậy, vì sao các vị lại nói rằng Phật có cho phép?
Đức Phật là bậc cao quý nhất trong tất cả cac
cõi trời, dẫu có thâu nhận đi nữa thì
chúng tăng cũng chẳng nên chứa trữ. Nếu có vị nào thâu nhận tám món
bất tịnh, thì chớ nên
thuyết giới,
tự tứ, yết-ma, làm tăng sự chung với vị ấy. Nếu chung cùng với vị ấy mà
thuyết giới,
tự tứ, yết-ma, làm tăng sự, thì khi thác sẽ đọa nơi
địa ngục, cũng như những người kia ăn nhằm trái ca-la-ca mà chết vậy.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như ở thành thị có người bán thuốc. Người ấy có món thuốc rất hay, có vị ngọt, lấy ở
Tuyết sơn. Người ấy còn bán nhiều món thuốc tạp nhạp khác, cũng có vị ngọt
tương tự.
“Lúc ấy, có những người muốn mua thuốc nhưng chẳng biết
phân biệt. Họ đến chỗ bán thuốc, hỏi rằng: ‘Ông có món thuốc ở
Tuyết sơn chăng?’ Người bán thuốc đáp là có. Người này
dối trá, lấy những món thuốc tạp nhạp mà nói với người mua rằng: ‘Đây là món thuốc rất hay ở
Tuyết sơn, có vị ngọt.’ Bấy giờ, những người mua thuốc lấy
mắt thường mà nhìn nên không thể
phân biệt được, liền mua lấy mang về, lại nghĩ rằng: ‘Nay ta đã có được món thuốc
Tuyết sơn rất hay và có vị ngọt.’
“Ca-diếp! Như trong số tăng ở hàng
Thanh văn, có kẻ
giả danh là tăng, cũng có những vị tăng
chân thật, có
chư tăng hòa hiệp, hoặc
trì giới, hoặc
phá giới. Ở trong chúng đây thì hết thảy đều nên
cúng dường,
cung kính,
lễ bái. Người ưu-bà-tắc kia với
mắt thường không thể
phân biệt, cũng như người mua thuốc chẳng
phân biệt được món thuốc ở
Tuyết sơn. Ai là người trì giới? Ai là kẻ phá giới? Ai là tăng chân chính? Ai là tăng giả danh? Chỉ người có
thiên nhãn mới
phân biệt được.
“Ca-diếp! Như người ưu-bà-tắc biết rằng tỳ-kheo nào đó là người
phá giới, thì chẳng nên
cung cấp đồ thí, chẳng nên
lễ bái cúng dường. Nếu biết rằng người ấy thâu nạp và chứa trữ tám vật
phi pháp, thì cũng chẳng nên
cấp thí những đồ
cần dùng, chẳng nên
lễ bái,
cúng dường. Nếu trong
chúng tăng có người
phá giới, chẳng nên vì lẽ người ấy mặc áo cà-sa mà
cung kính lễ bái.”
Bồ Tát Ca-diếp lại
bạch Phật rằng: “Thế Tôn!
Lành thay,
lành thay! Việc
Như Lai nói đó là
chân thật, chẳng có
giả dối. Con sẽ cúi đầu
thọ lãnh, dường như
kim cang, vật lạ
trân bảo. Như Phật có dạy, các tỳ-kheo nên
y theo bốn pháp. Bốn pháp đó là gì? Đó là:
Y theo pháp chẳng
y theo người,
y theo ý nghĩa chẳng
y theo văn tự,
lời nói;
y theo trí tuệ, chẳng
y theo [nhận] thức,
y theo kinh thật nghĩa
rốt ráo, chẳng
y theo kinh [quyền thừa] không
rốt ráo trọn nghĩa.[102] Bốn
pháp như vậy
cần phải rõ biết [để nương theo], không [nương theo] bốn hạng người [như Phật đã nói].”
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Y theo pháp ấy, tức là Đại Bát Niết-bàn của
Như Lai. Hết thảy pháp Phật đều là tánh pháp. Tánh pháp ấy tức là
Như Lai. Cho nên
Như Lai là
thường trụ, chẳng
biến đổi. Như có ai nói rằng: ‘Như Lai là vô thường’, người ấy không biết, không thấy tánh pháp. Nếu người đã không biết, không thấy tánh pháp thì chẳng nên nương theo.
“Như trên ta đã nói về bốn hạng người ra đời để
bảo vệ giữ gìn Chánh pháp, cần nên rõ biết để nương theo họ. Vì sao vậy? Vì những người ấy
hiểu rõ tạng
bí mật, sâu kín của
Như Lai, nên có thể biết
Như Lai là
thường trụ, chẳng
biến đổi. Như nói rằng
Như Lai là
vô thường,
biến đổi,
thật không có lý như vậy.
“Bốn hạng người như vậy tức là
Như Lai. Vì sao vậy? Vì những người ấy có thể
hiểu rõ những
mật ngữ của
Như Lai và có thể
giảng thuyết. Như ai có thể
hiểu rõ tạng
bí mật sâu thẳm của
Như Lai, và biết
Như Lai là
thường trụ, chẳng
biến đổi, nếu nói rằng người như thế mà vì
lợi dưỡng mới nói rằng: ‘Như Lai là vô thường’ thì thật là
vô lý. Những người như vậy còn có thể nương theo, huống chi lại chẳng nương theo bốn hạng người mà ta đã nói?
“Y theo pháp, tức là tánh pháp; chẳng
y theo người, tức là hàng
Thanh văn. Tánh Pháp là
Như Lai; hàng
Thanh văn là
hữu vi.
Như Lai là
thường trụ,
hữu vi là
vô thường.
“Thiện nam tử! Nếu như người
phá giới, vì
lợi dưỡng mà nói rằng: ‘Như Lai
vô thường, biến đổi’, thì chẳng nên nương theo người ấy.
Thiện nam tử! Đó gọi là nghĩa
quyết định.
“Y theo nghĩa chẳng
y theo văn tự,
lời nói. Nghĩa tức là
sáng suốt,
hiểu biết trọn vẹn.
Hiểu biết trọn vẹn gọi là không
thiếu sót,
yếu kém. Không
thiếu sót,
yếu kém tức là đầy đủ. Nghĩa đầy đủ đó, gọi là
Như Lai thường trụ, chẳng
biến đổi. Nghĩa
Như Lai thường trụ, chẳng
biến đổi tức là
pháp thường. Nghĩa
pháp thường tức là Tăng thường. Đó gọi là
y theo nghĩa chẳng
y theo lời nói.
“Những
văn tự,
lời nói như thế nào là không nên nương theo? Đó là những
văn từ trau chuốt trong các sách luận, cũng nhiều
vô số như
kinh điển Phật đã thuyết, nhưng toàn nói những việc tham cầu không chán,
gian trá nịnh hót,
giả vờ thân cận bợ đỡ để
cầu lợi, thường đến nhà
cư sĩ mà làm công việc cho họ. Lại còn nói rằng: ‘Phật
cho phép các tỳ-kheo chứa trữ tôi tớ và các vật
bất tịnh như: vàng, bạc,
trân bảo, lúa gạo, kho lẫm, bò, dê, voi, ngựa, buôn bán kiếm lời. Vào thuở
mất mùa đói kém vì
thương xót đệ tử, Phật
cho phép tỳ-kheo
để dành đồ vật, tay làm hàm nhai, không thọ nhận mà
vẫn có ăn.’ Những lời như vậy đều chẳng nên nương theo.
“Y theo
trí tuệ chẳng
y theo nhận thức. Nói
trí tuệ tức là
Như Lai. Như có những người
Thanh văn không thể biết rõ
công đức của
Như Lai, chỗ
nhận thức như vậy không nên nương theo. Như người biết rằng
Như Lai tức là
pháp thân, chỗ
trí tuệ chân thật như vậy là nên nương theo.
“Như có người thấy cái thân
phương tiện của
Như Lai bèn nói rằng thân ấy là do các ấm, giới, nhập[103] khống chế, là do
thức ăn mà được nuôi lớn. Chỗ
nhận thức như vậy chẳng nên nương theo. Do đó mà biết được những chỗ
nhận thức chẳng nên nương theo. Như có người nói những lời như trên,
cho đến những kinh sách nào nói như vậy đều chẳng nên nương theo.
“Y theo kinh thật nghĩa
rốt ráo, chẳng
y theo kinh [quyền thừa] không
rốt ráo trọn nghĩa. Kinh không
rốt ráo trọn nghĩa là nói hàng
Thanh văn, nghe đến tạng
bí mật sâu xa của
Phật Như Lai ắt sanh tâm
nghi ngờ, sợ sệt, chẳng biết rằng tạng ấy từ nơi biển
đại trí tuệ mà ra, cũng như trẻ con chưa biết
phân biệt. Đó gọi là không trọn nghĩa. Kinh thật nghĩa
rốt ráo là nói hàng
Bồ Tát trí tuệ chân thật,
tùy theo đại trí vô ngại nơi
tự tâm, cũng như người người đã
trưởng thành hiểu biết tất cả. Đó gọi là
rốt ráo trọn nghĩa.
“Lại nữa,
Thanh văn thừa gọi là không
rốt ráo trọn nghĩa,
Đại thừa vô thượng mới gọi là
rốt ráo trọn nghĩa. Như nói rằng: ‘Như Lai là
vô thường, biến đổi’, đó gọi là không
rốt ráo trọn nghĩa. Như nói rằng: ‘Như Lai là
thường trụ, chẳng biến đổi’, đó gọi là
rốt ráo trọn nghĩa.
“Chỗ thuyết dạy của hàng
Thanh văn nên rõ biết, gọi là không
rốt ráo trọn nghĩa. Chỗ thuyết dạy của hàng
Bồ Tát nên rõ biết, gọi là
rốt ráo trọn nghĩa. Nếu nói rằng: ‘Như Lai nhờ
ăn uống mà được nuôi lớn’, đó là không
rốt ráo trọn nghĩa. Nếu nói: ‘Như Lai là
thường trụ, chẳng biến đổi’, đó là
rốt ráo trọn nghĩa. Nếu nói rằng: ‘Như Lai nhập Niết-bàn, như củi hết thì lửa tắt’, đó gọi là không
rốt ráo trọn nghĩa. Nếu nói rằng: ‘Như Lai
thể nhập pháp tánh’,[104] đó gọi là
rốt ráo trọn nghĩa.
“Không nên nương theo pháp của
Thanh văn thừa. Vì sao vậy?
Như Lai vì muốn
hóa độ chúng sanh nên
dùng sức phương tiện giảng thuyết Thanh văn thừa, cũng như
trưởng giả kia dạy con những điều
sơ học.
“Thiện nam tử!
Thanh văn thừa cũng
ví như lúc mới cày ruộng, chưa gặt lúa. Như vậy gọi là không
rốt ráo trọn nghĩa.
Vì vậy chẳng nên nương theo
Thanh văn thừa. Nên nương theo pháp
Đại thừa. Vì sao vậy? Vì
Như Lai muốn độ
chúng sanh nên
dùng sức phương tiện giảng thuyết Đại thừa,
vì vậy nên nương theo. Như vậy gọi là
rốt ráo trọn nghĩa.
“Bốn
pháp y theo như vậy,
cần phải rõ biết.
“Lại nữa, nói
y theo nghĩa, nghĩa gọi là thật thà
thẳng thắn. Thật thà
thẳng thắn gọi là
sáng tỏ rõ ràng.
Sáng tỏ rõ ràng gọi là không thiếu kém. Không thiếu kém gọi là
Như Lai.
“Lại nữa,
sáng tỏ rõ ràng gọi là
trí tuệ. Thật thà
thẳng thắn gọi là
thường trụ.
“Như Lai thường tồn, gọi là
y theo pháp. Pháp gọi là thường, cũng gọi là không bờ bến, không thể nghĩ bàn, không thể cầm nắm, không thể bị
trói buộc, nhưng có thể thấy được. Như có người nói rằng: “không thể thấy được”, thì chẳng nên nương theo người ấy.
Vì vậy cho nên
y theo pháp chẳng
y theo người. Như có người nào dùng
lời nói vi diệu mà thuyết lẽ
vô thường, thì chớ nên nương theo lời ấy.
Vì vậy cho nên
y theo nghĩa chứ chẳng
y theo lời nói,
văn tự.
“Nói
y theo trí, đó là:
chúng tăng là thường,
vô vi, chẳng
biến đổi, chẳng chứa trữ tám thứ vật
bất tịnh. Vậy nên
y theo trí tuệ chẳng
y theo thức. Như có kẻ nói rằng: ‘Do thức tạo tác nên thức nhận chịu. Không có
chúng tăng hòa hiệp. Vì sao vây? Hòa hiệp đó gọi là không
sở hữu gì cả. Không
sở hữu gì cả thì sao gọi là thường?” Vì thế nên chỗ
nhận thức như vậy không thể nương theo.
“Nói
y theo chỗ
rốt ráo trọn nghĩa,
rốt ráo trọn nghĩa đó gọi là biết đủ, không bao giờ giả hiện
oai nghi thanh bạch, không
kiêu mạn tự cao, không tham
cầu lợi dưỡng. Lại cũng
không chấp trước các pháp mà
Như Lai tùy nghi phương tiện thuyết dạy. Đó gọi là
rốt ráo trọn nghĩa. Như ai có thể trụ ở chỗ như vậy, thì nên biết rằng người đó đã trụ ở
đệ nhất nghĩa.[105]
Vì vậy nên gọi là:
y theo kinh
rốt ráo trọn nghĩa, chẳng
y theo kinh không
rốt ráo trọn nghĩa.
“Chỗ không
rốt ráo trọn nghĩa đó, như trong kinh nói rằng hết thảy đều cháy thiêu, hết thảy đều
vô thường, hết thảy đều là khổ, hết thảy đều là không, hết thảy đều là
vô ngã, đó gọi là không
rốt ráo trọn nghĩa. Vì sao vậy? Vì không hiểu trọn những nghĩa như vậy, nên
chúng sanh đọa vào
địa ngục A-tỳ. Vì sao vậy? Vì
chấp trước nên không hiểu được
rốt ráo trọn nghĩa. Hết thảy đều cháy thiêu, lại hiểu rằng
Như Lai dạy Niết-bàn cũng cháy thiêu; hết thảy đều
vô thường, lại hiểu rằng
Như Lai dạy Niết-bàn cũng là
vô thường. Đối với những lẽ khổ, không,
vô ngã cũng hiểu sai như vậy! Cho nên gọi là hiểu không
rốt ráo trọn
nghĩa kinh, chẳng nên nương theo.
“Thiện nam tử! Như có người nói rằng: ‘Như Lai
thương xót tất cả
chúng sanh, khéo biết rõ lúc nào nên làm việc gì. Vì biết được lúc
thích hợp, nên nói việc khinh là trọng, việc trọng là khinh.
Như Lai xét biết có những
đệ tử được đàn-việt
cung cấp những vật
cần dùng, không hề
thiếu hụt. Đối với những người ấy, Phật không
cho phép thâu nạp và chứa trữ tôi tớ, vàng, bạc,
của cải,
vật báu, cùng là buôn bán đổi chác những vật
bất tịnh. Nếu những
đệ tử không có đàn-việt
cung cấp những vật
cần dùng, gặp khi
mất mùa đói khổ, khó tìm món ăn vật uống; vì muốn
kiến lập,
hộ trì Chánh pháp, Phật
cho phép những
đệ tử ấy thâu nạp và chứa trữ tôi tớ, vàng, bạc, xe cộ, ruộng vườn, lúa thóc và đổi chác
mua bán để chi dùng.
Mặc dầu được phép thâu nạp và chứa trữ những vật như vậy, nhưng
cần phải tịnh thí, làm cho đàn-việt thêm
lòng tin tưởng.’ Nói như vậy là hợp với bốn
pháp như trên, hãy nương theo đó. Như có kinh, luật, luận nào chẳng
trái với bốn pháp trên thì cũng nên nương theo.
“Như có người nói rằng: ‘Dù là lúc
thích hợp hay chẳng
thích hợp, dù có người thể
hộ pháp hay không thể
hộ pháp,
Như Lai đều
cho phép tất cả tỳ-kheo thâu nạp và chứa trữ các vật
bất tịnh kia.”
Lời nói như vậy chẳng nên nương theo. Như trong các kinh, luật, luận nào có chỗ nói như
vậy thì cũng chẳng nên nương theo.
“Ta vì những
chúng sanh mắt thịt mà
giảng thuyết bốn pháp nương theo này, chẳng phải vì người có
tuệ nhãn.
“Vì
vậy mà nay ta
giảng thuyết bốn chỗ nương theo: pháp tức là tánh pháp, nghĩa tức là
Như Lai thường trụ, chẳng
biến đổi; trí tức là biết rõ tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật; hiểu nghĩa
rốt ráo trọn vẹn là
thông đạt hết thảy
kinh điển Đại thừa.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN SÁU
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN BẢY
PHẨM TÁNH
NHƯ LAIPhẩm thứ tư – Phần bốn[106]
Lúc ấy Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Như vậy có phải là nên nương tựa,
y theo bốn hạng người Phật đã nói trên?”
Phật dạy: “Đúng vậy, đúng vậy!
Thiện nam tử! Như ta đã nói, nên nương tựa,
y theo những người như thế. Vì sao vậy? Vì có bốn thứ ma. Bốn thứ ma ấy là gì? Là ma
phiền não, ma
năm ấm, ma chết, và ma của cảnh
trời Tha hóa tự tại. Những kinh luật khác mà các loài ma ấy thuyết dạy cũng có người
thọ trì.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Như Phật vừa nói có bốn thứ ma. Chúng con làm sao có thể
phân biệt những điều
Phật thuyết dạy với những điều ma thuyết dạy? Có những
chúng sanh theo hạnh của ma, lại có những
chúng sanh vâng lời Phật dạy, chúng con làm sao biết được?”
Phật dạy
Bồ Tát Ca-diếp: “Bảy trăm năm sau khi ta nhập Niết-bàn, bọn ma Ba-tuần[107] sẽ
dần dần làm hư hoại
Chánh pháp.
Ví như người thợ săn mặc vào
y phục người
tu hành,
Ma vương Ba-tuần cũng vậy. Chúng
giả dạng tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, lại hóa hình các vị Tu-đà-hoàn đến A-la-hán,[108]
cho đến sắc thân Phật. Với
hình hài hữu lậu,[109]
Ma vương giả làm thân
vô lậu để
phá hoại Chánh pháp. Đến lúc ma Ba-tuần
phá hoại Chánh pháp, chúng sẽ nói rằng: ‘Thuở xưa
Bồ Tát ở trên trời Đâu-suất,[110] chết đi rồi mới sanh về thành Ca-tỳ-la nơi cung vua Bạch Tịnh.[111] Đó là nhân chỗ
cha mẹ ái dục hòa hợp mà sanh ra thân ấy.’
“Hoặc nói rằng: ‘Nếu ai sanh trong
cõi người mà được
đại chúng chư thiên và
nhân loại thế gian cung kính, đó là sự
vô lý.’
“Ma lại nói rằng: ‘Từ thuở
xưa kia, ngài đã từng
tu khổ hạnh và
bố thí mọi thứ, như: đầu, mắt, tuỷ não, thành quách, giang sơn,
cho đến vợ con. Nhờ vậy, nay ngài được
thành Phật đạo. Bởi
nhân duyên ấy, ngài được sự
cung kính của các loài
chúng sanh:
loài người,
chư thiên, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già.’
“Nếu có kinh luật nào thuyết dạy như thế, nên biết rằng đó là thuyết của ma.
“Thiện nam tử! Như có kinh luật nào nói rằng: ‘Như Lai
chánh giác thành Phật đã lâu rồi, nay mới
thị hiện thành Phật đạo. Vì ngài muốn
độ thoát các
chúng sanh nên
thị hiện có
cha mẹ, nương theo chỗ
ái dục hòa hợp của
cha mẹ mà sanh ra. Ngài
tùy thuận thế gian nên làm việc như vậy.’ Nên biết rằng kinh luật như thế thật là chỗ thuyết dạy của
Như Lai.
“Nếu ai
tùy thuận thuyết của ma, người ấy là
quyến thuộc của ma. Như ai có thể
tùy thuận kinh luật mà Phật đã thuyết, tức nhiên đó là
Bồ Tát.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Lúc mới sanh
Như Lai hướng về
mười phương đi bảy bước theo mỗi phương. Điều ấy không thể tin.’ Đó là thuyết của ma.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Lúc mới ra đời,
Như Lai hướng về
mười phương đi bảy bước theo mỗi phương, đó là
phương tiện thị hiện của
Như Lai.’ Như vậy gọi là kinh luật mà
Như Lai đã thuyết.
“Nếu ai
tùy thuận thuyết của ma, người ấy là
quyến thuộc của ma. Như ai có thể
tùy thuận kinh luật mà Phật đã thuyết, tất nhiên đó là
Bồ Tát.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Khi
Bồ Tát sanh ra rồi, vua cha sai người đưa Ngài đến
thiên từ.[112]
Chư thiên được
thờ phụng nơi đó thấy Ngài vào thảy đều
bước xuống lễ kính Ngài.
Vì vậy nên
ai nấy đều tôn xưng ngài là Phật.’
“Lại có kẻ
vấn nạn rằng: ‘Chư thiên
xuất hiện trước, Phật ra
đời sau; như vậy làm sao
chư thiên lễ kính Phật?’ Nên biết rằng lời
vấn nạn như vậy tức là thuyết của Ma Ba-tuần.
“Như có kinh nói rằng: ‘Khi Phật bước vào miếu thờ
thiên thần, các tượng thần và
chư thiên nơi ấy như Ma-hê-thủ-la,
Đại Phạm thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân thảy đều
chắp tay,
kính lễ dưới
chân Phật.’ Kinh luật như vậy là thuyết của Phật.
“Nếu ai
tùy thuận thuyết của ma, người ấy là
quyến thuộc của ma. Như ai có thể
tùy thuận kinh luật mà Phật đã thuyết, tất nhiên đó là
Bồ Tát.
“Như có kinh luật nói rằng: ‘Khi
Bồ Tát làm
thái tử, vì lòng tham Ngài đi bốn phương tìm cưới vợ, rồi Ngài ở nơi thâm cung hưởng thụ năm thứ
dục lạc,[113]
vui sướng đủ điều.’ Kinh luật như thế là do Ma Ba-tuần nói ra vậy.
“Như có thuyết nói rằng: ‘Bồ Tát đã
lìa bỏ lòng tham đối với
vợ con,
gia thuộc từ lâu,
cho đến đối với việc
thụ hưởng năm thứ
dục lạc thượng diệu ở
cõi trời Ba mươi ba[114] ngài cũng chỉ cũng
xem như đàm dãi nhơ nhớp, huống chi là sự
vui thích ở nhân gian? [Vì thế,] ngài cạo bỏ râu tóc,
xuất gia tu học đạo.’ Kinh luật như thế là do
Phật thuyết.
“Nếu ai
tùy thuận thuyết của ma, người ấy là
quyến thuộc của ma. Như ai có thể
tùy thuận kinh luật mà Phật đã thuyết, tất nhiên đó là
Bồ Tát.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Khi Phật ở tại thành Xá-vệ, trong
tinh xá Kỳ-đà, ngài có
cho phép các tỳ-kheo
thu nhận và chứa trữ những thứ như nô tỳ, tôi tớ, bò, dê, voi, ngựa, lừa, la, gà, heo, mèo, chó, vàng, bạc,
lưu ly, chân châu,
pha lê,
xa cừ,
mã não,
san hô,
hổ phách,
ngọc thạch, ngọc bích, nồi đồng và nồi sắt, mâm đồng lớn và mâm đồng nhỏ, cùng
mọi vật dụng...; có
cho phép làm ruộng, làm vườn, buôn bán đổi chác, chứa trữ thóc lúa... Vì lòng
đại từ thương xót chúng sanh, Phật cho chứa trữ
mọi vật ấy và làm
mọi việc như vậy.’ Kinh luật như thế là do ma thuyết.
“Như có người nói rằng: ‘Khi Phật ở tại thành Xá-vệ, trong
tinh xá Kỳ-đà, xứ sở của quỷ Na-lê-lâu.
Lúc ấy, nhân vì ông bà-la-môn Cổ-đê-đức cùng vua Ba-tư-nặc,
Như Lai có dạy rằng: Tỳ-kheo chẳng nên
thu nhận và chứa trữ vàng, bạc,
lưu ly,
pha lê, chân châu,
xa cừ,
mã não,
san hô,
hổ phách,
ngọc thạch, ngọc bích, nô tỳ, tôi tớ, đồng nam,
đồng nữ,
các loại thú vật như: bò, dê, voi, ngựa, lừa, la, gà, heo, mèo, chó, nồi đồng và nồi sắt, mâm đồng lớn và mâm đồng nhỏ, và mọi thứ giường, mùng, chiếu, gối nhiều màu sắc...
“[Vị tỳ-kheo cũng không nên làm] những việc mà người đời cần đến để mưu sanh như làm nhà cửa, làm ruộng, làm vườn, buôn bán, đổi chác, tự làm
thức ăn, xay gạo, giã gạo, luyện
chú thuật giữ mình, tập luyện chim ưng dùng để đi săn,
xem sao đoán mệnh,
suy tính việc nên hư,
xem tướng kẻ nam người nữ, theo
chiêm bao mà đoán những
việc lành dữ, [hoặc đoán
thai nhi] là nam, là nữ, hay chẳng phải nam chẳng phải nữ... sáu mươi bốn nghề giỏi; lại có mười tám phép
chú thuật lừa dối người, các thứ nghề khéo léo, hoặc nói
vô số việc thông tục của người đời; dùng hương tán, hương bột, hương phết, hương xông, mọi thứ hoa kết lại; làm nghề hớt tóc, sửa tóc,
gian tà bợ đỡ,
tham lợi không chán,
vui thích chỗ náo nhiệt, nói chuyện giỡn cười, tham ăn cá thịt, pha chế thuốc độc, dù thơm, dùng dù lọng quý, đi giày da, làm ra quạt lông, rương trấp, các thứ hình vẽ; chứa trữ lúa thóc,
các loại lúa mạch,
các loại đậu cùng các thứ dưa, trái...
“[Vị tỳ-kheo cũng không được] gần gũi
thân mật với vua chúa, con vua, quan chức cao cấp cùng các
phụ nữ, nói cười lớn tiếng hoặc nín lặng, không nói năng chi cả; thường
nghi ngờ đối với các pháp,
hay nói bậy bạ, chuyện dài, vắn, tốt, xấu, lành, dữ, ưa mặc áo đẹp...
“Nếu người
xuất gia tự mình khen ngợi các sự việc
bất tịnh như thế
trước mặt thí chủ, lại vào ra, đi chơi đến những chỗ
bất tịnh như tiệm bán rượu, nhà
dâm nữ, chỗ cờ bạc... những người như vậy, Phật chẳng cho
ở chung với các tỳ-kheo. Họ nên ra khỏi
tăng đoàn,
hoàn tục mà làm hạng tôi tớ trong
thế gian cho người khác
sai khiến. Họ
ví như cỏ dại lẫn trong đám lúa,
cần phải loại bỏ đi.’
“Những kinh luật nào dạy như trên, nên biết rằng đều là thuyết của
Như Lai.
“Nếu ai
tùy thuận thuyết của ma, người ấy là
quyến thuộc của ma. Như ai
tùy thuận thuyết của Phật, người ấy tức là
Bồ Tát.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Bồ Tát vì muốn
cúng dường thiên thần nên vào miếu thần, như những chỗ thờ
Đại tự tại thiên, Vi-đà thiên, Ca-chiên-diên thiên...’ [
Lời nói như vậy là không đúng, vì]
sở dĩ Phật vào những nơi đó là để
điều phục cả hàng trời, người. Nếu nói rằng không phải như
vậy thì thật là vô lý!
“Lại như có kẻ nói rằng: ‘Bồ Tát không thể vào nơi
ngoại đạo tà luận để biết
oai nghi của họ,
văn chương và kỹ nghệ của họ, không thể
hòa hợp với bọn đánh thuê, chẳng nhận sự
cung kính của kẻ nam, người nữ,
quốc vương, đại thần, cũng chẳng biết pha chế các món thuốc. Vì chẳng biết các việc như vậy mới xưng là
Như Lai, nếu biết là thuộc về bọn
tà kiến. Lại nữa,
Như Lai có lòng
bình đẳng đối với kẻ oán và người thân, như có người dùng dao cắt thịt ngài hay có người dùng hương thơm thoa phết lên thân ngài, đối với hai người ấy ngài đều không xem là có sự
tốt hơn hay
tổn hại gì cả. Ngài chỉ giữ mức khoảng giữa, cho nên mới được xưng là
Như Lai.’ Kinh luật như vậy, nên biết rằng đó là chỗ thuyết của ma.
“Như có người nói rằng: ‘Bồ Tát
thị hiện vào miếu thờ
thiên thần và ở trong pháp
ngoại đạo xuất gia tu đạo;
thị hiện biết
oai nghi, lễ tiết của
ngoại đạo và thế nhân,
hiểu rõ tất cả
văn chương, kỹ nghệ của họ,
thị hiện vào thư đường, những chỗ kỹ xảo, khéo
hòa hợp với bọn đánh thuê; đối với
đại chúng, đồng nam,
đồng nữ, hoàng hậu,
cung phi, mỹ nữ,
nhân dân,
trưởng giả, bà-la-môn, vua chúa, đại thần,
cho đến hạng bần cùng, ngài là bậc tối tôn
tối thượng. Ngài lại được các hạng người ấy
cung kính, Ngài cũng có thể
thị hiện làm
mọi việc vừa kể đó. Tuy ở nơi những người
tà kiến, nhưng ngài chẳng có lòng
luyến ái, dường như
hoa sen không nhiễm bụi dơ. Vì độ tất cả
chúng sanh, ngài khéo
thi hành mọi
phương tiện ấy,
tùy thuận thế pháp.’ Kinh luật như vậy, nên biết chính là chỗ thuyết dạy của
Như Lai.
“Nếu ai
tùy thuận thuyết của ma, người ấy là
quyến thuộc của ma. Như ai có thể
tùy thuận thuyết của Phật thì người ấy là
Đại Bồ Tát.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Như Lai vì
chúng tôi mà
giải thuyết kinh luật. Như nói rằng trong các pháp xấu ác, dù tội nặng,
tội nhẹ hay tội thâu-lan-già[115] thì tánh tội đều là nặng, trong
giới luật của
chúng tôi hoàn toàn không phạm vào. Từ lâu
chúng tôi thọ lãnh và làm theo những pháp mà các ông chẳng tin.
Chúng tôi lẽ nào lại bỏ
giới luật của mình để theo
giới luật của các ông sao?
Giới luật của các ông là do ma thuyết;
giới luật của
chúng tôi mới là do Phật chế định.
Đức Như Lai trước đã nói ra
pháp ấn chín bộ.[116] Chín cái ấn ấy in sâu vào kinh luật của
chúng tôi;
chúng tôi chưa hề nghe một câu, một chữ nào về
kinh điển Phương đẳng.
Như Lai diễn thuyết vô lượng kinh luật, nhưng
thuyết kinh Phương đẳng ở nơi nào? Trong kinh luật
chúng tôi chưa từng nghe nhắc đến tên mười bộ kinh![117] Nếu có thì nên biết
chắc chắn là do Điều-đạt[118] làm ra. Điều-đạt là người ác, vì muốn
diệt pháp lành nên tạo ra
kinh Phương đẳng.
Chúng ta chẳng tin những kinh như vậy, vì chính ma thuyết diễn kinh ấy. Tại sao vậy? Đã
phá hoại Phật pháp, lại còn nói lời
phải trái đảo điên. Những lời như vậy chỉ có trong kinh của các ông mà chẳng có trong kinh của
chúng tôi. Trong kinh luật của
chúng tôi,
Như Lai có nói rằng: ‘Sau khi ta vào Niết-bàn, ở cõi đời xấu ác sẽ có kinh luật
bất chánh gọi là
Đại thừa Phương đẳng kinh điển.’ Ở đời
vị lai, sẽ có những tỳ-kheo xấu như vậy.
“Phật có dạy rằng: ‘Vượt hơn cả
chín bộ kinh có
kinh điển Phương đẳng.’ Như ai có thể thấu hiểu được nghĩa này, thì nên biết rằng người ấy thấu hiểu kinh luật một cách
đúng đắn, lìa xa tất cả những sự vật
bất tịnh, [luôn] nhiệm mầu
trong sáng như vầng trăng tròn.
“Nếu có người nói rằng: ‘Như Lai đối với hết thảy kinh luật, thuyết dạy
nghĩa lý nhiều như cát
sông Hằng, nhưng trong luật của
chúng tôi lại chẳng có những
nghĩa lý ấy, nên
chúng tôi biết là không có. Nếu là có, tại sao trong luật của
chúng tôi không thấy
Như Lai giảng thuyết?
Vì vậy nên nay
chúng tôi không thể tin nhận.’ Nên biết rằng những người nói như vậy là có tội.
“Kẻ ấy lại nói rằng: ‘Kinh luật [của
chúng tôi] như thế này mới nên
thọ trì. Vì sao vậy? Vì kinh luật ấy giúp tôi được ít
tham muốn, biết đủ, dứt
trừ phiền não; vì đó là
trí huệ Niết-bàn, tạo được
nhân pháp lành.’ Người nói như vậy chẳng phải là
đệ tử của ta.
“Như có người nói rằng: ‘Vì muốn độ
chúng sanh,
Như Lai có
thuyết giảng kinh Phương đẳng.’ Nên biết rằng, người nói như vậy thật là
đệ tử của Phật. Nếu ai chẳng
thọ trì kinh Phương đẳng, nên biết rằng người ấy chẳng phải
đệ tử Phật, chẳng phải vì
Phật pháp mà
xuất gia, tức là
đệ tử của bọn
ngoại đạo tà kiến.
“Kinh luật đúng như [đã
phân biệt trên đây] là do
Phật thuyết dạy, bằng không phải như vậy tức là do ma thuyết. Nếu ai
tùy thuận chỗ thuyết của ma, người ấy là
quyến thuộc của ma. Nếu ai
tùy thuận chỗ thuyết của Phật, tất nhiên người ấy là
Bồ Tát.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như có kẻ nói rằng: ‘Như Lai chẳng phải do
vô lượng công đức mà
thành tựu, ngài vẫn là
vô thường,
biến đổi, bởi ngài
đạt được chỗ
pháp không nên
tuyên thuyết lẽ
vô ngã, nghịch với
thế gian.’ Kinh luật như vậy gọi là chỗ thuyết của ma.
“Như có người nói rằng: ‘Như Lai
Chánh giác không thể nghĩ bàn, lại do
vô lượng công đức mà
thành tựu, cho nên
Như Lai là
thường trụ, không hề
biến đổi.’ Kinh luật như vậy mới là chỗ thuyết dạy của Phật.
“Nếu ai
tùy thuận thuyết của ma, người ấy là
quyến thuộc của ma. Nếu ai
tùy thuận thuyết của Phật tức là
Bồ Tát.
[119]“Như có tỳ-kheo thật chẳng
phạm tội ba-la-di.[120]
Mọi người đều cho rằng
phạm tội ba-la-di là giống như cây đa-la bị chặt.[121] Nhưng tỳ-kheo ấy
thật không có
phạm tội chi cả. Vì sao vậy? Ta thường dạy rằng: ‘Trong bốn tội ba-la-di, nếu phạm một tội thì như hòn đá bị tách ra, không thể gắn liền lại nữa.’ Nếu ai tự nói rằng mình
chứng đắc quả thánh[122] thì kẻ ấy gọi là phạm ba-la-di. Vì sao vậy? Vì
thật không có chỗ
đắc pháp mà
cố ý giả
hiện hình tướng
đắc pháp. Người như vậy là gây nhân
tội lỗi khiến
đời sau chẳng được làm người.[123] Đó gọi là ba-la-di.
“Như có vị tỳ-kheo ít
tham muốn, biết đủ,
giữ giới thanh tịnh, ở nơi vắng vẻ yên tĩnh. Đức vua hoặc các
quan đại thần nhìn thấy tỳ-kheo ấy, nghĩ rằng vị ấy đã
đắc quả A-la-hán, liền đến trước vị ấy mà
tán thán,
cung kính lễ bái, nói rằng: ‘Vị
đại sư như thế này, sau khi bỏ thân sẽ
đạt được quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’
“Nghe được lời ấy, vị tỳ-kheo liền đáp rằng: ‘Thật tôi chưa được
đạo quả sa-môn, xin
đại vương đừng
xưng tán rằng tôi đã
chứng đắc đạo quả. Xin
đại vương đừng nói lời [khiến tôi thành kẻ] không tự biết đủ.[124] Không tự biết đủ, đó là khi nghe người khác bảo rằng mình
chứng đắc quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề mà lặng thinh
chấp nhận. Nếu nay tôi lặng thinh
chấp nhận điều ấy, chư Phật sẽ
quở trách. Chư Phật thường khen ngợi hạnh tự biết đủ, nên tôi
trọn đời vui vẻ tu tập theo hạnh tự biết đủ. Tự biết đủ, đó là tôi tự biết chắc mình chưa
chứng đắc đạo quả, nay
đại vương xưng tán rằng tôi đã
đắc quả, tôi không dám nhận, đó gọi là tự biết đủ.’
“Đức vua nói rằng: ‘Đại sư [khiêm cung như thế]
quả thật đã
đắc quả A-la-hán, như Phật không khác.’ Liền tuyên cáo với tất cả
nhân dân trong thành, ngoài thành, cùng các phi tần trong cung, rằng vị tỳ-kheo ấy đã
đắc quả sa-môn. Nhờ vậy, những ai nghe biết thảy đều đem lòng
cung kính tin theo,
cúng dường tôn trọng vị tỳ-kheo ấy.
“Như vị tỳ-kheo ấy mới thật là người
đức hạnh thanh tịnh, là
nhân duyên giúp cho nhiều người được
phước đức lớn. Tỳ-kheo như vậy
thật không hề
phạm tội ba-la-di. Vì sao vậy? Vì những người đến trước vị ấy đều tự sanh lòng
hoan hỷ,
tán thán,
cúng dường. Vị tỳ-kheo như vậy làm sao lại phạm tội? Nếu như nói rằng tỳ-kheo ấy có tội, thì nên biết rằng đó là
kinh điển do ma thuyết.
“Lại có tỳ-kheo
giảng thuyết theo
kinh điển trong kho tàng
giáo pháp rất
sâu xa của Phật rằng: ‘Tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật; nhờ tánh Phật ấy có thể dứt trừ được các dây
trói buộc của
vô lượng phiền não, đắc
thành quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, chỉ trừ hạng nhất-xiển-đề mà thôi.’ Nếu có đức vua hoặc đại thần thưa hỏi rằng: ‘Tỳ-kheo! Ông sẽ
thành Phật hay chẳng thành Phật? Ông có tánh Phật hay chăng?’ Tỳ-kheo ấy đáp rằng: ‘Hiện nay trong thân tôi
quyết định có tánh Phật; còn việc
thành Phật hay không chưa thể biết rõ.’ Vua nói: ‘Đại đức!
Nếu không phải kẻ nhất-xiển-đề thì
chắc chắn sẽ
thành Phật.’ Tỳ-kheo ấy đáp rằng: ‘Đúng vậy,
quả thật như lời đại vương!’ Dù vị ấy nói chắc rằng mình có tánh Phật, cũng chẳng
phạm tội ba-la-di.
“Lại có vị tỳ-kheo, ngay lúc
xuất gia,
suy xét như thế này: ‘Nay tôi
quyết định sẽ thành
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’ Người như vậy, dù chưa đắc
thành đạo quả
vô thượng, nhưng cũng đã được phước
vô lượng vô biên.
Giả sử có ai nói rằng người ấy phạm ba-la-di, thì tất cả các tỳ-kheo không ai là chẳng phạm. Vì sao vậy? Ta đây thuở xưa trong tám mươi
ức kiếp, thường
xa lìa tất cả
mọi vật bất tịnh, ít
tham muốn, biết đủ,
trọn vẹn oai nghi, khéo tu theo
Chánh pháp vô thượng của
Như Lai, nên cũng tự biết chắc rằng mình có tánh Phật. Nhờ đó nay ta đắc thành
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, được xưng là Phật, có
đại từ bi.
“Kinh luật như trên là do
Phật thuyết. Nếu những ai chẳng có thể
tùy thuận theo đó, ấy là
quyến thuộc của ma. Như ai
tùy thuận theo đó tức là
Đại Bồ Tát.
“Nếu có kẻ nói rằng: ‘Không có bốn tội ba-la-di, mười ba tội
tăng tàn,[125] hai pháp
bất định,[126] ba mươi tội
xả đọa,[127] chín mươi đơn đọa,[128] bốn pháp
sám hối,[129] một trăm điều phải học,[130]
bảy pháp dứt sự tranh cãi[131].v.v... không có cả tội thâu-lan-già,
năm tội nghịch[132] cùng tội nhất-xiển-đề. Như tỳ-kheo phạm một trong những tội ấy thì phải đọa
địa ngục, còn
ngoại đạo thì được sanh
cõi trời. Vì sao vậy? Vì
ngoại đạo không có giới nào để phạm cả. Giới đó là do
Như Lai vì muốn cho người ta khiếp sợ nên mới
thị hiện thuyết dạy vậy thôi.’
“Lại có kẻ nói rằng: ‘Phật có dạy: Các tỳ-kheo nếu muốn hành dâm thì nên cởi
pháp phục,[133] mặc
y phục thế tục rồi hãy làm việc
dâm dục. Lại nữa, nên
nghĩ tưởng rằng: Nếu ta làm chuyện
dâm dục thì không có
tội lỗi. Lúc
Như Lai còn
tại thế, cũng có những tỳ-kheo
quen làm chuyện
dâm dục, nhưng cũng
được giải thoát chân chánh, hoặc sau khi
mạng chung được sanh lên
cõi trời.
Xưa nay thường có những người làm như vậy chứ chẳng phải
một mình ta. Hoặc có người phạm bốn trọng giới, hoặc có kẻ phạm
Năm giới, hoặc có kẻ làm tất cả mọi
luật nghi bất tịnh, mà còn
đạt được giải thoát chân chánh đó thôi! Mặc dù
Như Lai có nói rằng kẻ
phạm tội đột-cát-la[134] sẽ đọa
địa ngục trong một
thời gian bằng tám trăm vạn năm ở
cõi trời Đao-lợi, nhưng đó cũng là cách
Như Lai thị hiện để làm cho người ta khiếp sợ mà thôi. Nếu nói rằng các tội từ ba-la-di
cho đến đột-cát-la, nặng nhẹ chẳng khác gì nhau, đó là lời
sai trái của các
luật sư, lại bảo rằng do Phật chế định. Vậy nên biết chắc rằng đó không phải là lời
Phật thuyết dạy.’
“Những lời lẽ như trên chính là kinh luật của ma.
“Lại như có kẻ nói rằng: ‘Đối với
giới luật, dù
phạm giới nhỏ
cho đến các giới rất nhỏ cũng sẽ bị
quả báo khổ sở, kéo dài vô hạn.’
“Đã biết như vậy rồi, hãy khéo
thận trọng phòng hộ lấy
thân tâm, như con rùa
thận trọng co rút vào trong mu rùa.[135]
“Nếu như có người dạy luật lại nói rằng: ‘Những việc
phạm giới thảy đều không có
tội báo gì cả.’ Không nên gần gũi với người như vậy. Như Phật có thuyết kệ rằng:
“Nếu phạm lỗi không nhận,[136]
Đều gọi là
nói dối.
Không tin có
đời sau,
Việc ác nào cũng làm.
“Cho nên đừng gần gũi với hạng người ấy.
“Trong
Phật pháp luôn [
giữ gìn sự]
thanh tịnh như thế, huống chi
phạm tội thâu-lan-già, tội tăng-tàn hay tội ba-la-di mà nói là không có tội được sao? Cho nên
cần phải phòng hộ giữ mình một cách
nghiêm cẩn và sâu sắc đối với những
pháp như vậy.
Nếu không cần phải giữ gìn phòng hộ thì còn gì gọi là giới cấm?
“Trong
kinh điển ta có dạy rằng: Nếu có kẻ phạm từ bốn tội nặng ba-la-di
cho đến các tội cực kỳ nhỏ nhặt như các tội đột-kiết-la, đều phải
trừng trị một cách
nghiêm khắc. Nếu
chúng sanh chẳng nghiêm
giữ giới cấm, làm sao thấy được tánh Phật? Tuy tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật, nhưng
nhất thiết phải nhờ sự
trì giới mới thấy được tánh Phật. Nhờ thấy tánh Phật mới
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Trong
chín bộ kinh [ta thuyết dạy trước] không có
kinh Phương đẳng, cho nên không nói việc có tánh Phật. Mặc dù những kinh ấy không nói, nhưng phải biết rằng thật có tánh Phật. Nếu ai nói như vậy, nên biết rằng người ấy thật là
đệ tử của ta.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn!
Theo như lời dạy trên thì tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật. Nhưng trong
chín bộ kinh, chưa từng nghe nói đến điều ấy. Nếu ai nói rằng có tánh Phật, há chẳng phải là phạm ba-la-di sao?”[137]
Phật dạy: “Thiện nam tử!
Theo như ông vừa nói đó,
thật không có việc phạm ba-la-di.
Thiện nam tử!
Ví như có người nói: ‘Biển cả chỉ có bảy
vật báu mà thôi, không có tám thứ báu.’ Người ấy không có tội. Lại như có người nói: ‘Trong
chín bộ kinh, không có [nói] tánh Phật.’ Người này cũng không có tội. Vì sao vậy? Trong biển
đại trí Đại thừa, ta nói rằng có tánh Phật. Đó là lẽ mà người trong
hai thừa [
Thanh văn và
Duyên giác] không thấy biết được. Cho nên nói không có tánh Phật là không có tội.
Cảnh giới ấy là chỗ thấy biết của chư Phật, hàng
Thanh văn và
Duyên giác không thể hiểu nổi.
“Thiện nam tử! Nếu ai chẳng
nghe được pháp tạng hết sức sâu kín của
Như Lai thì làm sao biết rằng có tánh Phật?
“Thế nào gọi là
pháp tạng hết sức sâu kín? Đó là chỉ
kinh điển Phương đẳng Đại thừa.
“Thiện nam tử! Có những kẻ
ngoại đạo nói lý ngã thường, hoặc nói lý ngã đoạn.
Như Lai chẳng phải thế, ngài nói lý hữu ngã mà cũng nói lý
vô ngã. Đó gọi là
Trung đạo. Như có kẻ nói rằng: ‘Phật nói lý
Trung đạo: Tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật. Bởi
phiền não che lấp tánh Phật ấy nên chẳng thấy chẳng biết. Vì thế
cần phải siêng tu
phương tiện để dứt hết
phiền não.’ Nếu ai thuyết được như vậy, nên biết rằng người ấy không phạm vào [một trong] bốn tội trọng.[138] Nếu ai không thuyết được như
vậy thì gọi là
phạm tội ba-la-di.
“Như có người nói rằng: ‘Tôi đã
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì sao vậy? Vì tôi có tánh Phật. Có tánh Phật, ắt phải thành
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Bởi
nhân duyên ấy, nay tôi đã
thành tựu Bồ-đề.’ Nên biết rằng người nói như vậy là
phạm tội ba-la-di. Vì sao vậy? Tuy có tánh Phật, nhưng vì chưa
tu tập các
phương tiện thiện pháp nên chưa thấy tánh Phật. Vì chưa thấy tánh Phật nên chưa được
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên pháp Phật là
thâm sâu, không thể nghĩ bàn.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Có vị vua hỏi rằng: ‘Thế nào là tỳ-kheo phạm vào lỗi vọng xưng chứng thánh?’[139]
Phật dạy Ca-diếp: “Như có vị tỳ-kheo vì
lợi dưỡng, vì món ăn vật uống mà làm theo những cách nịnh hót, gian ngụy,
dối trá, nghĩ rằng: ‘Làm sao để khiến những người
thế gian biết rõ rằng ta là bậc khất sĩ? Nhờ
nhân duyên ấy, ta sẽ được
lợi dưỡng lớn,
danh dự lớn.’ Tỳ-kheo ấy vì rất
ngu si, trong đêm thường
suy nghĩ rằng: ‘Thật ta chưa
chứng đắc bốn quả sa-môn.[140] Phải làm thế nào khiến người
thế gian tin rằng ta đã
chứng đắc bốn quả ấy? Lại làm thế nào để khiến những ưu-bà-tắc và ưu-bà-di cùng nói về ta rằng: Đó là người
phước đức, thật là bậc
thánh nhân.’ Vị tỳ-kheo
suy nghĩ như vậy, chính là người
cầu lợi dưỡng chứ không phải
cầu pháp. Khi đi lại, lúc vào ra,
tới lui, nghỉ ngơi, mặc áo, ôm bát... không để mất
oai nghi, lại ngồi
một mình nơi chỗ trống trải,
vắng lặng, dường như bậc A-la-hán, khiến
mọi người thế gian đều nói rằng: ‘Đó là vị tỳ-kheo xứng đáng bậc nhất, ông ấy
tinh cần khổ hạnh,
tu pháp tịch diệt.’ Người ấy luôn nghĩ rằng: ‘Nhờ
nhân duyên ấy, ta sẽ được nhiều
đệ tử.
Mọi người cũng sẽ
cúng dường cho ta nhiều áo quần, đồ ăn
thức uống, thuốc men, và có nhiều
nữ nhân sẽ
kính trọng, yêu quý ta.’ Nếu tỳ-kheo hay tỳ-kheo ni nào có
việc làm và
suy nghĩ như
vậy thì phạm vào tội vọng xưng chứng thánh.
“Lại có vị tỳ-kheo, vì muốn
kiến lập Chánh pháp vô thượng liền
ngồi yên nơi chỗ trống trải
vắng lặng. Vị ấy chẳng phải là A-la-hán, nhưng muốn làm cho người ta gọi mình là A-la-hán, là vị tỳ-kheo
tốt lành, là vị tỳ-kheo
tịch tĩnh, khiến
vô lượng người đời sanh
lòng tin. Vị ấy nghĩ rằng: ‘Nhờ
nhân duyên ấy, ta sẽ được
vô số tỳ-kheo theo kề cận; nhân đó ta sẽ
giáo hóa những tỳ-kheo
phá giới cùng những ưu-bà-tắc, [141] khiến cho hết thảy đều
giữ giới. Nhờ
nhân duyên ấy, ta sẽ
kiến lập Chánh pháp, mở mang
sáng tỏ pháp
Vô thượng của
Như Lai, chỉ bày khai mở
giáo pháp Phương đẳng Đại thừa,
độ thoát hết thảy
vô lượng chúng sanh, khéo
giải nghĩa chỗ nặng, chỗ nhẹ trong kinh luật mà
Như Lai đã thuyết.’
Vị tỳ-kheo ấy lại nói rằng: “Nay ta cũng có tánh Phật. Có
kinh điển gọi là kho tàng sâu kín của
Như Lai; theo kinh ấy thì ta
chắc chắn sẽ được
thành tựu Phật đạo, dứt hết các dây
trói buộc là
vô lượng phiền não. Ta sẽ
thuyết giảng với
vô số các vị ưu-bà-tắc rằng: ‘Các ông thảy đều có tánh Phật. Các ông và tôi đây,
chúng ta đều có thể trụ yên trong
cảnh giới của
Như Lai,
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, dứt hết các dây
trói buộc của
vô lượng phiền não.’ Người nói ra lẽ đó theo cách như vậy không hề phạm vào lỗi vọng xưng chứng thánh. Đó gọi là
Bồ Tát.
“Nếu nói rằng
phạm tội đột-cát-la đều sẽ đọa
địa ngục trong một
thời gian tám trăm vạn năm tính theo năm tháng ở
cõi trời Đao-lợi, thọ các
tội báo, vậy sao lại dám
cố ý phạm tội thâu-lan-già? Trong pháp
Đại thừa, nếu có tỳ-kheo
phạm tội thâu-lan-già thì không nên gần gũi với tỳ-kheo ấy. Thế nào là tội thâu-lan-già theo kinh Đại thừa? Như có vị
trưởng giả tạo lập chùa Phật, dùng những dây hoa mà
cúng dường Phật. Kế đó, có thầy tỳ-kheo thấy trong chuỗi hoa có sợi dây kết, không hỏi xin mà [tự ý] lấy, đó là
phạm tội thâu-lan-già. Dù [có người] biết đến hay không cũng đều là
phạm tội.
“Nếu vì lòng tham mà
phá hoại tháp Phật cũng là
phạm tội thâu-lan-già. Người như vậy không nên gần gũi.
“Như vua, đại thần thấy những tháp thờ hư mục,
ý muốn tu bổ,
cúng dường xá-lợi.
Ví như có người nhặt được
trân bảo ở trong tháp ấy liền gửi cho tỳ-kheo
gìn giữ. Được
trân bảo rồi, thầy tỳ-kheo ấy
tự do sử dụng.[142] Tỳ-kheo như vậy gọi là
bất tịnh, thường gây ra nhiều sự
tranh chấp. Người
cư sĩ tốt không nên gần gũi
cúng dường,
cung kính tỳ-kheo như vậy. Hạng tỳ-kheo như vậy khác nào những kẻ
vô căn, những kẻ lưỡng căn, những kẻ
căn tánh không xác định.
“Hạng người
căn tánh không xác định thì khi
ham muốn người nữ, [căn trong] thân liền biến ra
nữ căn; khi
ham muốn người nam, [căn trong] thân liền biến ra
nam căn.[143] Hạng tỳ-kheo [
phạm tội] như vậy cũng
ví như kẻ
căn tánh xấu xa, chẳng phải nam chẳng phải nữ, [vì tỳ-kheo ấy là] chẳng phải
xuất gia cũng chẳng phải
tại gia. Không nên gần gũi
cúng dường,
cung kính hạng tỳ-kheo như vậy.
“Trong
đạo Phật, pháp của sa-môn là nên sanh
lòng từ bi
che chở,
nuôi dưỡng chúng sanh,
cho đến đối với con kiến cũng nên thí cho sự
an ổn không sợ sệt. Pháp của sa-môn là lìa xa việc uống rượu,
cho đến chẳng ngửi mùi rượu. Pháp của sa-môn là không được
nói dối,
cho đến trong
giấc mộng cũng không nghĩ đến sự
nói dối. Pháp của sa-môn là không sanh lòng
dâm dục,
cho đến trong lúc
nằm mộng cũng không sanh lòng
dâm dục. Đó là pháp của sa-môn.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Như có tỳ-kheo nằm mơ thấy mình làm chuyện
dâm dục, như vậy có
phạm giới chăng?”
Phật dạy: “Không phạm. Nhưng đối với việc
dâm dục, nên tưởng đó là việc ô uế nhơ nhớp,
cho đến không hề có
ý tưởng cho đó là việc
trong sạch, thường lìa xa mối
phiền não lưu luyến người nữ. Nếu khi
chiêm bao thấy mình làm chuyện
dâm dục, lúc
tỉnh giấc nên sanh lòng
hối hận.
“Tỳ-kheo
khất thực, trong khi [
tiếp xúc] thọ nhận đồ
cúng dường, nên có
tư tưởng như đang gặp lúc đói kém phải
ăn thịt con [để sống]! Nếu thấy lòng
dâm dục phát sanh phải
lìa bỏ ngay. Nên biết rằng
pháp môn như vậy là kinh luật của
Phật thuyết. Nếu ai
tùy thuận thuyết của ma, đó là
quyến thuộc của ma. Như ai
tùy thuận thuyết của Phật, đó gọi là
Bồ Tát.
“Như có kẻ nói rằng: ‘Phật
cho phép tỳ-kheo thường đưa lên một chân, lặng thinh chẳng nói, gieo mình vào lửa dữ, từ trên núi cao mà nhảy xuống, chẳng tránh
tai nạn hiểm nguy, uống thuốc độc,
tuyệt thực, nằm trên tro trên đất, tự trói tay chân,
sát hại chúng sanh, chuyên nghề bùa chú...[144] Những người dòng chiên-đà-la, những kẻ
vô căn, lưỡng căn hoặc
căn tánh không xác định, cùng những kẻ căn thân chẳng đủ... những hạng người như vậy,
Như Lai thảy đều
cho phép xuất gia tu đạo.’ Đó gọi là thuyết của ma.
“Phật chỉ
cho phép dùng năm loại
thức ăn lấy từ loài bò[145] cùng các thứ dù, đường... Phật cũng cho mặc áo bằng vải dệt từ tơ tằm và đi giày da.[146] Trừ những thứ ấy ra, như có người nói: ‘Phật
cho phép mặc áo vải
tốt đẹp đắt tiền,[147] Phật
cho phép chứa trữ tất cả những
hạt giống, cây cỏ đều là loài có mạng sống. Phật đã thuyết như vậy rồi mới nhập Niết-bàn.’ Nếu có kinh luật nào nói như vậy, nên biết rằng đó là thuyết của ma.
“Ta chẳng hề
cho phép tỳ-kheo thường đưa lên một chân [như bọn
ngoại đạo]. Ta vì [truyền] pháp mà
cho phép [tỳ-kheo] đi, đứng, ngồi, nằm. Ta cũng không hề
cho phép tỳ-kheo uống thuốc độc,
tuyệt thực, đốt mình trong đám lửa năm ngọn,
trói buộc tay chân,
sát hại chúng sanh, chuyên nghề bùa chú, dùng
ngọc thạch, ngà voi, giày da, chứa trữ
hạt giống, [ta cũng không nói rằng] cây cỏ đều có mạng sống, [ta cũng không
cho phép] mặc áo vải tốt đắt giá... Nếu ai nói rằng
Thế Tôn nói ra những điều như vậy, nên biết rằng người ấy là
quyến thuộc của
ngoại đạo, không phải
đệ tử của ta.
“Ta chỉ
cho phép ăn năm món lấy ở loài bò cùng là dầu, đường, ta
cho phép đi giày da, mặc áo bằng vải dệt từ tơ tằm. Ta có dạy rằng
bốn đại[148] đều không có
thọ mạng. Nếu kinh luật nào nói những điều như vậy, đó là
Phật thuyết. Nếu ai
tùy thuận thuyết của Phật, nên biết rằng đó là
đệ tử chân thật của ta. Nếu ai chẳng theo thuyết của Phật, đó là
quyến thuộc của ma. Nếu ai
tùy thuận kinh luật của Phật, nên biết rằng người ấy là
Đại Bồ Tát.
“Thiện nam tử! Tướng trạng khác nhau giữa thuyết của ma và thuyết của Phật, nay ta đã vì ông mà
phân biệt giảng rộng
rõ ràng như vậy.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Nay con mới biết rõ được tướng trạng khác nhau giữa thuyết của ma và thuyết của Phật. Nhờ đó con mới
thâm nhập được vào những
ý nghĩa sâu xa của pháp Phật.”
Phật khen Ca-diếp rằng: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Ông đã có thể
hiểu rõ và
phân biệt được như vậy, đó gọi là
thông minh trí huệ.”
[149]“Thiện nam tử! Nói về sự khổ, không gọi là
thánh đế. Vì sao vậy? Nếu nói rằng khổ là
khổ thánh đế, thì tất cả những loài bò, dê, lừa, ngựa cùng
chúng sanh ở
địa ngục, lẽ ra đều phải có thánh đế![150]
“Thiện nam tử! Nếu có người không biết được
cảnh giới thâm sâu của
Như Lai, đối với
pháp thân vi mật thường trụ chẳng biến mà cho rằng đó là thân do
ăn uống [mà thành] chứ không phải
pháp thân, chẳng biết oai lực
đại đức của
Như Lai. Như vậy gọi là khổ. Vì sao vậy? Vì không biết nên pháp thấy là chẳng phải pháp, chẳng phải pháp thấy là pháp. Nên biết rằng người như vậy ắt phải đọa vào nẻo dữ,
luân chuyển mãi trong
sanh tử, nuôi lớn các mối
phiền não trói buộc, chịu nhiều
khổ não.
“Nếu ai biết được rằng
Như Lai là
thường trụ, không hề
biến đổi, hoặc
nghe được hai tiếng
thường trụ, dù chỉ nghe qua
một lần cũng được sanh lên các
cõi trời. Rồi về sau, đến lúc
giải thoát rồi mới có thể chứng biết lẽ
Như Lai thường trụ, không hề
biến đổi. Khi chứng biết rồi liền nói: ‘Thuở xưa tôi đã từng nghe nghĩa ấy, nay
được giải thoát mới thật sự chứng biết. Ngày trước vì không biết được vậy nên tôi phải
luân chuyển mãi trong
sanh tử, lăn lộn không cùng. Từ nay tôi mới có được
trí huệ chân thật.’
Nếu biết được vậy, mới thật là
tu tập lẽ khổ, được nhiều
lợi ích.
Nếu không biết
vậy thì dù có
chuyên cần tu học cũng không được
ích lợi gì. Đó gọi là rõ biết lẽ khổ, gọi là
Khổ thánh đế.
Nếu không thể
tu tập như
vậy thì gọi là khổ chứ không phải
Khổ thánh đế.
“Nói về
Khổ tập đế, người nào đối với
pháp chân thật không phát sanh
trí huệ chân thật, thọ nhận những vật
bất tịnh, như tôi trai, tớ gái... thường đối với những việc không đúng pháp mà gọi là
Chánh pháp, làm cho
Chánh pháp phải dứt mất, không thể trụ thế
lâu dài. Vì
nhân duyên ấy nên không biết được tánh pháp. Vì không biết nên khi
luân chuyển trong
sanh tử thường chịu nhiều
khổ não, không được sanh lên các
cõi trời và không
được giải thoát chân chánh. Nếu có sự rõ biết
sâu xa, không
phá hoại Chánh pháp, nhờ
nhân duyên ấy liền được sanh lên các
cõi trời và
được giải thoát chân chánh.
Nếu không rõ biết về
Khổ tập đế mà nói rằng
Chánh pháp là không
thường trụ nên là pháp
sanh diệt, do
nhân duyên ấy trong
vô số kiếp phải
luân chuyển trong
sanh tử, chịu mọi
khổ não. Nếu rõ biết rằng pháp là
thường trụ, không
biến đổi, đó gọi là rõ biết lẽ tập, gọi là
Tập thánh đế.
Nếu không thể
tu tập như vậy, đó gọi là tập chứ không phải
Tập thánh đế.
“Nói về
Khổ diệt đế, nếu ai thường
tu tập, học theo pháp [chấp] không thì là
bất thiện. Vì sao vậy? Vì dứt bỏ tất cả các pháp,
phá hoại kho tàng
giáo pháp chân thật của
Như Lai.
Tu học như vậy gọi là tu [chấp lẽ] không. Người
tu tập [đúng lẽ]
khổ diệt thì ngược với cách tu của tất cả
ngoại đạo. Nếu nói rằng
tu tập [chấp] lẽ không là
Diệt đế thì hết thảy
ngoại đạo đều
tu pháp [chấp] không, lẽ ra đều phải có Diệt đế!
“Như có người nói rằng: ‘Thật có tạng
Như Lai, dù không thể thấy được, nhưng nếu trừ dứt hết mọi
phiền não thì sẽ
thể nhập vào tạng
Như Lai.’ Nếu ai
phát tâm như vậy, dù chỉ một niệm, nhờ
nhân duyên đó đối với các pháp liền được
tự tại.
“Nếu người
tu tập [những tướng trạng]
vô ngã, rỗng không
vắng lặng [rồi cho đó là] tạng sâu kín của
Như Lai, thì trong
vô số kiếp sẽ
lưu chuyển trong
sanh tử, chịu nhiều
khổ não. Nếu ai không
tu tập theo cách như vậy, thì dù có
phiền não cũng mau chóng dứt trừ. Vì sao vậy? Nhờ rõ biết được tạng sâu kín của
Như Lai.[151] Đó gọi là
Khổ diệt thánh đế. Như ai
tu tập lẽ diệt như vậy, ấy là
đệ tử của ta. Như ai không
tu tập như vậy, đó gọi là
tu pháp [chấp] không, chẳng phải tu
Diệt thánh đế.
“Nói về Đạo
thánh đế, đó là
Phật bảo,
Pháp bảo,
Tăng bảo cùng Chánh
giải thoát. Có những
chúng sanh vì lòng
điên đảo nên nói rằng: ‘Không có Phật, Pháp, Tăng cùng Chánh
giải thoát; sự
luân chuyển trong
sanh tử chỉ
như huyễn hóa.’ Do
nhân duyên tu tập kiến giải [
sai lầm] như vậy nên phải
luân chuyển trong
Ba cõi,
mãi mãi chịu sự
khổ não nặng nề.
Nếu có thể sanh tâm thấy rằng
Như Lai là
thường trụ, không
biến đổi; Pháp, Tăng,
Giải thoát cũng là như vậy; chỉ nhờ vào một niệm ấy mà trong
vô số kiếp liền được những
quả báo hoàn toàn theo
ý muốn. Vì sao vậy? Thuở xưa chính ta đã vì
bốn sự điên đảo, đối với việc không đúng pháp mà cho là
Chánh pháp, nên phải chịu
vô số quả báo ác nghiệp. Nay ta dứt hết những
kiến giải [
điên đảo] ấy nên
thành Phật Chánh giác. Đó gọi là Đạo
thánh đế.
“Như có người nói rằng: ‘Tam bảo[152] là
vô thường.’
Tu tập theo
kiến giải ấy là
sai lầm, chẳng phải Đạo
thánh đế. Nếu ai thường
tu tập niệm tưởng rằng: ‘Tam bảo là thường trụ’ thì người ấy là
đệ tử của ta.
“Dùng sự thấy biết chân chánh mà
tu tập bốn pháp
thánh đế, đó gọi là
Tứ thánh đế.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nay con mới rõ biết được việc
tu tập pháp
Tứ thánh đế hết sức sâu xa.”
[153]Phật dạy
Bồ Tát Ca-diếp: “Thiện nam tử! Nói về
Bốn điên đảo, đối với chỗ không phải khổ mà sanh ra
tư tưởng khổ, đó gọi là
điên đảo. Không phải khổ, đó là
Như Lai; sanh ra
tư tưởng khổ, là cho rằng
Như Lai vô thường,
biến đổi.
“Nếu nói rằng
Như Lai là
vô thường, đó là tội khổ rất lớn. Như nói rằng
Như Lai bỏ thân khổ này mà vào Niết-bàn, dường như củi hết thì lửa tắt, đó gọi là không phải khổ mà sanh ra
tư tưởng khổ. Như vậy là
điên đảo.
“Giả sử ta nói rằng ‘Như Lai là thường’, như vậy tức là
ngã kiến.[154] Do
ngã kiến nên có
vô lượng tội.
Vì vậy nên phải nói rằng ‘Như Lai là vô thường’. Vậy nếu nói
Như Lai là
vô thường ắt ta phải được vui. Nhưng
Như Lai là
vô thường thì đó là khổ, nếu đã là khổ thì làm sao được vui? Vì đối với sự khổ mà sanh
tư tưởng [cho là] vui nên gọi là
điên đảo.
“Đối với sự vui mà sanh
tư tưởng [cho là] khổ, đó là
điên đảo. Sự vui đó, tức là
Như Lai; sự khổ đó, là
Như Lai vô thường. Nếu nói ‘Như Lai là vô thường’, đó là đối với sự vui mà sanh ra
tư tưởng [cho là] khổ.
Như Lai thường trụ, đó gọi là vui. Nếu ta nói rằng ‘Như Lai là thường’, vì sao
Như Lai lại nhập Niết-bàn? Nếu nói rằng
Như Lai không phải sự khổ, vì sao lại bỏ thân này mà
thể nhập cảnh giới Diệt độ? Vì đối với sự vui mà sanh ra
tư tưởng [cho là] khổ nên gọi là
điên đảo.
“Như trên gọi là sự
điên đảo thứ nhất.
“[Đối với sự]
vô thường lại tưởng là thường; [đối với sự] thường tồn lại tưởng là
vô thường, đó gọi là
điên đảo.
Vô thường đó, là không
tu tập pháp không. Vì không
tu tập pháp không nên
thọ mạng ngắn ngủi. Nếu nói rằng không
tu tập pháp rỗng không
vắng lặng mà được
trường thọ, đo là là
điên đảo. Đây là sự
điên đảo thứ nhì.
“[Đối với sự việc]
vô ngã mà tưởng là ngã, [thật có] ngã mà tưởng là
vô ngã, đó gọi là
điên đảo. Người
thế gian nói hữu ngã, pháp Phật cũng nói hữu ngã. Tuy người
thế gian nói hữu ngã, nhưng không có tánh Phật. Như vậy gọi là đối với
vô ngã mà sanh ra
tư tưởng [cho là] có ngã. Đó gọi là
điên đảo. Pháp Phật nói có ngã, ngã đó là tánh Phật. Người
thế gian nói là pháp Phật là
vô ngã. Đó gọi là đối với ngã mà sanh ra
tư tưởng [cho là]
vô ngã. Nếu như nói rằng: ‘Pháp Phật
nhất định là
vô ngã, cho nên
Như Lai dạy
đệ tử tu tập vô ngã’, như vậy là
điên đảo. Đó gọi là sự
điên đảo thứ ba.
“[Đối với sự việc] tịnh mà tưởng là
bất tịnh,
bất tịnh lại tưởng là tịnh, đó gọi là
điên đảo.
“Tịnh tức là
Như Lai thường trụ.
Như Lai thường trụ, đó chẳng phải là thân do
ăn uống [mà thành], chẳng phải thân
phiền não, chẳng phải thân xác thịt, chẳng phải thân [
tồn tại nhờ] gân cốt chằng chịt. Như có người nói rằng: ‘Như Lai là
vô thường, đó là thân do
ăn uống [mà thành], là thân
phiền não, là thân xác thịt, là cái thân [
tồn tại nhờ] gân cốt chằng chịt. Pháp, Tăng,
Giải thoát đều là dứt hết.” Đó gọi là
điên đảo.
“[Đối với sự việc]
bất tịnh mà tưởng là tịnh, đó gọi là
điên đảo. Như có người nói rằng: ‘Trong thân ta đây không có gì là
bất tịnh. Bởi không có gì là
bất tịnh, nên chắc rằng sẽ vào được chỗ
thanh tịnh.
Như Lai dạy rằng phải tu phép
quán bất tịnh, đó chỉ là
hư vọng mà thôi.’ Như vậy là
điên đảo. Đó gọi là sự
điên đảo thứ tư.
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Thế Tôn! Kể từ hôm nay con mới được chỗ thấy biết chân chánh. Bạch Thế Tôn! Con tự thấy rằng từ trước
đến nay tất cả chúng con chỉ là kẻ
tà kiến.
[155]“Bạch Thế Tôn! Trong
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu[156] có thật có cái ngã hay chăng?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Cái ngã đó, tức là nghĩa của tạng
Như Lai. Tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật, đó tức là
ý nghĩa của ngã. Cái nghĩa của ngã đó, từ xưa
đến nay thường bị
vô lượng phiền não che lấp nên
chúng sanh không thấy được.
“Thiện nam tử!
Ví như người đàn bà
nghèo khó, trong nhà chôn giấu một kho
vàng ròng rất lớn, nhưng hết thảy
mọi người trong
gia đình đều không biết là ở chỗ nào.
Lúc ấy có một người ngoài khéo biết
phương tiện chỉ bày, liền nói với người đàn bà nghèo rằng: ‘Nay tôi mướn chị làm công, chị có thể cào dọn cỏ rác cho tôi chăng?’ Người đàn bà đáp: ‘Tôi không thể làm việc ấy. Nếu tôi có thể chỉ cho con tôi chỗ chôn giấu vàng rồi thì tôi sẽ
lập tức đi làm việc cho ông.’ Người kia nói: ‘Tôi biết cách, có thể chỉ chỗ chôn vàng cho con chị.’ Người đàn bà nói: ‘Người trong nhà tôi còn không ai biết chỗ, huống chi ông làm sao biết được?’ Người kia nói: ‘Tôi
quả thật biết được.’ Người đàn bà liền nói: ‘Tôi cũng muốn thấy, vậy ông hãy chỉ cho tôi.’ Người ấy liền đào ngay trong nhà, lộ ra kho chứa
vàng ròng. Người đàn bà thấy vậy
hết sức vui mừng, cho là việc kỳ lạ, lấy làm
tôn kính ngưỡng mộ người kia.
“Thiện nam tử! Tánh Phật của
chúng sanh lại cũng như vậy. Tất cả
chúng sanh đều chẳng thấy được tánh Phật ấy, cũng như người đàn bà
nghèo khó kia chẳng biết kho báu của mình chôn ở chỗ nào.
“Thiện nam tử! Nay ta chỉ bày cho hết thảy
chúng sanh cái tánh Phật mà họ sẵn có. Tánh Phật ấy bị các
phiền não che lấp, cũng như người đàn bà
nghèo khó kia có kho
vàng ròng nhưng không thể thấy được. Nay
Như Lai chỉ bày cho tất cả
chúng sanh kho báu tánh giác của họ, ấy là tánh Phật. Thấy việc ấy rồi, lòng họ trở nên
vui vẻ,
quy ngưỡng Như Lai. Người có tài
phương tiện chỉ bày tức là
Như Lai. Người đàn bà
nghèo khó tức là tất cả
vô lượng chúng sanh. Kho
vàng ròng ấy tức là tánh Phật.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như người đàn bà kia sanh dưỡng được một đứa con, thuở nhỏ mắc bệnh. Người mẹ
buồn rầu, chạy đi tìm rước thầy thuốc. Thầy thuốc đến rồi, bèn trộn lẫn ba thứ thuốc: bơ, sữa và đường phèn rồi cho đứa trẻ uống, dặn dò rằng: ‘Đứa con của cô đã uống thuốc rồi, đừng cho nó bú. Phải đợi thuốc tiêu hết mới cho bú
trở lại.’ Liền đó, người đàn bà liền lấy chất đắng bôi lên vú mình và nói với con: “Vú mẹ có bôi chất độc, con đừng đụng tới nữa.” Đứa trẻ khát sữa muốn bú, nhưng nghe nói có độc bèn tránh xa. Đến khi thuốc đứa con uống vào đã tiêu hết, người mẹ mới dùng nước sạch rửa vú của mình, rồi gọi con rằng: ‘Lại đây, mẹ cho bú.’ Đứa trẻ ấy, mặc dù
đói khát, nhưng trước đã nghe nói có độc nên không dám lại. Người mẹ lại nói rằng: ‘Vì con uống thuốc nên mẹ phải bôi chất độc lên vú. Nay thuốc ấy đã tiêu, mẹ đã rửa vú sạch rồi, vậy con nên lại đây bú, không còn đắng nữa.’ Nghe như vậy rồi, đứa trẻ liền
trở lại bú sữa.
“Thiện nam tử!
Như Lai cũng thế, vì muốn
cứu độ tất cả
chúng sanh nên ngài dạy
tu pháp vô ngã. Tu như vậy rồi, dứt hẳn được tâm
chấp ngã mà nhập Niết-bàn. Vì muốn dứt trừ các
kiến giải sai lầm của
thế gian nên ngài
thị hiện pháp
xuất thế. Lại vì muốn chỉ bày cho
thế gian thấy sự
chấp ngã là
hư vọng, không
chân thật, nên dạy
tu pháp vô ngã để làm cho thân được
thanh tịnh.
Ví như người đàn bà kia, vì [
bảo vệ] đứa con nên bôi chất đắng lên vú.
Như Lai cũng thế, vì dạy
tu pháp không nên nói rằng các pháp đều
vô ngã. Lại như người đàn bà kia khi rửa sạch vú rồi bèn gọi con đến cho bú. Nay ta
cũng thế, [đến lúc
thích hợp nên] thuyết dạy về tạng
Như Lai. Vì thế chư tỳ-kheo không nên sợ sệt. Như đứa trẻ kia, nghe mẹ gọi mà
trở lại bú sữa. Chư tỳ-kheo cũng vậy, nên tự
phân biệt: Tạng sâu kín của
Như Lai không
thể không có.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn!
Thật không có cái ngã. Vì sao vậy? Lúc đứa trẻ mới sanh ra không
hiểu biết chi cả. Nếu có cái ngã, tất nhiên lúc sanh ra phải tự có
hiểu biết. Vì nghĩa đó mà biết chắc là không có cái ngã.
“Nếu
nhất định có cái ngã, thì khi người ta đã sanh rồi lẽ ra không hề chết. Nếu nói tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật
thường trụ, thì lẽ ra không có tướng trạng hư hoại.
Nếu không có tướng trạng hư hoại, vì sao lại có sự khác biệt nhau như sát-lỵ, bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà, với chiên-đà-la và súc vật?
“Nay thấy có rất nhiều
nghiệp duyên khác nhau, nhiều
cảnh giới khác nhau. Nếu
nhất định có cái ngã, thì tất cả
chúng sanh lẽ ra chẳng có kẻ hơn người kém. Vì nghĩa đó mà biết chắc là tánh Phật chẳng phải
pháp thường còn. Nếu nói rằng tánh Phật
nhất định là thường còn, vì
duyên cớ gì lại có những kẻ
sát hại, trộm cướp,
dâm dục, nói hai lưỡi, nói lời hung dữ,
nói dối, nói
thêu dệt,
tham lam,
sân khuể, tà kiến?
“Nếu tánh ngã là thường, tại sao khi uống rượu rồi người ta lại say sưa mê loạn? Nếu tánh ngã là thường, thì kẻ mù
đáng lẽ phải thấy được
hình sắc, kẻ điếc
nghe được âm thanh, kẻ câm nói được ra lời, kẻ què có thể bước đi! Nếu tánh ngã là thường, thì người ta không nên tránh hầm lửa, nước lụt, thuốc độc, gươm đao, kẻ ác, cầm thú!
“Nếu cái ngã là thường, thì những việc đã
trải qua rồi lẽ ra không quên!
Nếu không quên, vì sao có người lại tự hỏi rằng: ‘Tôi đã từng gặp người này ở đâu?’ Nếu cái ngã là thường, lẽ ra chẳng có những việc như nhỏ tuổi, lớn tuổi,
già nua... hoặc những khi
thế lực suy vi, hưng thịnh, nhớ lại chuyện đã qua!
“Nếu cái ngã là thường thì nó trú ngụ ở đâu? Ở trong nước bọt, nước mũi, trong các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng đó chăng? Nếu cái ngã là thường, lẽ ra phải ở khắp trong thân, cũng như chất dù mè, lan tràn không có chỗ hở! Nếu thân bị chặt đứt, ngay
lúc ấy lẽ ra cái ngã cũng phải đứt đoạn!”
Phật dạy Ca-diếp: “Thiện nam tử!
Ví như vị vua kia có một
đại lực sĩ. Khoảng giữa hai chân mày
lực sĩ ấy có một hạt châu
kim cương. Trong khi đấu sức với
lực sĩ khác, người ấy lấy đầu mà húc kẻ địch. Nhân đó, hạt châu nơi trán bị lún vào phía trong lớp da, nhưng người ấy
hoàn toàn không biết việc ấy. Rồi chỗ trán ấy lại sanh ra ghẻ độc,
lực sĩ liền rước
lương y đến
điều trị cho mình.
“Lúc ấy, có vị thầy thuốc
sáng suốt hiểu rành phương dược, liền biết rằng ghẻ độc ấy là do hạt châu nằm trong
thân thể. Hạt châu ấy lún xuống dưới da, nằm yên ở đó.
Lúc ấy, vị
lương y dò hỏi lực sĩ rằng: ‘Hạt châu gắn nơi trán ông bây giờ ở đâu?’
Lực sĩ kinh hải, đáp rằng: ‘Đại sư y vương! Hóa ra hạt châu nơi trán tôi đã mất rồi sao? Hạt châu ấy hiện nay ở đâu? Chẳng phải đã có phép thuật
ảo hóa gì đó chăng?’ Nói rồi
buồn rầu, than khóc.
“Lúc ấy, vị
lương y dùng lời êm dịu, khuyên lơn
lực sĩ rằng: ‘Ông chớ nên
buồn rầu khổ não thái quá. Nhân khi ông giao đấu, hạt
bảo châu đã lún vào trong
thân thể. Hiện nay nó ở dưới lớp da,
ảnh hiện ra ngoài. Trong khi ông giao đấu, vì lòng
sân khuể rất mạnh nên hạt châu bị ép vào
thân thể mà ông không tự biết.’
“Lúc ấy,
lực sĩ không tin lời
lương y, nói rằng: ‘Nếu nó ở dưới da,
máu mủ bất tịnh, vì sao nó chẳng trồi ra? Nếu nó ở tại trong gân, lẽ ra không thấy được nó. Nay vì sao ông dối gạt tôi?’
“Khi ấy vị
lương y lấy kiếng soi
trước mặt lực sĩ, hạt châu
hiển hiện rõ ràng trong kiếng.
Lực sĩ thấy vậy rồi lấy làm kinh quái, cho là việc lạ lùng
đặc biệt.
“Thiện nam tử! Tất cả
chúng sanh lại cũng như vậy. Vì họ chẳng hay thân cận
thiện tri thức, cho nên dù có tánh Phật nhưng thảy đều chẳng thấy được. Tánh Phật bị
che lấp bởi tham dâm,
sân khuể,
ngu si, cho nên đọa nơi
địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sanh, a-tu-la, chiên-đà-la, sát-lỵ, bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà. Họ sanh vào bao nhiêu
hoàn cảnh như vậy, là bởi lòng họ khởi ra mọi thứ
nghiệp duyên. Tuy mang thân người, nhưng họ bị điếc, đui, câm, ngọng, què cụt... Trong
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu, họ nhận chịu mọi thứ
quả báo. Vì tâm họ bị
che lấp bởi tham dâm,
sân khuể,
ngu si, nên họ không biết đến tánh Phật. Như
lực sĩ kia, trong khi hạt
châu báu chôn khuất trong người thì cho là đã mất rồi.
Chúng sanh cũng thế, vì không thân cận
thiện tri thức nên không biết đến kho báu
Như Lai vi diệu sâu kín. Họ
tu học lẽ
vô ngã chỉ như hạng
phàm phu, tuy nói lẽ hữu ngã nhưng cũng chẳng biết
chân tánh của ngã.[157] Các
đệ tử của ta cũng như thế, vì chẳng
biết thân cận
thiện tri thức, cho nên
tu học lẽ
vô ngã mà chẳng biết chỗ của
vô ngã. Đã không biết được
chân tánh của
vô ngã, nói chi đến việc có thể biết được
chân tánh của hữu ngã?
“Thiện nam tử!
Như Lai dạy rằng hết thảy
chúng sanh đều có tánh Phật, cũng
ví như vị
lương y kia chỉ cho người
lực sĩ hạt châu
kim cương quý giá.
Chúng sanh vì bị
che lấp bởi
vô lượng phiền não nên không thấy biết được tánh Phật. Nếu dứt hết
phiền não, bấy giờ sẽ chứng biết
rõ ràng tánh Phật, cũng như người
lực sĩ kia khi soi trong
gương sáng thấy được hạt châu
quý báu.
“Thiện nam tử! Tạng
Như Lai sâu kín như vậy, không thể suy lường, không thể
thuyết giảng, nghĩ bàn.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như ở
Tuyết sơn[158] có một vị thuốc gọi là
lạc vị. Vị thuốc rất ngọt, nhưng nằm khuất dưới lùm cây sâu không ai thấy được. Có người nghe
mùi thơm, biết rằng ở chỗ đất ấy có món thuốc đó. Thuở xưa có vị vua
Chuyển luân[159] vì món thuốc ấy mà tạo ra ở khắp nơi trong
Tuyết sơn những cái ống tre để
tiếp nhận nó. Cây thuốc ấy khi già chín, từ
dưới đất trồi lên chui vào ống tre,
mùi vị vừa phải thích hợp. Sau khi vị vua
Chuyển luân ấy qua đời, thuốc lại trở nên chua, mặn, ngọt, đắng, cay hoặc nhạt. Thuốc ấy vốn có một
mùi vị, nhưng khi người ta mang nó đến xứ này hay xứ khác, nó lại
biến thành những
mùi vị khác. Khi thuốc ấy còn ở tại núi,
mùi vị nó vẫn
vừa phải thích hợp, nhưng kẻ
phàm nhân ít phước, dù có dùng rìu búa mà chặt đốn, đào xới,
tốn công khổ nhọc cũng chẳng được món thuốc ấy. Chỉ khi có
Thánh vương xuất hiện ở đời, nhờ
nhân duyên phước đức mới được món thuốc ấy với
mùi vị vừa phải thích hợp.
“Thiện nam tử! Tạng
Như Lai sâu kín,
mùi vị cũng như thế. Vì bị rừng cây rậm rạp
phiền não[160] che bít,
chúng sanh vô minh chẳng thể thấy được.
Mùi vị duy nhất của món thuốc kia, ví với tánh Phật. Vì
phiền não, cho nên từ nơi tánh Phật ấy,
xuất hiện rất nhiều
mùi vị khác, như
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ, trời, người, nam, nữ, chẳng phải nam chẳng phải nữ, sát-lỵ, bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà.
Tánh Phật là hùng mãnh, không thể hư hoại, cho nên không ai
phá hoại được. Như có kẻ
phá hoại được, ắt phải làm đứt đoạn tánh Phật. Nhưng tánh Phật như vậy chẳng bao giờ có thể bị đứt đoạn. Nếu nói tánh ấy có thể đứt đoạn thì thật
vô lý. Như tánh ngã ấy, chính là tạng
Như Lai sâu kín. Tạng sâu kín như vậy không gì có thể làm cho hư hoại,
tiêu diệt. Tuy không thể làm hư hoại, nhưng [khi bị
che lấp] lại không thể thấy được. Như đã
thành tựu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, liền chứng biết được nó. Vì
nhân duyên ấy, không ai có thể
phá hoại được tánh Phật.”
Bồ Tát Ca-diếp
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn!
Nếu không có kẻ hủy hoại được, lẽ ra không thể có những nghiệp bất thiện?”
Phật dạy Ca-diếp: “Thật có sự giết hại. Vì sao vậy?
Thiện nam tử! Tánh Phật của
chúng sanh vẫn ở trong
năm ấm.1 Nếu làm hư hoại
năm ấm, gọi là giết hại. Nếu có giết hại, tức đọa vào đường dữ. Do
nghiệp báo nhân duyên nên có các dòng sát-lỵ, bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà cùng chiên-đà-la, hoặc nam, hoặc nữ, hay chẳng phải nam chẳng phải nữ, các tướng trạng khác nhau ở trong
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu của
chúng sanh,
luân chuyển trong vòng sanh tử. Những kẻ chưa đạt quả thánh
cố chấp sai lầm rằng có ngã, tướng trạng của cái ngã ấy lớn nhỏ
xê xích dường như hạt cỏ, hoặc như hạt gạo, hạt đậu,
cho đến ngón tay cái hay ngón chân cái... Cứ như
vậy mà hư vọng sinh ra đủ cách
suy tưởng,
ức đoán. Tướng trạng của
vọng tưởng không hề
chân thật. Tướng ngã của bậc
xuất thế gọi là tánh Phật.
Nhận biết cái ngã như vậy gọi là
việc lành cao cả hơn hết.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như người khéo biết nơi chôn giấu kho tàng, bèn lấy dụng cụ sắc bén mà đào đất,
xuyên qua những hòn đá, sạn, sỏi, một cách không khó khăn gì. Chỉ khi gặp phải
kim cương thì không thể
xuyên qua. Vì
kim cương là chất mà dao búa không thể làm hư hoại.
“Thiện nam tử! Tánh Phật của
chúng sanh cũng vậy. Tất cả các vị
luận sư,
thiên ma Ba-tuần, cùng
loài người và
chư thiên đều không thể hủy hoại được nó. Tướng trạng của
năm ấm tức là
sinh khởi và tạo tác. Tướng trạng
sinh khởi và tạo tác
ví như đá sỏi, có thể đâm thủng,
phá hoại; tánh Phật
ví như kim cương, không ai làm hư hoại được. Vì nghĩa ấy nên làm hư hoại
năm ấm gọi là giết hại.
“Thiện nam tử! Nên biết chắc rằng pháp Phật như vậy là không thể nghĩ bàn!”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN BẢY
[1] Theo Nam bản thì đây là phẩm Tứ tướng, thứ bảy, phần một (Tứ tướng phẩm, đệ thất chi nhất)
[2] Ba loại thịt trong sạch: 1. Thịt của con vật mà mắt người ăn chẳng nhìn thấy nó bị giết. 2. Thịt của con vật mà tai người ăn chẳng nghe biết nó bị giết. 3. Thịt của con vật mà người ăn hoàn toàn không biết là đã bị giết để cho mình ăn.
[3] Chín loại tịnh nhục: Bao gồm các loại thịt: 1. Thịt của con vật mà mắt chẳng nhìn thấy bị giết. 2. Thịt của con vật mà tai chẳng nghe biết khi bị giết. 3. Thịt của con vật mà hoàn toàn không biết là giết để cho mình ăn. 4. Thịt của con vật mà chẳng phải người ta giết để đãi mình. 5. Thịt của con vật chết tự nhiên, không bị giết hại. 6. Thịt của con vật do các loài chim dữ hại chết để ăn còn thừa. 7. Thịt khô. 8. Thịt bất ngờ gặp phải, không cố ý tìm ăn. 9. Thịt của con vật đã bị giết từ trước.
[4] Làm cho mất vẻ đẹp đi (hoại sắc): khi nhận vải cúng dường để may y, vị tỳ-kheo phải làm cho mất màu đẹp của vải bằng cách nhuộm thuần một màu mà người thế gian chê bỏ, thường là màu nâu sậm, gọi là hoại sắc.
[5] Bản Hán văn e có đôi chút sai lệch. Cứ theo văn kinh mà hiểu thì ở đây hẳn ngài Ca-diếp muốn nói đến các loại sản phẩm có được từ loài vật như sữa, da thú, tơ tằm, vỏ ốc... Như vậy có lẽ hợp lý hơn.
[6] Ni-kiền hay Ni-kiền-đà: Một trong 6 phái ngoại đạo đồng thời với đức Phật. Ni-kiền dịch nghĩa là Ly hệ giả (lìa sự ràng buộc). Người tu theo phái Ni-kiền không mặc quần áo (lõa thể), vì họ cho rằng quần áo là các món ràng buộc.
[7] Tứ đạo thánh nhân: Các vị tu tập vào bốn giai đoạn sắp chứng quả Niết-bàn. Tứ đạo được kể ra cụ thể là 4 giai đoạn tu tập sắp đạt đến sự giải thoát rốt ráo, đó là: Gia hành đạo, Vô vấn đạo, Giải thoát đạo và Thăng tiến đạo.
[8] Đây chỉ các cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la
[9] Vô gián địa ngục (tức là A-tỳ địa ngục): cảnh địa ngục mà chúng sanh có tội nghiệp nặng nề nhất phải sanh vào. Ở đó sự hành hình đau đớn không phút giây nào gián đoạn nên gọi là vô gián.
[10] Ba-la-đề-mộc-xoa: Hán dịch là Biệt giải thoát, cũng gọi là Tùy thuận giải thoát, tức là phần giới luật căn bản mà Phật đã chế định cho chúng tăng, tỳ-kheo và tỳ-kheo ni đều phải tuân theo.
[11] Tám giới (Bát giới), ở đây chỉ chung các giới tướng nhìn thấy từ bên ngoài, cũng gọi là Tường kiến giới điều.
[12] Cũng gọi là Tứ ba-la-di, là các giới mà khi phạm vào phải bị trục xuất khỏi tăng đoàn. Ba-la-di, Hán dịch là Khí, tức là dứt bỏ, cũng dịch là Cực ác. Đây là loại tội nặng nhất, người phạm vào phải bị trục xuất, không còn được sống chung trong chúng tăng (bất cộng trụ).
[13] Cũng gọi là 13 tội Tăng-già bà-thi-sa, Hán dịch là tăng tàn. Người phạm giới này như người bị chém mà chưa đứt hẳn, còn có thể cứu sống, đó là nhờ vào việc sám hối theo đúng pháp. Các tội này nhẹ hơn tội ba-la-di, nên gọi là tăng tàn. Có nơi gọi là tội hữu dư.
[14] Nhị bất định pháp: Hai trường hợp phạm tội liên quan đến phụ nữ nhưng không thể xác định rõ, là vì xảy ra trong chỗ kín đáo, riêng chỉ có hai người, không còn ai khác biết được. Do đó, việc xác định tội phải tin theo lời của một người thứ ba biết chuyện, là người có tín tâm vững chắc.
[15] Cũng gọi là Ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Ni-tát-kỳ, Hán dịch là Tận xả, nghĩa là từ bỏ hết tất cả; ba-dật-đề, Hán dịch là đọa, nghĩa là rơi vào chỗ xấu ác. Người phạm tội này phải đọa vào địa ngục. Để trừ tội, trước hết phải mang tất cả tài vật liên quan đến trước chúng tăng mà xả bỏ hết, sau đó mới chân thành sám hối trước chúng tăng. Vì vậy, phép sám hối này cũng gọi là Xả đọa. Có ba mươi pháp được gọi là Tam thập xả đọa.
[16] Cũng gọi là Ba-dật-đề, Hán dịch là đọa, nghĩa là rơi vào chỗ xấu ác. Nói chung, chín mươi pháp ba-dật-đề khác với ba mươi pháp ni-tát-kỳ ba-dật-đề là không có liên quan đến tài vật để phải xả bỏ, nên đều phải chí thành sám hối. Nếu chúng tăng nhận cho sự sám hối thì người phạm tội chỉ cần tự xét lại tâm mình, quyết lòng hối cải là được.
[17] Cũng gọi là Ba-la-đề đề-xá-ni, thường gọi tắt là đề-xá-ni, Hán dịch là Đối tha thuyết hướng bỉ hối, nghĩa là người phạm tội phải hướng về người khác cầu sám hối.
[18] Cũng gọi là Thức-xoa-ca-la-ni, Hán dịch là ưng đương học, hay ứng học tác, nghĩa là cần phải học. Còn gọi là đột-kiết-la, dịch nghĩa là ác tác, nghĩa là những hành vi không tốt. Các giới này thường được gọi chung là Bách chúng học pháp, bởi vì pháp này có một trăm điều cần phải học hỏi và noi theo, quy định chi tiết cách ứng xử hàng ngày, tạo nên oai nghi tế hạnh của người xuất gia. Những pháp này rất chi ly, không nhất thiết mỗi khi phạm vào đều phải bị xử phạt, nhưng là khuôn mẫu rất quan trọng cho mỗi người để sống tốt đời sống tu tập. Người xuất gia phải luôn luôn ghi nhớ và mỗi khi có phạm vào phải tự mình phát lộ sám hối.
[19] Thất diệt tránh pháp: Bảy điều quy định khi có sự bất hòa hoặc tranh chấp giữa các tỳ-kheo, cần phải tuân theo để dứt sự tranh cãi. Nếu không tuân theo các pháp này tức là phạm giới.
[20] Nhất-xiển-đề: người hoàn toàn không có tín tâm, chẳng tin vào Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.
[21] Nạp y: áo do nhiều miếng vải vụn nhỏ kết lại với nhau, nên gọi là nạp y. Người tu hành không cầu ăn mặc đẹp, nên nhặt lấy những mảnh vải vụn đã bỏ đi của người đời mà chắp vá lại thành áo mặc, cũng gọi là áo bá nạp (trăm mảnh vụn).
[22] Bốn nghĩa tướng như vậy: Đây tóm gọn để nhắc lại bốn nghĩa tướng vừa trình bày ở trên: Một là tự sửa mình chân chánh, hai là làm cho kẻ khác trở nên chân chánh, ba là có thể tùy theo chỗ hỏi mà đáp, bốn là khéo giảng rõ nghĩa nhân duyên.
[23] Các cảnh có (chư hữu): Các cảnh giới có chúng sanh, do nghiệp báo mà có. Về nghiệp báo của chúng sanh, do có nhân mà có quả, nên gọi là có (hữu). Kể trọn trong Ba cõi có hai mươi lăm cảnh có (Nhị thập ngũ hữu): 14 cảnh thuộc về Dục giới, 7 cảnh thuộc về Sắc giới, 4 cảnh thuộc về Vô sắc giới.
[24] Ngũ thú: trời, người, ngạ quỷ, địa ngục và súc sanh.
[25] Hạt đình lịch là một loại hạt rất nhỏ. Trong Nam bản là hạt cải (giới tử).
[26] Bồ Tát một khi hiển thị thần thông như vậy tức là phải có dụng tâm hóa độ, giúp chúng sanh khởi tín tâm, nên chỉ những người cần hóa độ mới thấy được việc làm của Bồ Tát.
[27] Bốn phương phụ (tứ duy), là bốn phương ở giữa bốn phương chính. Đó là: đông bắc, tây bắc, đông nam và tây nam.
[28] Đỉnh tướng (Sanskrit: sahasrra), gọi đủ là Vô kiến đỉnh tướng. Phật Quang Đại từ điển gọi tướng này là: Đỉnh tướng vô năng kiến giả. Tướng đỉnh đầu không ai có thể thấy được. Đây là tướng phụ thứ 66 trong tám mươi tướng phụ của Phật (Bát thập chủng hảo).
[29] Ma-hê-thủ-la: cũng viết: Ma-hê-thủ-la thiên vương, Đại tự tại thiên vương. Vị thiên thần mà đạo Bà-la-môn thờ kính, ở cảnh trời cao nhất trong cõi Sắc giới .
[30] Ngũ dục: Năm điều làm chúng sanh cảm thấy sung sướng, khoái lạc, là sự thỏa mãn năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Năm dục ấy là: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục và xúc dục.
[31] Pháp luân vương, hay Pháp vương, là vị vua của các pháp. Vì Phật nắm hiểu tất cả các pháp nên gọi là Pháp vương, lại vì thuyết dạy các pháp cho chúng sanh, tức là chuyển bánh xe pháp (chuyển pháp luân) nên gọi là Pháp luân vương.
[32] Áo được may bằng những mảnh vải xấu đã bỏ đi chắp vá lại.
[33] Bốn tội trọng: Tứ Ba-la-di : Bốn tội trọng của hàng Tỳ-kheo: 1. Dâm giới, 2. Đạo giới, 3. Sát giới, 4. Vọng ngữ giới.
[34] Người hoàn toàn không có lòng tin vào Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.
[35] Bốn nẻo ác đó là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la.
[36] Nghĩa là đều có những sự thị hiện để hóa độ chúng sanh như vừa kể trên.
[37] Hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu (Nhị thập ngũ hữu): Hai mươi lăm cõi hiện hữu của chúng sanh. Đó là sự phân chia ba cõi chúng sanh đang luân hồi thành hai mươi lăm cảnh giới. Trong Dục giới có 14, trong cõi Sắc giới có 7, trong cõi Vô sắc giới có 4. Hai mươi lăm cõi này được sắp xếp thành:
– Tứ ác đạo: 1. Địa ngục, 2. Súc-sanh, 3. Ngạ-quỷ, 4. A-tu-la
– Tứ châu hay Tứ thiên hạ: 1. Phất-vu-đãi, 2. Cồ-da-ni, 3. Uất-đan-việt, 4. Diêm-phù-đề
– Lục dục thiên: 1. Tứ thiên vương xứ, 2. Tam thập tam thiên xứ, 3. Diệm-ma thiên, 4. Đâu-suất thiên, 5. Hóa lạc thiên, 6. Tha hóa tự tại thiên.
Mười bốn cảnh này thuộc về Dục giới.
– Tứ thiền thiên: 1. Sơ thiền, 2. Nhị thiền, 3. Tam thiền, 4. Tứ thiền.
– Tịnh cư thiên: 1. Đại phạm vương, 2. Vô tưởng, 3. Tịnh cư A-na-hàm.
Bảy cảnh này thuộc về Sắc giới.
– Tứ không xứ thiên: 1. Thức xứ, 2. Không xứ, 3. Bất dụng xứ (Vô sở hữu xứ) 4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Bốn cảnh này thuộc về Vô sắc giới.
[38] Trong Nam bản thì đây là phẩm Tứ tướng, phần sau (Tứ tướng phẩm chi dư).
[39] Mật ngữ: Lời nói vi mật, hàm súc nhiều ý nghĩa. Chỉ có bậc Bồ Tát trí tuệ lớn mới hiểu thấu được mật ngữ của chư Phật. Mật tạng: kho tàng bí mật. Kinh điển đại thừa do Phật thuyết giảng ý nghĩa rất sâu rộng. Vì hàng tiểu căn, trung căn chẳng hiểu nổi, chẳng thể làm theo cho nên gọi là Mật tạng.
[40] Nam căn: cơ quan sanh dục nam; nữ căn: cơ quan sanh dục nữ.
[41] Nguyên văn dùng bán tự: một nửa chữ. Trong tiếng Phạn thì bán tự là các yếu tố của chữ viết khi chưa được ghép lại để thành một chữ có nghĩa. Đây là ví dụ những điều sơ học, chưa đầy đủ. Khi đủ sức học đầy đủ thì học luận Tỳ-già-la. Cũng như thế, Phật trước dùng Tiểu thừa để dẫn dắt những người sơ cơ, thấp trí, rồi sau mới giảng kinh điển Đại thừa.
[42] Luận Tỳ-già-la: Một trong 6 bộ luận quan trọng của ngoại đạo ở Ấn Độ, được truyền bá từ trước thời đức Phật, được xem là bộ luận có nội dung sâu xa nhất, là cơ sở về ngữ âm và ngữ pháp của Phạn ngữ. Luận này được truyền tụng là do Phạm thiên thuyết dạy, nên cũng gọi là Phạm thư.
[43] Ý nói rằng đây là lời sai trái, hoàn toàn không đúng với lý chân thật.
[44] Vì là lời sai trái, không đúng với lời Phật dạy.
[45] Tức trong kinh Bát Đại Nhân Giác.
[46] Thân thể do tứ đại hợp thành. Mỗi đại tăng giảm bất thường có thể sanh ra 102 bệnh não. Do cách tính này nên bốn đại sanh ra 404 bệnh não. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là cách nói tượng trưng, diễn ý là có rất nhiều bệnh tật khác nhau.
[47] Câu cuối đoạn này dường như không có nghĩa ăn khớp với toàn đoạn, có vẻ như thừa so với cấu trúc của các đoạn khác. Bản dịch kinh Đại Bát Nê-hoàn của ngài Pháp Hiển không có câu này.
[48] Trong bản dịch Đại Bát Nê-hoàn của ngài Pháp Hiển thì chi tiết này là “mùa hạ uống rượu”( hạ thời ẩm tửu).
[49] Câu cuối đoạn này cũng không thấy trong bản dịch kinh Đại Bát Nê-hoàn của ngài Pháp Hiển, theo ý thì có vẻ như thừa.
[50] Hoa bà-sư dịch nghĩa là vũ thời hoa , vì sanh trưởng vào mùa mưa, là một loại hoa có màu trắng và rất thơm.
[51] Câu cuối đoạn này cũng không thấy trong bản dịch kinh Đại Bát Nê-hoàn của ngài Pháp Hiển, và cũng có vẻ như thừa.
[52] Nguyên đoạn văn này ý nghĩa không rõ, chúng tôi xin trích đoạn tương đương trong bản dịch kinh Đại Bát Nê-hoàn của ngài Pháp Hiển để độc giả so sánh: “Thí như anh nhi kỳ xỉ vị xuất bất năng linh sanh. Chân giải thoát giả diệc phục như thị, phi thời đắc giả vô hữu thị xứ.” (Ví như trẻ sơ sanh răng chưa mọc không thể làm cho mọc. Giải thoát chân thật cũng vậy, chưa đúng lúc thích hợp mà đạt được thì thật là vô lý.)
[53] Trọng cấm: Tứ trọng cấm (bốn giới cấm quan trọng), cũng gọi là Tứ ba-la-di. Người xuất gia phạm vào bốn tội nặng này thì không còn được xem là người xuất gia, phải rời khỏi tăng chúng. Các giới đó là: 1. Dâm dục, 2. Trộm cắp, 3. Giết người, 4. Đại vọng ngữ.
[54] Ưu-bà-tắc: là người đàn ông tu tại gia, tức là cư sĩ nam.
[55] Thân mạng phải chịu sự hư hoại, nên là không thường còn. Thân mạng đã mất, không còn sắc tướng để hư hoại nên gọi là thường còn.
[56] Ta và vật của ta: (ngã, ngã sở) là kiến chấp sai lầm khiến chúng sanh phát sanh phiền não, do chấp lấy có một bản ngã, một cái “ta” của riêng mình, và từ đó khao khát thu gom mọi thứ quanh mình cho là “của ta”
[57] Sợ chết vì cọp nên chạy trốn, nhưng chẳng có chỗ trốn nên lại rơi xuống giếng sâu, cũng không khỏi chết. Vì thế mà nói là chật hẹp.
[58] Đây là các món chế biến từ sữa. Sữa có thể chế ra lạc (kem sữa), từ lạc có thể chế được tô (bơ sữa) có hai loại là sanh tô (bơ sống) và thục tô (bơ chín). Từ nơi tô, có thể chế được món ngon nhất, tinh khiết nhất là đề-hồ. Đây ý nói các nhân duyên sanh khởi nối tiếp nhau, nhờ cái này mà có được cái kia.
[59] Một trong bốn đại: đất, nước, gió, lửa.
[60] Câu này dường như không đủ nghĩa, e rằng bị thiếu trong nguyên bản.
[61] Năm ấm cũng tức là năm uẩn, gồm sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
[62] Bốn loại ma (Tứ ma): Ma, nghĩa là sự não hại tâm và thân. Bốn ma là: 1. Ma phiền não, 2. Ma ấm (Ngũ ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức), 3. Ma chết, 4. Ma trời (Ma vương và bọn tùy thuộc của Ma vương).
[63] Tức là quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. Ngài Ca-diếp nêu thắc mắc này cũng đồng nghĩa như nếu Phật, Pháp, Tăng là một thể duy nhất thì tại sao còn phải phân biệt quy y thành 3 đối tượng.
[64] Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di: (ma-ha nghĩa là “lớn”, “đại”, ba-xà-ba-đề dịch nghĩa là “ái đạo”, kiều-đàm-di dịch nghĩa là “nữ thanh”. Bà tỳ-kheo ni này là dì của Phật, là người hết lòng xin cho nữ giới được xuất gia, và cũng là một trong những vị tỳ-kheo ni đầu tiên.
[65] Tức là Tam bảo.
[66] Nhị chủng thuyết: thuyết dạy hai nghĩa khác nhau, như một nghĩa là có tánh, một nghĩa là vô tánh. Phật vì chúng sanh mà thuyết pháp tánh, lại vì các bậc hiền thánh mà thuyết là không có pháp tánh. Vì thế nên gọi là nhị chủng thuyết.
[67] Theo Nam bản thì đây là phẩm Tứ y, thứ 8 (Tứ y phẩm, đệ bát). Theo bản dịch Đại Bát Nê-hoàn của ngài Pháp Hiển thì từ đây bắt đầu quyển 4, phẩm thứ 9.
[68] Đây là bốn Thánh quả theo Thanh văn thừa, được xếp từ thấp lên cao như sau: 1.Tu-đà-hoàn dịch nghĩa: Nhập lưu, Dự lưu, là bậc bắt đầu dự vào hàng Thánh quả. 2. Tư-đà-hàm, dịch nghĩa: Nhất lai, còn chia làm hai bậc là Nhất lai hướng, tức bậc mới chứng nhập, và Nhất lai quả, tức là bậc đã chứng quả trọn vẹn. Đây là quả vị chỉ còn tái sanh một lần nữa trước khi đạt giải thoát rốt ráo. 3. A-na-hàm, dịch nghĩa: Bất lai, Bất hoàn, là bậc không còn phải trở lại vòng sanh tử vì nghiệp quả. 4. A-la-hán, dịch nghĩa là Bất sanh, là bậc đã diệt trừ hết các phiền não, đoạn diệt nghiệp sanh tử. Theo Thanh văn thừa thì quả vị này là cao nhất, là Niết-bàn giải thoát. Cần chú ý trong các tôn hiệu của Phật cũng có danh xưng A-la-hán, nhưng được dùng với nghĩa khác chứ không chỉ quả vị này.
[69] Tám điều giác ngộ, rõ biết của bậc đại nhân được giảng rõ trong kinh Bát đại nhân giác. Một là biết rõ thế gian vô thường; hai là biết rõ nhiều tham dục là khổ; ba là biết rõ tâm không nhàm chán, không biết đủ, nên phải lưu ý mà phòng hộ, xa lìa năm món dục; bốn là biết rõ sự lười nhác dẫn đến trụy lạc, sa đọa; năm là biết rõ sự ngu si là cội gốc dẫn đến phải trầm luân trong sanh tử, cho nên cần phải tinh tấn học hỏi Chánh pháp để thoát ra; sáu là biết rõ sự nghèo khổ bần cùng sanh nhiều oán hại, dễ sa vào tội lỗi, vì thế phải mở rộng lòng bố thí, cứu giúp những kẻ bần cùng; bảy là biết rõ chỗ xấu ác, gây ra lỗi lầm của năm món dục; tám là biết rõ sanh tử như ngọn lửa thiêu đốt khổ não vô lượng.
[70] Phát lộ sám hối: tự mình bộc lộ, bày tỏ chỗ sai trái, phạm lỗi của mình ra cho mọi người đều biết và quyết tâm hối cải không tái phạm nữa.
[71] Người có đủ tám đức giác tri dạy trong kinh Bát Đại Nhân Giác (tám đức giác tri, tám việc giác tri của bậc Đại nhân, bậc Bồ Tát).
[72] Phiền não khách trần (Khách trần phiền não): Phiền não ví như khách trần. Phiền não chẳng phải là vật sẵn có ở nơi mình, mà là từ bên ngoài đến (khách), chỉ vì mình mê lầm nên ngỡ khách là chủ mà thôi. Chính cái tâm trong sạch sẵn có mới là chủ. Vậy nên gọi phiền não là khách. Lại nữa, phiền não bám vào như bụi đóng dơ, cho nên gọi là trần (bụi bặm).
[73] Cái thân có tám vạn loại trùng: chỉ thân xác thịt dễ hư hoại, thối rửa, là chỗ nương náu, chui rúc của muôn loại vi trùng.
[74] Địa vị thứ mười (Đệ thập địa): Địa vị thứ mười là địa vị rốt ráo trong Thanh Văn Thừa. Thanh Văn Thừa có mười địa vị: 1. Thọ tam quy địa 2. Tín địa 3. Pháp địa 4. Nội phàm phu địa 5. Học tín giới địa 6. Nhập nhân địa 7. Tu-đà-hoàn địa 8. Tư-đà-hàm địa 9. A-na-hàm địa 10. A-la-hán địa. Cần phân biệt với Thập địa của Bồ Tát.
[75] Cồ-sư-la cũng đọc là Cụ-sử-la, Cù-tư-la hay Cù-sử-la, dịch nghĩa là Mỹ âm hay Diệu âm thanh. Đây là tên một vị trưởng giả trong kinh Trung bản khởi. Kinh Cồ-sư-la nhắc đến ở đây có lẽ là tên khác của kinh này (Đại chánh tạng, quyển 4, trang 147, kinh số 196).
[76] Tầm: đơn vị đo chiều dài, bằng 8 thước cổ, mỗi thước bằng khoảng 0,33 mét. Như vậy, mỗi tầm có thể là vào khoảng 2,64 mét.
[77] Tên một loại thuốc quý trị được bách bệnh, phiên âm từ Phạn ngữ Agada, cũng đọc là a-già-đà, dịch nghĩa là vô bệnh, phổ khứ hay bất tử dược.
[78] Nhị thừa: chỉ hai thừa Thanh văn và Duyên giác.
[79] Tức là vào lúc Chánh pháp đã diệt như ngài Ca-diếp vừa nêu lên trong câu hỏi trước đó.
[80] Nghĩa là do những nghiệp ác đã làm trước đây.
[81] Mười giới của sa-di: 1. Không sát sanh; 2. Không trộm cắp; 3. Không dâm dục; 4. Không nói dối; 5. Không uống rượu; 6. Không cài hoa, xức dầu thơm, thoa phấn đẹp; 7. Không đàn ca múa hát; 8. Không nằm ngồi trên giường rộng, ghế cao; 9. Không ăn sai giờ, nghĩa là chỉ ăn mỗi ngày một lần trước giờ ngọ; 10. Không sở hữu, sử dụng tiền, vàng, đồ trang sức quý báu.
[82] Mười địa (Thập địa): Mười địa vị của Bồ Tát Đại thừa: 1. Hoan hỷ địa; 2. Ly cấu địa; 3. Phát quang địa; 4. Diễm huệ địa; 5. Cực nan thắng địa; 6. Hiện tiền địa; 7. Viễn hành địa; 8. Bất động địa; 9. Thiện huệ địa; 10. Pháp vân địa.
[83] Mười trụ (Thập trụ): 1. Phát tâm trụ; 2. Trì địa trụ; 3. Tu hành trụ; 4. Sanh quý trụ; 5. Phương tiện cụ túc trụ; 6. Chánh tâm trụ; 7. Bất thối trụ; 8. Đồng chơn trụ; 9. Pháp vương tử trụ; 10. Quán đảnh trụ.
[84] Giao tiếp gần gũi nhưng không nhiễm lấy những thói xấu: nguyên văn chữ Hán diễn đạt khái niệm này là “dữ cộng hòa quang bất đồng kỳ trần”. Về sau, quan điểm “hòa quang đồng trần” trở thành một trong các tôn chỉ của Đại thừa, với ý nghĩa đưa Chánh pháp vào đời sống thế tục để tiếp độ những kẻ lỗi lầm, trụy lạc. Có thể xem tư tưởng này là xuất phát từ đây.
[85] Ba-la-di: Bất cộng trụ pháp, tức bốn tội trọng. Vị tỳ-kheo phạm vào tội ba-la-di thì phải trục xuất, không còn được sống chung với các tỳ-kheo khác. Bốn tội ba-la-di của tỳ-kheo là: 1. Đại dâm giới 2. Đại đạo giới 3. Đại sát giới 4. Đại vọng ngữ giới.
[86] Đoạn này chúng tôi ngờ rằng thiếu đi một ý, vì trong bản dịch của ngài Pháp Hiển có vẻ rõ nghĩa hơn: Bấy giờ có người tụng đọc được chín bộ kinh điển của Như Lai nhưng vi phạm vào giới luật, người này tuy biết kẻ ấy đã phạm trọng tội nhưng vì lòng hộ pháp nên dùng phương tiện lặng thinh không nói ra lỗi lầm của kẻ ấy, còn tự hạ mình theo kẻ ấy để học [cho được chín bộ kinh điển của Như Lai. So sánh thì thấy đoạn văn này đầy đủ và rõ nghĩa hơn.
[87] Trừ quân: Người đã được chọn sẵn để nối ngôi vua nhưng chưa chính thức lên ngôi. Trừ quân thường là vị thái tử, nhưng cũng có khi là một hoàng tử hay hoàng thân.
[88] Chiên-đà-la: Những người bị xem là hạ tiện nhất ở Ấn Độ vào thời đức Phật, thậm chí không được xem là một giai cấp. Xã hội thời ấy có bốn giai cấp, hay bốn chủng tộc là: sát-đế-lỵ (hàng vua chúa, quan tướng), bà-la-môn (hàng tu sĩ, thầy tế), phệ-xá (hàng trưởng giả, phú hộ), thủ-đà-la (hàng thợ thuyền, nông dân hoặc thương nhân buôn bán nhỏ). Ngoài bốn giai cấp ấy, còn một hạng bị xem là hạ tiện, không đáng kể đến, đó là hạng chiên-đà-la.
[89] Cư sĩ: Ở đây dùng từ này để chỉ giai cấp thủ-đà-la, là những người làm ruộng và thợ thủ công... tức là giai cấp thứ tư của Ấn Độ thời cổ.
[90] Trưởng giả: giai cấp phệ-xá, tức là những thương gia giàu có, những người có thế lực, là giai cấp thứ ba trong xã hội Ấn Độ thời cổ.
[91] Ý nói bất đắc dĩ vì không muốn bỏ quê hương xứ sở nên những người này mới ở lại.
[92] Thời ấy những người truyền lệnh của vua dùng tiếng trống để gợi sự chú ý của đám đông trước khi đọc lệnh, cũng như ở ta trước đây dùng tiếng mõ.
[93] Lễ quán đảnh: Nghi lễ do một vị thầy bà-la-môn thực hiện, bao gồm việc đọc kinh cầu nguyện và rưới nước bốn biển lên đầu cho vua. Khi một vị vua lên ngôi, cần phải làm lễ quán đảnh như một nghi lễ chính thức để được nhân dân thừa nhận sự cai trị của vị vua ấy.
[94] Đây là điều tối kỵ đối với xã hội phân biệt giai cấp lúc bấy giờ, bởi vì những người thuộc giai cấp cao hơn không bao giờ chịu tiếp xúc, giao thiệp với những người thuộc giai cấp thấp hơn mình, huống chi là những người thuộc dòng chiên-đà-la.
[95] Phép nhà: Tức là khuôn phép của đạo Bà-la-môn. Bởi vì đạo ấy chẳng hề nhìn nhận một người chiên-đà-la làm vua. Người bà-la-môn không được làm phép quán đảnh cho người chiên-đà-la, nhìn nhận người ấy làm vua.
[96] Cúng dường đủ bốn việc (Tứ sự cúng dường): là cung cấp đủ bốn thứ cần dùng, bao gồm: 1. Y phục 2. Thức ăn uống 3. Chỗ ở, giường ngủ 4. Thuốc men trị bệnh.
[97] Đàn-việt (Sanskrit: dnapati): tín chủ, thí chủ, chỉ người do tín tâm mà cúng dường tài vật cho chư tăng.
[98] Tám vật bất tịnh (Bát chủng bất tịnh chi vật, hay Bát bất tịnh): 1. Tôi trai, tớ gái 2. Vàng 3. Bạc 4. Trân bảo 5. Lúa thóc 6. Kho lẫm 7. Bò, dê, voi, ngựa 8. Mối lợi thu hoạch do sự buôn bán. Tám thứ ấy là chẳng trong sạch đối với người xuất gia giữ tịnh giới.
[99] Đệ nhị thiên: Cõi trời thứ nhì. Các cõi trời trong Tam giới được kể từ dưới lên là: 1. Đệ nhất thiên: Tứ thiên vương thiên 2. Đệ nhị thiên: Đao-lợi thiên hay Tam Thập Tam thiên 3. Đệ tam thiên: Hàng chư thiên hầu hạ quanh vua trời Đế Thích.
[100] Bố-tát: Đọc trọn là Ưu-bổ-đà-bà, nghĩa là đoạn diệt điều ác, tăng trưởng điều thiện. Bố-tát tức là thiết giới, tụng giới một tháng hai kỳ, ngày sóc và ngày vọng ( Rằm và mồng một).
[101] Tự tứ, tức là tùy ý. Trong khi chư tăng nhóm họp để bố-tát (tụng giới), người nào thấy mình có lầm lỗi thì tùy ý khai ra để sám hối, rồi chư tăng cũng tùy ý mà quyết định hình thức cần áp dụng cho người đã phạm lỗi.
[102] Kinh điển Tiểu thừa do Phật quyền thuyết, dẫn dắt người sơ cơ, nên gọi là chưa trọn nghĩa (bất liễu nghĩa). Bởi vì trong đó vẫn nói lên những lẽ chân thật, đúng đắn, nhưng chỉ là chưa được trọn vẹn, rốt ráo. Kinh điển Đại thừa đạt đến chỗ giải thoát rốt ráo, không còn nghĩa nào khác vượt ngoài đó nữa, nên gọi là trọn nghĩa (liễu nghĩa). Có người cho rằng “bất liễu nghĩa” là “không hiểu nghĩa”, điều này không hợp lý. Vì nếu nói kinh điển Tiểu thừa là “không hiểu nghĩa”, đó chính là không hiểu nghĩa phương tiện của Như Lai.
[103] Ấm, giới, nhập: Ấm là năm ấm, giới là mười tám giới, nhập là mười hai nhập. Năm ấm (cũng gọi là năm uẩn) gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Mười tám giới gồm có: sáu căn ở trong (lục căn nội giới), sáu trần ở ngoài (lục trần ngoại giới) và sáu thức ở khoảng giữa (lục thức trung giới). Mười hai nhập là mười hai điều quan hệ mật thiết với nhau: sáu căn (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý) nhập với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp); sáu trần lại nhập với sáu căn. Ví dụ như: con mắt nhập với hình sắc gọi là nhãn nhập; hình sắc nhập với con mắt gọi là sắc nhập. Con mắt là căn, hình sắc là trần, đối nhập với nhau thành ra sự thấy...
[104] Như Lai thể nhập pháp tánh: Phật nhập Niết-bàn, tức là Như Lai vào pháp tánh. Pháp tánh là tánh tự nhiên của các pháp, tánh ấy vốn yên lặng, tự nhiên, không biến đổi. Pháp tánh cũng gọi là: chân như, thật tướng, tự tánh thanh tịnh tâm.
[105] Đệ nhất nghĩa: nghĩa lý chân thật rốt ráo, dẫn đến sự giải thoát, cũng gọi là Thắng nghĩa, Chân thật nghĩa.
[106] Theo Nam bản thì từ đây là phẩm Tà chánh, thứ 7 (Tà chánh phẩm, đệ thất). Trong Đại Bát Nê-hoàn kinh thì đây là phẩm Phân biệt tà chánh, thứ 10 (Phân biệt tà chánh phẩm, đệ thập).
[107] Ba-tuần, hay còn gọi là Ba-tuần-du, tên gọi của Ma vương. Ba-tuần dịch nghĩa là sát giả, ác giả. Ma Ba-tuần là vị Thiên ma ở cảnh trời Tha hóa tự tại.
[108] Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán: Đó là bốn Thánh quả. Từ thấp đến cao là:
1.Tu-đà-hoàn dịch nghĩa: Nhập lưu, Dự lưu, là bậc bắt đầu dự vào hàng Thánh quả.
2.Tư-đà-hàm, dịch nghĩa: Nhất lai, còn chia làm hai bậc là Nhất lai hướng, tức bậc mới chứng nhập, và Nhất lai quả, tức là bậc đã chứng quả trọn vẹn. Đây là quả vị chỉ còn tái sanh một lần nữa trước khi đạt giải thoát rốt ráo.
3. A-na-hàm, dịch nghĩa: Bất lai, Bất hoàn, là bậc không còn phải trở lại vòng sanh tử vì nghiệp quả.
4. A-la-hán, dịch nghĩa là Bất sanh, là bậc đã diệt trừ hết các phiền não, đoạn diệt nghiệp sanh tử.
[109] Hữu lậu, vô lậu: Thân hình hữu lậu là thân hình còn phiền não: Khi sáu căn đối với sáu trần thì có sự lậu tiết, rỉ ra, cảm xúc. Đó là nói những chúng sanh còn lưu chuyển trong ba cõi. Thân hình vô lậu là thân hình của bậc dứt phiền não, của Thánh nhân, thân tâm chẳng bị níu kéo bởi ngoại duyên.
[110] Đâu-suất thiên: cũng đọc là Đâu-suất-đà, dịch nghĩa là Hỷ Túc hay Diệu Túc, là cõi trời nằm giữa Dạ-ma thiên và Lạc Biến hóa thiên. Phần Nội viện của cõi trời này là nơi Bồ Tát Di-lặc thuyết pháp, nên cũng được xem như một cõi Tịnh độ. Phần Ngoại viện là nơi chư thiên hưởng thụ mọi niềm vui, mọi sự khoái lạc, nên gọi là Hỷ Túc.
[111] Bạch Tịnh: cách gọi tên khác, cũng chỉ vua Tịnh Phạn.
[112] Thiên từ: Miếu, đền thờ các vị thiên thần trong đạo Bà-la-môn.
[113] Năm thứ dục lạc (Ngũ dục): 1. Sắc dục: Mắt ưa thích, chạy theo hình sắc tốt đẹp. 2. Thanh dục: Tai ưa thích, chạy theo tiếng êm dịu, hài hòa. 3. Hương dục: Mũi ưa thích, chạy theo mùi thơm. 4. Vị dục: Lưỡi ưa thích, chạy theo món ngon. 5. Xúc dục: Thân thể ưa thích, chạy theo sự xúc chạm êm ái.
[114] Cõi trời Ba mươi ba (Tam thập tam thiên): Tức là Đao-lợi thiên, thuộc Dục giới. Đao-lợi thiên có 33 cảnh, nên gọi tên như thế. Đế Thích (Thích-đề-hoàn-nhân) là vị vua trời cai quản ngụ ở cảnh giữa. Khi sanh lên 33 cảnh trời ấy, chúng sanh đều hưởng mọi sự dục lạc do năm căn cảm xúc với năm trần.
[115] Tội thâu-lan-già, cũng được đọc là tát-thâu-la hay thổ-la-già, Hán dịch nghĩa là đại tội hay thô tội hay đại chướng thiện đạo. Trong giới luật xếp đây là một tội nằm trong Lục tụ hoặc Thất tụ, không thuộc trong Ngũ thiên. Nói chung, người phạm các tội ba-la-di hoặc tăng-già bà-thi-sa nhưng còn ở mức độ chưa cấu thành tội thì gọi chung là thâu-lan-già. Chẳng hạn, tội trộm cắp nhưng chỉ trộm được số tiền quá ít (ngày xưa là dưới 5 tiền), hoặc mượn đồ vật rồi không trả... hoặc tội giết người nhưng chỉ do cho người dùng thuốc quá liều.v.v... Vì thế, trong giới luật thì thâu-lan-già được xem là nhẹ hơn các tội ba-la-di và tăng tàn, nhưng nặng hơn tất cả các tội khác.
[116] Pháp ấn chín bộ: Chín bộ kinh: 1. Tu-đa-la, dịch nghĩa là Khế kinh. 2. Kỳ dạ dịch nghĩa là Ứng tụng, hay Trùng tụng, 3. Hòa-ca-la-na, cũng đọc là Hoa-già-la-na, dịch nghĩa là Thọ ký. 4. Già-đà, dịch nghĩa là Phúng tụng, Cô khởi tụng. 5. Ưu-đà-na, dịch nghĩa là Tự thuyết. 6. Y-đế-mục-đa-già dịch nghĩa là Bổn sự. 7. Xà-đà-già, dịch nghĩa là Bổn sanh. 8. Tỳ-phật-lược, dịch nghĩa là Phương quảng. 9. A-phù-đà-đạt-ma, dịch nghĩa là Vị tằng hữu.
[117] Ý nói quyết định chỉ có 9 bộ kinh mà thôi, nhưng theo Đại thừa thì có mười hai bộ kinh, gồm 9 bộ đã kể trên và thêm ba bộ nữa là: 1. Ni-đà-na, dịch nghĩa là Nhân duyên. 2. A-ba-đà-na, dịch nghĩa là Thí dụ. 3. Ưu-ba-đề-xá, dịch nghĩa là Luận nghĩa. Gọi chung là Mười hai bộ kinh, hay Mười hai bộ kinh Đại thừa, Phương đẳng kinh. Những người không tin nhận các kinh điển Đại thừa cho rằng chỉ có 9 bộ kinh đã kể trên mới là do Phật thuyết, còn những kinh Đại thừa, Phương đẳng chỉ là ngụy tạo!
[118] Điều-đạt: tên khác của Đề-bà-đạt-đa, đệ tử phản nghịch của Phật. Ông vốn có tài năng, cũng đã theo Phật xuất gia, nhưng vì kiêu mạn, tự thấy mình tài giỏi, muốn thay Phật lãnh đạo tăng đoàn nên tìm mọi cách ám hại Phật, sau phải đọa vào địa ngục.
[119] Nguyên bản có bốn chữ “phục hữu nhân ngôn” ở vị trí đầu câu này, nhưng chúng tôi xét thấy là thừa trong đoạn văn này, vì cả đoạn này đều là lời Phật dạy.
[120] Ba-la-di, Hán dịch là Khí, tức là dứt bỏ, cũng dịch là Cực ác. Đây là loại tội nặng nề nhất, người phạm vào phải bị trục xuất, không còn được sống chung trong chúng tăng (bất cộng trụ).
[121] Cây đa-la khi bị chặt ngang rồi thì không thể đâm chồi được nữa, giống như cây dừa, nên ví với người phạm trọng tội ba-la-di, không còn cứu chữa gì được.
[122] Nguyên bản dùng “quá nhân pháp”, nghĩa là pháp hơn người, đây được dùng để chỉ kẻ vọng xưng đã chứng thánh quả, thuộc tội đại vọng ngữ, vì lời nói dối những việc khác không được xem là đại vọng ngữ, không thuộc tội ba-la-di.
[123] Nguyên bản dung “thối thất nhân pháp”, chỉ trường hợp làm mất khả năng được tái sanh trong loài người, phải rơi vào các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
[124] Bất tri túc: không biết đủ, nghĩa là mong cầu thái quá, dù được bao nhiêu cũng chẳng đủ. Biết đủ tức là biết hài lòng, thích nghi với hoàn cảnh thật của mình.
[125] Tiếng Phạn là Saṅghvẳeṣa, dịch âm là tăng-già-bà-thi-sa, còn gọi là Tăng tàn, là một tội danh trong giới luật nhà Phật được xếp dưới các tội trọng ba-la-di. Tỳ-kheo mắc tội này thì dựa vào chúng tăng mà thành tâm sám hối. Nếu không sám hối thì xem như mắc tội ba-la-di. Trong giới luật có 13 tội bị xếp vào loại này, nên gọi là mười ba tăng-tàn.
[126] Nhị bất định pháp: Tức là trường hợp phạm tội không thể xác định rõ ràng. Có hai trường hợp không thể xác định được rõ ràng tội danh, do có những yếu tố không rõ, nên có thể bị ghép vào các tội khác nhau. Việc xác định các tội này do chúng tăng quyết định dựa vào ý kiến của một người thứ ba có đủ uy tín và biết rõ sự việc phạm tội.
[127] Tiếng Phạn là Naihsargik-ptayantika, dịch âm là Ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Ni-tát-kỳ, Hán dịch nghĩa là Tận xả, nghĩa là từ bỏ hết tất cả; ba-dật-đề, Hán dịch nghĩa là đọa, nghĩa là rơi vào chỗ xấu ác. Người phạm tội này phải đọa vào địa ngục. Để trừ tội, trước hết phải mang tất cả tài vật liên quan đến trước chúng tăng mà xả bỏ hết, sau đó mới chân thành sám hối trước chúng tăng. Vì vậy, phép sám hối này cũng gọi là Xả đọa. Ba mươi trường hợp phạm tội này được gọi là Tam thập xả đọa.
[128] Tiếng Phạn là Ptayantika, Hán dịch nghĩa là đọa, nghĩa là rơi vào chỗ xấu ác. Nói chung, chín mươi pháp ba-dật-đề này khác với ba mươi pháp ni-tát-kỳ ba-dật-đề là không có liên quan đến tài vật để phải xả bỏ, nên chỉ cần chí thành sám hối trước chúng tăng. Nếu chúng tăng nhận cho sự sám hối đó thì người phạm tội chỉ cần tự xét lại tâm mình, quyết lòng hối cải là được.
[129] Tiếng Phạn là Pratideanỵya, dịch âm là Ba-la-đề đề-xá-ni, thường gọi tắt là Đề-xá-ni, Hán dịch nghĩa là Đối tha thuyết hướng bỉ hối, nghĩa là người phạm tội phải hướng về người khác để cầu sám hối.
[130] Tiếng Phạn là Śikṣkaranỵya, dịch âm là Thức-xoa-ca-la-ni, Hán dịch nghĩa là ưng đương học, hay ứng học tác, nghĩa là cần phải học. Còn gọi là đột-kiết-la (Duşkºta), dịch nghĩa là ác tác, nghĩa là những hành vi không tốt. Các giới này thường được gọi chung là Bách chúng học pháp, bởi vì pháp này có một trăm điều cần phải học hỏi và noi theo, quy định chi tiết cách ứng xử hàng ngày, tạo nên oai nghi tế hạnh của người xuất gia. Những pháp này rất chi ly, không nhất thiết mỗi khi phạm vào đều phải bị xử phạt, nhưng là khuôn mẫu rất quan trọng cho mỗi người để sống tốt đời sống tu tập. Người xuất gia phải luôn luôn ghi nhớ và mỗi khi có phạm vào phải tự mình bày tỏ ra và sám hối.
[131] Là bảy phương pháp hòa giải phải được áp dụng khi có sự bất hòa hoặc tranh chấp giữa các tỳ-kheo. Nếu không tuân theo bảy phương pháp này để dứt sự tranh cãi thì xem là phạm giới.
[132] Tiếng Phạn là pađcanantaryakarmṇi, Hán dịch là Ngũ nghịch hay Ngũ vô gián nghiệp, nghĩa là năm tội nghịch, khi phạm vào phải đọa địa ngục vô gián, chịu sự khổ sở không gián đoạn. Đây là năm tội nặng nhất đối với mọi chúng sanh, bao gồm: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật chảy máu và phá hòa hợp tăng.
[133] Pháp phục: y phục của người xuất gia, vì người xuất gia mặc y phục đúng theo lời Phật dạy nên gọi là pháp phục.
[134] Đột-cát-la, dịch nghĩa là ác tác hoặc ác khẩu, tùy theo trường hợp phạm tội thuộc thân nghiệp hay khẩu nghiệp.
[135] Câu này có phần không hợp văn cảnh, vì đoạn trước và đoạn sau đều đang trình bày những cách hiểu sai trái. Trong bản Đại Bát Nê-hoàn của ngài Pháp Hiển, nội dung đoạn này có vẻ như hợp lý hơn, xin trích để quý độc giả tham khảo: Việt tì-ni tội tối vi vi tế, nhược hữu tỳ-kheo phạm thử nhất nhất vi tế luật nghi, tri nhi tàng phú như quy tàng lục, đương tri thị bối bất khả tập cận. Tội việt tì-ni hết sức nhỏ nhặt khó thấy, nếu có tỳ-kheo nào phạm vào bất cứ điều nhỏ nhặt nào trong luật nghi, đã biết là phạm tội lại còn che giấu kỹ như con rùa che giấu đầu đuôi và tứ chi, nên biết rằng hạng người như vậy không thể gần gũi.
So sánh hai đoạn này thì thấy có những từ ngữ tương đồng, nhưng cách diễn đạt ý nghĩa lại khác hẳn nhau. Xin tùy độc giả cân nhắc.
[136] Nguyên bản dùng “nhược quá nhất pháp”, bản Đại Bát Nê-hoàn dùng “nhược phạm vi tế tội” đều không liên quan gì đến việc nói dối. Tham khảo sớ giải thì câu kệ này hàm ý: “Khi thuyết giới (bố-tát), nếu người có phạm giới mà được hỏi trong ba lần vẫn lặng thinh không đáp thì xem là phạm tội vọng ngữ.” Chính vì nghĩa này mà bản của ngài Pháp Hiển dịch câu thứ hai là “mặc nhiên vọng ngữ giả” chứ không phải “thị danh vọng ngữ”. Tham khảo nghĩa này nên chúng tôi dịch như trên.
[137] Ý câu hỏi này là xem việc “nhận có tánh Phật” đồng với việc “vọng xưng chứng thánh”, tức là tội đại vọng ngữ, một trong bốn tội ba-la-di.
[138] Tức là bốn tội ba-la-di, cụ thể là giết người, trộm cắp, dâm dục và vọng ngôn chứng thánh.
[139] Nguyên văn là “quá nhân pháp”. Đây là cách nói tắt, chỉ vị tỳ-kheo chưa đắc quả nhưng tự cho là mình đã chứng quả, đắc pháp hơn người.
[140] Tức là bốn Thánh quả, từ A-na-hàm đến A-la-hán.
[141] Tiếng Phạn là, dịch âm là Ưu-bà-tắc, dịch nghĩa là cư sĩ nam, tức là người đệ tử Phật nhưng chưa xuất gia, chỉ thọ giới và tu tập trong đời sống gia đình.
[142] Lược ý đoạn này trong bản dịch Đại Bát Nê-hoàn của ngài Pháp Hiển thì hiểu là: “Vì cung kính nên giao phó tiền bạc cho một vị tỳ-kheo [để lo việc xây tháp], nhưng tỳ-kheo này lại dùng tiền bạc ấy để sử dụng riêng...”
[143] Vì thế nên hạng người này tuy có ham muốn mà không thể hành dâm, ví như vị tỳ-kheo phạm tội kia không có khả năng tu tập Chánh pháp.
[144] Đoạn này miêu tả những pháp tu của các phái ngoại đạo vào thời đức Phật.
[145] Năm món lấy từ loài bò (ngũ chủng ngưu vị): Năm món ăn do con bò cái cung cấp: 1. nhũ (sữa tươi). 2. lạc (kem). 3. sanh tô (bơ sống). 4. thục tô (bơ chín). 5. đề-hồ. Nay có nghĩa là những sản phẩm được chế biến từ sữa.
[146] Đoạn này ý nói những phẩm vật có nguồn gốc từ động vật được Phật cho phép dùng, và chỉ hạn chế trong cac thứ này mà thôi.
[147] Nguyên bản dùng ma-ha-lăng-già, dịch nghĩa là đại giá y, chỉ các loại áo tốt đẹp, đắt tiền.
[148] Bốn đại, tức là Tứ đại, gồm đất, nước, gió và lửa. Theo quan điểm ngày xưa, bốn đại là bốn yếu tố căn bản tạo thành vật chất. Đất tượng trưng cho sự rắn chắc, nước tượng trưng cho sự ẩm ướt, gió tượng trưng cho sự chuyển động, và lửa tượng trưng cho hơi nóng, nhiệt năng hay năng lượng. Tất cả mọi vật chất trong vũ trụ đều hội đủ 4 yếu tố này với những tỷ lệ cân đối khác nhau.
[149] Theo bản dịch Đại Bát Nê-hoàn kinh của ngài Pháp Hiển thì từ đây bắt đầu quyển thứ 5, phẩm Tứ đế thứ 11 (Tứ đế phẩm, đệ thập nhất). Có lẽ Nam bản căn cứ vào đây nên từ chỗ này cũng bắt đầu phẩm Tứ đế, thứ 10 (Tứ đế phẩm, đệ thập).
[150] Từ đoạn này bắt đầu giảng về Tứ đế, cũng gọi là Tứ thánh đế, bao gồm Khổ đế, Tập khổ đế, Diệt khổ đế và Đạo đế.
[151] Chúng tôi đã tham khảo bản dịch Đại Bát Nê-hoàn kinh của ngài Pháp Hiển khi chuyển dịch đoạn này. Đây là đoạn văn tương đương: Nhược phục tu hành ư Như Lai tánh tác không, vô ngã tướng, đương tri thị bối như nga đầu hỏa. (Nếu tu hành mà đối với tánh Như Lai lại khởi lên các tướng trạng không, vô ngã, nên biết những kẻ ấy giống như thiêu thân lao vào ngọn lửa.)
Như vậy, hàm ý đoạn này là chỉ rõ những cách tu tập không dựa trên sự rõ biết chân thật về thể tánh Như Lai đều không thể đạt được kết quả.
[152] Tam Bảo: Ba ngôi báu là Phật, Pháp và Tăng.
[153] Theo bản dịch Đại Bát Nê-hoàn kinh thì từ đây bắt đầu phẩm Tứ đảo thứ 12 (Tứ đảo phẩm đệ thập nhị). Nam bản cũng phân chia tương tự, từ đây bắt đầu phẩm Tứ đảo thứ 11 (Tứ đảo phẩm đệ thập nhất).
[154] Ngã kiến: kiến chấp cho rằng thực sự có một bản ngã tồn tại độc lập, đối lập với thực tại bên ngoài.
[155] Theo Nam bản thì từ đây bắt đầu quyển 8, phẩm Tánh Như Lai thứ 12 (Như Lai tánh phẩm đệ thập nhị). Theo Đại Bát Nê-hoàn kinh thì từ đây cũng bắt đầu phẩm Tánh Như Lai, nhưng là phẩm thứ 13 (Như Lai tánh phẩm đệ thập tam).
[156] Hai mươi lăm cảnh (Nhị thập ngũ hữu): Trong tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) có tất cả 25 cảnh, mỗi cảnh đều có chúng sanh hữu tình, cho nên gọi là Nhị thập ngũ hữu.
- Dục giới có 14 cảnh: 1. Địa ngục, 2. Súc sanh, 3. Ngạ quỷ, 4. A-tu-la, 5. Phất-bà-đề, 6. Cồ-da-ni, 7. Uất-đan-việt, 8. Diêm-phù-đề, 9. Tứ thiên vương, 10. Tam thập tam thiên, 11. Diệm ma thiên, 12. Đâu suất thiên, 13. Hóa lạc thiên, 14. Tha hóa tự tại thiên.
- Sắc giới có 7 cảnh: 1. Sơ thiền, 2. Đại phạm vương, 3. Nhị thiền, 4. Tam thiền, 5. Tứ thiền, 6.Vô tưởng, 7. Tịnh cư A-na-hàm.
- Vô sắc giới có 4 cảnh: 1. Không xứ, 2. Thức xứ, 3. Bất dụng xứ, 4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Cộng chung là 25 cảnh giới.
[157] Tham khảo bản dịch Đại Bát Nê-hoàn kinh của ngài Pháp Hiển, đoạn này được dịch là: Ư thế tục ngã tu vô ngã tưởng, bất giải Như Lai lương y phương tiện mật giáo, tác vô ngã tưởng nhi bất năng tri chân thật chi ngã. (Đối với cái ngã của thế tục mà tu tập tư tưởng vô ngã, không hiểu rõ được phương tiện dạy dỗ sâu kín của vị lương y Như Lai, nên tuy khởi tư tưởng vô ngã mà không thể biết được cái ngã chân thật.) Dựa theo đây thì có thể hiểu là đoạn này đại lược muốn chỉ rõ sự khác biệt giữa cái ngã do phàm phu chấp giữ với cái ngã chân thật vô ngã, tức là tánh Phật, hay tánh Như Lai. Qua đó chỉ ra rằng việc tu tập pháp vô ngã nếu không được đặt trên một nhận thức đúng thật về thể tánh Như Lai thì cũng sẽ không khác gì với kẻ phàm phu chấp ngã.
[158] Tuyết Sơn: tức là núi Hy-mã-lạp sơn (Himalaya) ở phía bắc Ấn Độ. Dịch nghĩa là Tuyết Sơn. Gọi như vậy là vì trên đỉnh núi quanh năm bốn mùa đều có tuyết phủ.
[159] Vua Chuyển luân (Chuyển luân vương): vị vua có sức mạnh gồm thâu được tất cả các vua khác, cũng gọi là chuyển luân thánh vương, vì khi vị vua này ra đời thì tự nhiên xuất hiện các báu vật để vua sử dụng, trong đó có cái bánh xe có ngàn cây căm xe, giúp vua chinh phạt mọi nơi trong thiên hạ.
[160] Rừng cây rậm rạp phiền não (Phiền não tòng lâm) phiền não nhiều vô số, ví như cây cối mọc xen nhau trong rừng rậm, nên gọi là rừng cây rậm rạp phiền não (phiền não tòng lâm). Cũng viết: Rừng phiền não (Phiền não lâm).