KINH GIẢI THÂM MẬT
HT. Thích Trí Quang dịch giải 23.10.1988 PL 2532
Đệ Tử Thượng Thiện Hạ Thanh, Long Beach CA, USA Ấn Tống
Phẩm sáu: Du Dà (82)
Vào lúc bấy giờ
đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, trong
Đại thừa, các vị
Bồ tát y cứ vào chỗ nào và trú ở vào chỗ nào mà
tu tập chỉ quán?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, hãy
nhận thức rằng, trong
Đại thừa, các vị
Bồ tát tu tập chỉ quán thì lấy
giáo pháp của
Như lai thiết lập mà làm chỗ
y cứ, lấy sự không bỏ mất
tâm nguyện vô thượng bồ đề mà làm chỗ trú ở.
Nói
Sở Duyên Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, như
đức Thế tôn nói có bốn đối
cảnh sở duyên, một là có
phân biệt, hai là không
phân biệt, ba là
biên tế các pháp, bốn là
sở tác thành tựu (83) ; bốn đối cảnh này mấy là
sở duyên của chỉ, mấy là
sở duyên của quán, mấy là
sở duyên của cả chỉ quán?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, một là
sở duyên của chỉ, đó là đối cảnh không
phân biệt; một là
sở duyên của quán, đó là đối cảnh có
phân biệt; hai là
sở duyên của cả
chỉ quán, đó là đối cảnh
biên tế các pháp và đối cảnh
sở tác thành tựu.
Nói Sự Cầu Và Sự Khéo Về
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn,
Bồ tát do bốn đối
cảnh sở duyên như trên mà cầu về chỉ và khéo về quán là như thế nào?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử,
giáo pháp của
Như lai thiết lập cho
Bồ tát là
khế kinh,
ứng tụng,
ký biệt,
phúng tụng, tự thuyết,
nhân duyên,
thí dụ,
bản sự,
bản sinh,
phương quảng,
hy pháp,
luận nghị; đối với
giáo pháp ấy (84) ,
Bồ tát khéo lắng nghe, khéo
tiếp nhận, văn khéo rành rẻ, ý khéo
tìm tòi, thấy khéo
thông suốt; rồi chính nơi
giáo pháp phải khéo
tư duy (85) như vậy,
Bồ tát một mình ở chỗ không phiền không ồn mà
tác ý tư duy; sự
tư duy này phải được
nội tâm liên tục tác ý tư duy: hễ đứng vững rất nhiều trong cái
chánh hạnh ấy, sinh ra sự
khinh an (86) nơi thân và sự
khinh an nơi tâm, thì đó là chỉ, và
Bồ tát như vậy là cầu về chỉ.
Bồ tát này do cái
thân tâm khinh an trên đây làm nền tảng, đối với
ấn tượng chánh định theo
giáo pháp phải khéo
tư duy (87) nói trên, hãy
quan sát,
thắng giải (88) , bỏ cái
tâm tướng về chỉ: hễ đối với
ấn tượng chánh định cần phải chứng biết ấy mà
chính xác quyết trạch, cùng cực
quyết trạch, tầm tư
toàn bộ,
tứ sát toàn bộ, rồi
xác nhận,
ưa thích,
hiểu biết, nhìn thấy, xét thấy, thì đó là quán, và
Bồ tát như vậy là khéo về quán.
Nói
Tác Ý Tùy Thuận Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn,
Bồ tát từ khi lấy (
ấn tượng của) tâm mà làm đối tượng,
nội tâm tư duy tâm,
cho đến lúc chưa được
thân tâm khinh an, thì sự
tác ý trong thì gian đó nên gọi là gì?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, đó chưa phải là
tác ý về chỉ, mà là
tác ý thích ứng sự
thắng giải tùy thuận với chỉ.
Bạch đức Thế tôn,
cho đến lúc chưa được
thân tâm khinh an,
Bồ tát có sự
tác ý tư duy đối với
ấn tượng chánh định theo
giáo pháp phải
tư duy, sự
tác ý đó nên gọi là gì?
Thiện nam tử, đó chưa phải là
tác ý về quán, mà là
tác ý thích ứng sự
thắng giải tùy thuận với quán.
Nói Đồng Dị Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, chỉ với quán nên nói có khác nhau hay nên nói không khác nhau?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, nên nói không phải có khác nhau, cũng không phải không khác nhau. Tại sao không phải có khác nhau, vì (chỉ) lấy cái tâm đối tượng của quán mà làm đối tượng của nó; tại sao không phải không khác nhau, vì
ấn tượng có
phân biệt (của quán) không phải là
ấn tượng của nó.
Nói
Duy Thức Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn,
ấn tượng chánh định của quán cùng với
tâm thức chánh định ấy nên nói có khác hay nên nói không khác?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, nên nói không khác.
Bạch đức Thế tôn, vì sao không khác?
Thiện nam tử, vì
ấn tượng ấy chỉ là
tâm thức.
Thiện nam tử,
Như lai nói cái gì thức biết thì cái ấy chỉ do thức hiện.
Bạch đức Thế tôn, nếu
ấn tượng tâm thức không khác
tâm thức thì làm sao
tâm thức trở lại nhận thấy tâm thức?
Thiện nam tử, ở đây không có chút pháp nào
nhận thấy chút pháp nào, nhưng
chính tâm thức khi sinh ra thế nào thì hình thành đối tượng thế ấy. Như có kẻ nhờ mặt gương
trong sáng rồi chính thân mình làm duyên tố mà thấy thân mình, nhưng bảo mình thấy
hình ảnh, lại bảo
hình ảnh đó biệt lập với thân mình;
tương tự như vậy, khi
tâm thức sinh ra thì thấy như có
ấn tượng chánh định biệt lập hình thành.
Bạch đức Thế tôn, như
vậy thì chúng sinh ở trong đặc chất của mình (chứ không phải ở trong
chánh định) mà
nhận thức sắc thanh hương vị xúc pháp,
ấn tượng ấy với
nhận thức ấy cũng không khác nhau chăng?
Thiện nam tử, cũng không khác nhau; nhưng kẻ ngu ngơ thì vì
ảo giác thác loạn, không
nhận thức ấn tượng một cách đúng như
sự thật của chúng chỉ là
tâm thức, nên sinh ra
ngộ nhận.
Nói Đơn Song Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì nên nói là
Bồ tát một chiều tu quán?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, ngang nơi sự
liên tục tác ý chỉ
tư duy ấn tượng của tâm.
Bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì nên nói là
Bồ tát một chiều tu chỉ?
Thiện nam tử, ngang nơi sự
liên tục tác ý chỉ
tư duy tâm ấy
liên tục.
Bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì nên nói là
Bồ tát chỉ quán hóa hợp cùng có?
Thiện nam tử, ngang nơi sự
chính xác tư duy về tâm đồng
nhất cảnh.
Bạch đức Thế tôn,
ấn tượng của tâm là gì?
Thiện nam tử, là
ấn tượng có
phân biệt của
chánh định mà quán
chuyên chú vào.
Bạch đức Thế tôn, tâm ấy
liên tục là gì?
Thiện nam tử, là cái tâm
chuyên chú ấn tượng nói trên mà chỉ
chuyên chú vào.
Bạch đức Thế tôn, tâm đồng
nhất cảnh là gì?
Thiện nam tử, là
thấu triệt rằng
ấn tượng chánh định là
duy thức, hoặc
thấu triệt như vậy rồi lại
tư duy về
chân như.
Nói Chủng Số Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, quán có mấy thứ?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử,
đại khái quán có ba thứ, một là có tướng, hai là tầm cầu, ba là
tứ sát. Quán có tướng là gì, là
sự quán thuần
tư duy ấn tượng có
phân biệt của
chánh định; quán tầm cầu là gì, là
sự quán nhờ tuệ nên
tác ý tư duy để khéo thấu hiểu đối với
toàn bộ các pháp chưa khéo thấu hiểu; quán
tứ sát là gì, là
sự quán nhờ tuệ nên
tác ý tư duy để khéo
chứng ngộ và cực
giải thoát đối với các pháp đã khéo thấu hiểu.
Bạch đức Thế tôn, chỉ có mấy thứ?
Thiện nam tử, do chính cái
tâm liên tục theo quán nên chỉ cũng có ba thứ; lại có tám thứ, đó là bốn
tịnh lự và bốn
không định, mỗi thứ là một chỉ; lại có bốn thứ, đó là bốn
vô lượng từ bi hỷ xả, mỗi thứ là một chỉ.
Nói Y Và Bất
Y Pháp Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, như
đức Thế tôn nói
chỉ quán dựa vào pháp, lại nói
chỉ quán không
dựa vào pháp, vậy thế nào là
chỉ quán dựa vào pháp, thế nào là
chỉ quán không
dựa vào pháp?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, nếu
Bồ tát tùy thuận cái pháp đã
tiếp nhận và
tư duy, và
chỉ quán đạt được bởi
nghĩa lý của pháp ấy thì gọi là
chỉ quán dựa vào pháp; nếu
Bồ tát chưa có cái pháp đã
tiếp nhận và
tư duy, chỉ
dựa vào sự chỉ dạy của người khác, và
chỉ quán đạt được bởi
nghĩa lý của sự chỉ dạy ấy, như
quán thân thể
bất tịnh, các hành
vô thường, các
hành khổ não, các
pháp vô ngã,
niết bàn vắng lặng, những loại
chỉ quán như vậy gọi là
chỉ quán không
dựa vào pháp.
Dựa vào pháp mà được
chỉ quán thì
Như lai qui định đó là
Bồ tát tùy pháp hành, là
Bồ tát lợi căn; không
dựa vào pháp mà được
chỉ quán thì
Như lai qui định đó là
Bồ tát tùy tín hành, là
Bồ tát độn căn.
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, như
đức Thế tôn nói
chỉ quán vin vào pháp riêng biệt, lại nói
chỉ quán vin vào pháp tổng quát, vậy
chỉ quán vin pháp riêng biệt là thế nào,
chỉ quán vin pháp tổng quát là thế nào?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, nếu
Bồ tát vin vào mỗi pháp
khế kinh cho đến luận nghị, đúng
như pháp đã
tiếp nhận và
tư duy mà tu
chỉ quán, thì gọi là
chỉ quán vin pháp riêng biệt; nếu
Bồ tát vin vào các pháp
khế kinh cho đến luận nghị, tập
hợp lại làm một viên một cục một phần một khối,
tác ý tư duy các pháp ấy (bằng cách)
tùy thuận chân như,
xu hướng chân như,
đi vào chân như,
tùy thuận bồ đề,
tùy thuận niết bàn,
tùy thuận chuyển y,
xu hướng các pháp này,
đi vào các pháp này, từ các pháp này thuyết ra
vô lượng vô số thiện pháp,
tư duy như
vậy mà tu
chỉ quán thì gọi là
chỉ quán vin pháp tổng quát.
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, như
đức Thế tôn nói
chỉ quán vin pháp tổng quát nhỏ,
chỉ quán vin pháp tổng quát lớn,
chỉ quán vin pháp tổng quát
vô lượng, vậy thế nào là
chỉ quán vin pháp tổng quát nhỏ, thế nào là
chỉ quán vin pháp tổng quát lớn, thế nào là
chỉ quán vin pháp tổng quát vô lượng?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, nếu vin vào mỗi
khế kinh riêng biệt
cho đến mỗi
luận nghị riêng biệt mà làm một viên một khối để
tác ý tư duy, thì nên biết như thế đó gọi là
chỉ quán vin pháp tổng quát nhỏ; nếu vin vào các
khế kinh cho đến các
luận nghị đã
tiếp nhận và
tư duy mà làm một viên một khối để
tác ý tư duy, chứ không phải chỉ vin vào mỗi
giáo pháp riêng biệt, thì nên biết như thế đó gọi là
chỉ quán vin pháp tổng quát lớn; nếu vin vào
vô lượng giáo pháp của
Như lai, (bằng cách) vin vào
vô lượng văn từ pháp nghĩa của
giáo pháp ấy, vào
vô lượng pháp được soi tỏ bởi
vô lượng tuệ của các giai đoạn
liên tiếp sau đó, mà làm một viên một khối để
tác ý tư duy, chứ không phải chỉ vin vào các pháp đã
tiếp nhận và
tư duy, thì nên biết như thế đó gọi là
chỉ quán vin pháp tổng quát
vô lượng.
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật:
bạch đức Thế tôn,
Bồ tát ngang đâu thì gọi là
đạt được chỉ quán vin pháp tổng quát?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, ngang lúc có năm
hiệu quả sau đây thì gọi là
đạt được: một là khi
tư duy thì trong từng
sát na đã tiêu dung chỗ dựa của mọi thứ thô trọng, hai là bỏ
phân biệt mà được
pháp lạc, ba là mở tỏ
vô số ánh sáng của cái
pháp không phân biệt khắp trong
mười phương quốc độ, bốn là đã
thường xuyên hiện ra cái trí không
phân biệt do
việc làm đã thành mãn và đã
thích ứng với phần
thanh tịnh, năm là những giai đoạn sau đó vẫn
thể hiện những nhân tố
tinh tế hơn lên để làm cho
pháp thân thành mãn.
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật:
bạch đức Thế tôn,
chỉ quán vin pháp tổng quát như trên thì từ đâu gọi là
thông đạt và từ đâu gọi là chứng đắc?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, từ địa thứ nhất là
Cực hỷ thì gọi là
thông đạt, từ địa thứ ba là
Phát quang mới gọi là
chứng đắc.
Thiện nam tử, các vị
Bồ tát mới
tu học cũng
tác ý học theo
chỉ quán này, tuy chưa đáng
tán dương nhưng đừng nên nhác bỏ.
Lược Giải.-
Đoạn này, ngoài 1 đoạn nhỏ
chính yếu, còn có 4 đoạn nhỏ tiếp phụ nói thêm về
chỉ quán dựa vào pháp:
dựa vào pháp mà có pháp riêng biệt có pháp tổng quát, pháp tổng quát mà có nhỏ có lớn và có
vô lượng, 5
hiệu quả của pháp tổng quát, 2
địa vị của pháp tổng quát.
Nói Có Và Không Tầm Tứ Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn,
chỉ quán như vậy tại sao gọi là
chánh định có tầm có tứ,
chánh định không tầm chỉ tứ,
chánh định không tầm không tứ?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, đối với
ấn tượng đã thủ đắc từ
giáo pháp đã tầm tứ, những
chỉ quán có sự
tiếp nhận quán sát rất thô thì gọi là
chánh định có tầm có tứ; đối với
ấn tượng ấy, những
chỉ quán tuy không có sự
tiếp nhận quán sát rất thô nhưng có sự
tiếp nhận quán sát của ký ức
sáng tỏ rất nhỏ, thì gọi là
chánh định không tầm chỉ tứ; đối với
ấn tượng của tất cả
giáo pháp, những
chỉ quán mà sự
tiếp nhận quán sát không có mọi sự
tác ý (89) , thì gọi là
chánh định không tầm không tứ. Lại nữa,
Thiện nam tử,
chỉ quán có tầm cầu thì gọi là
chánh định có tầm có tứ,
chỉ quán có
tứ sát thì gọi là
chánh định không tầm chỉ tứ,
chỉ quán chỉ vin pháp tổng quát thì gọi là
chánh định không tầm không tứ.
Nói Chỉ, Cử Và Xả Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn,
đình chỉ là thế nào? phấn chấn là thế nào? xả bỏ là thế nào?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, khi tâm quấy động, hay khi phòng tâm quấy động, thì sự
tác ý về cái đáng chán, và sự
tác ý về cái tâm ấy
liên tục, gọi là
đình chỉ; khi tâm
chìm đắm, hay khi phòng tâm
chìm đắm, thì sự
tác ý về cái đáng vui, và sự
tác ý về cái tâm ấy, gọi là phấn chấn; hoặc chỉ có chỉ, hoặc chỉ có quán, hoặc cả
chỉ quán song hành, mà khi bị nhuốm bẩn vì hai thứ
tùy phiền não (là quấy động và
chìm đắm như trên) thì sự
tác ý trong
vô công dụng mà nhiệm vận chuyển, gọi là xả bỏ.
Nói Sự Biết Pháp Và Biết Nghĩa Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, các vị
Bồ tát tu tập chỉ quán thì phải biết pháp và biết nghĩa, vậy biết pháp là thế nào? biết nghĩa là thế nào?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, các vị
Bồ tát ấy do năm sự sau đây mà biết về pháp: một là biết tên, hai là biết câu, ba là biết văn (90) , bốn là biết riêng, năm là biết chung. Tên là thế nào, là sự
giả thiết về
tự tánh của tất cả các pháp
nhiễm tịnh. Câu là thế nào, là sự qui tụ của tên, thành cấu trúc
diễn tả về nghĩa nhiễm hay tịnh của các pháp. Văn là thế nào, là chữ mà tên và câu
dựa vào. Biết riêng những thứ trên là thế nào, là
tác ý nhận thức mỗi thứ riêng ra. Biết chung những thứ trên là thế nào, là
tác ý nhận thức các thứ trên chung lại. Tất cả những sự trên đây tổng lược
nhất trí thì gọi là biết về pháp, và biết về
pháp như vậy thì gọi là
Bồ tát biết pháp.
Lược Giải.-
Đ12 này có 4 đoạn nhỏ: nói về sự biết pháp, nói về sự biết nghĩa, nói về cái trí biết pháp biết nghĩa, nói về sự
trừ khử của cái trí ấy. Trên đây là đoạn nhỏ thứ nhất, nói về sự biết pháp.
Chính Văn.-
Thiện nam tử, các vị
Bồ tát ấy do mười sự sau đây mà biết về nghĩa: một là biết tánh tận hữu, hai là biết tánh như hữu (91) , ba là biết nghĩa
năng thủ, bốn là biết
nghĩa sở thủ, năm là biết nghĩa dựng nên, sáu là biết nghĩa hưởng dụng, bảy là biết nghĩa
đảo ngược, tám là biết
nghĩa không ngược, chín là biết nghĩa
tạp nhiễm, mười là biết
nghĩa thanh tịnh. (Một), tánh tận hữu là
biên cương tất cả chủng loại của các pháp
nhiễm tịnh,
biên cương ấy gọi là tánh tận hữu, tức năm số về uẩn, sáu số về nội xứ, sáu số về ngoại xứ, những
pháp số đại loại như vậy. (Hai), tánh như hữu là
chân như nơi các pháp
nhiễm tịnh,
chân như ấy gọi là tánh như hữu.
Chân như ấy có bảy: một là
chân như nơi sự
lưu chuyển, tức cái
tánh không mở đầu không chấm hết của các hành; hai là
chân như nơi các tướng, tức cái tánh
nhân vô ngã và
pháp vô ngã của các pháp; ba là
chân như nơi sự
liễu biệt, tức cái tánh
duy thức của các hành; bốn là
chân như nơi sự
an lập, tức
thánh đế về khổ mà
Như lai nói; năm là
chân như nơi sự
tà hành, tức
thánh đế về tập mà
Như lai nói; sáu là
chân như nơi sự
thanh tịnh, tức
thánh đế về diệt mà
Như lai nói; bảy là
chân như nơi sự chánh hành, tức
thánh đế về đạo mà
Như lai nói. Nên biết trong đây do
chân như nơi sự
lưu chuyển, nơi sự
an lập và nơi sự
tà hành nên tất cả
chúng sinh rất là
bình đẳng; do
chân như nơi các tướng và nơi sự
liễu biệt nên tất cả các pháp rất là
bình đẳng; do
chân như nơi sự
thanh tịnh nên
Thanh văn bồ đề,
Độc giác bồ đề và
Vô thượng bồ đề rất là
bình đẳng; do
chân như nơi sự chánh hành nên cái tuệ của
chỉ quán siêu việt vin vào pháp tổng quát, sau khi nghe
giáo pháp, rất là
bình đẳng. (Ba), nghĩa
năng thủ là năm
sắc xứ ở trong (92) , là
tâm ý thức và các
tâm sở. (Bốn),
nghĩa sở thủ là
sáu xứ ở ngoài, và những nghĩa
năng thủ cũng là
nghĩa sở thủ. (Năm), nghĩa dựng nên là giới
thế giới (93) , trong giới
thế giới này có thể dựng nên giới
chúng sinh, tức ruộng đất một thôn, trăm, ngàn hay trăm ngàn ruộng đất thôn ấy; hoặc một lục
địa giới hạn bởi
đại dương, trăm, ngàn hay trăm ngàn lục địa ấy; hoặc một
đại lục Thiệm bộ, trăm, ngàn hay trăm ngàn
đại lục ấy; hoặc một
bốn đại lục, trăm, ngàn hay trăm ngàn
bốn đại lục ấy; hoặc
một thế giới ngàn nhỏ, trăm, ngàn hay trăm ngàn
thế giới ngàn nhỏ ấy; hoặc
một thế giới ngàn vừa, trăm, ngàn hay trăm ngàn
thế giới ngàn vừa ấy; hoặc
một thế giới ngàn lớn (94) , trăm, ngàn hay trăm ngàn
thế giới ngàn lớn ấy; hoặc một ức, trăm, ngàn hay trăm ngàn ức
thế giới ngàn lớn ấy; hoặc một
vô số, trăm, ngàn hay trăm ngàn
vô số thế giới ngàn lớn ấy; hoặc (tại một
phương hướng),
thế giới ngàn lớn ấy nhiều đến
vô số mà có cả trăm ngàn lần, hay nhiều như số lượng
vi trần; và ở khắp
mười phương hướng có
vô lượng vô số những giới
thế giới như vậy. (Sáu), nghĩa hưởng dụng là đồ dùng của
chúng sinh thu thập (95) mà
Như lai đã nói. (Bảy), nghĩa
đảo ngược là đối với những sự từ nghĩa
năng thủ sắp đi trên đây mà tưởng thác
loạn tâm thác loạn và thấy thác loạn cho
vô thường là thường, tưởng thác
loạn tâm thác loạn và thấy thác loạn cho khổ là vui, cho
bất tịnh là tịnh, cho
vô ngã là ngã. (Tám),
nghĩa không ngược thì nên biết là
mâu thuẫn với những sự
đảo ngược ở trên, có sức
đối trị những sự
đảo ngược ấy. (Chín), nghĩa
tạp nhiễm là ba sự
tạp nhiễm khắp cả
ba cõi: một là hoặc
tạp nhiễm, hai là nghiệp
tạp nhiễm, ba là sinh
tạp nhiễm. (Mười)
nghĩa thanh tịnh là những pháp
bồ đề phần có sức cởi mở sự thắt buộc của ba sự
tạp nhiễm nói trên. Mười sự như trên đây, nên biết đã bao quát tất cả các nghĩa.
Thiện nam tử, các vị
Bồ tát ấy lại còn do biết năm sự sau đây nên gọi là biết về nghĩa. Năm sự ấy là những gì, một là sự
biến tri, hai là nghĩa
biến tri, ba là
nhân biến tri, bốn là quả
biến tri, năm là biết sự ấy. (Một), sự
biến tri thì nên hiểu là tất cả pháp
sở tri, tức các uẩn, các nội xứ, các ngoại xứ, những sự như vậy. (Hai), nghĩa
biến tri là bao nhiêu
phẩm loại khác nhau mà cần biết về sự ở trên, tức hoặc
thế tục đế với
thắng nghĩa đế; hoặc
công đức với lầm lỗi; hoặc duyên tố với thì gian (96) ; hoặc sinh, trú và diệt; hoặc như bịnh tật, (như ung thối, như trúng tên, như
đau đớn); hoặc khổ, tập, diệt, đạo; hoặc
chân như,
thật tế,
pháp giới, và những
danh hiệu cùng loại (97) ; hoặc
phong phú với khái quát (98) ; hoặc bốn cách
phán quyết là
quyết định,
phân tách, hỏi lại và lặng bỏ (99) ; hoặc
ẩn mật với
minh bạch; những
pháp như vậy nên biết là nghĩa
biến tri. (Ba),
nhân biến tri là những pháp
bồ đề phần có sức thủ đắc hai loại
biến tri ở trên, tức bốn niệm trú, bốn chánh đoạn, và những
pháp số cùng loại. (Bốn), quả
biến tri là các
sa môn quả đã tạm diệt
tham sân si (99B) và vĩnh diệt
tham sân si, cùng với những
công đức chứng
sa môn quả mà
Như lai đã nói, tức những
công đức cọng hữu hay đặc hữu mà
bao gồm cả
thế gian và
xuất thế của
Thanh văn và của
Như lai. (Năm), biết sự ấy là chính những
công đức chứng
sa môn quả nói trên, các trí
giải thoát khai thị và
tuyên dương phong phú cho người. Năm sự như trên nên biết cũng bao quát tất cả các nghĩa.
Thiện nam tử, các vị
Bồ tát ấy lại do biết bốn sự sau đây nên gọi là biết về nghĩa. Bốn sự ấy là những gì, một là
chấp thọ, hai là
lãnh nạp, ba là
liễu biệt, bốn là
nhiễm tịnh (100) . Bốn sự như trên nên biết cũng bao quát tất cả các nghĩa.
Thiện nam tử, các vị
Bồ tát ấy lại còn do biết ba sự sau đây nên gọi là biết về nghĩa. Ba sự ấy là những gì, một là văn, hai là nghĩa, ba là giới. Văn là
danh thân cú thân và
văn thân. Nghĩa thì có mười: một là sự
chân thật (101) , hai là sự
biến tri, ba là sự
vĩnh đoạn, bốn là sự
tác chứng, năm là sự
tu tập (102) , sáu là sự
chi tiết của các sự nói trên, bảy là sự tương thuộc của
sở y và
năng y, tám là
sự chướng ngại của sự
biến tri cho đến sự
tu tập, chín là sự
tùy thuận của sự
biến tri cho đến sự
tu tập, mười là nhược điểm với
ưu điểm của sự bất tri với sự
biến tri,
cho đến sự bất tu với sự
tu tập (103) . Giới là
năm giới: một là giới
thế giới (104) , hai là giới
chúng sinh, ba là giới các pháp, bốn là giới người được
thuần hóa, năm là giới
phương pháp thuần hóa. Năm sự như trên nên biết cũng bao quát tất cả các nghĩa.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ hai, nói về sự biết nghĩa.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, cái tuệ do nghe mà có và biết nghĩa của cái nó nghe, cái tuệ do nghĩ mà có và biết nghĩa của cái nó nghĩ, cái tuệ do tu
chỉ quán mà có và biết nghĩa của cái nó tu, ba cái tuệ như vậy khác nhau thế nào?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, cái tuệ do nghe mà có thì
dựa vào văn từ, chỉ như
lời nói, chưa khéo biết
ý nghĩa, (
đồng loại với cái nghĩa đã biết là
ấn tượng chánh định) chưa hiện
trước mắt,
tùy thuận với
giải thoát, nhưng chưa lãnh nhận được
sự giải thoát thành đạt. Cái tuệ do nghĩ mà có thì cũng
dựa vào văn từ, nhưng không phải chỉ như
lời nói, lại khéo biết
ý nghĩa, (
đồng loại với cái nghĩa đã biết là
ấn tượng chánh định) chưa hiện
trước mắt, nhưng càng thuận với
giải thoát, dầu cũng chưa lãnh nhận được
sự giải thoát thành đạt. Còn cái tuệ do tu mà có của
Bồ tát thì cũng
dựa vào văn từ mà cũng không
dựa vào văn từ, cũng như
lời nói mà cũng không như
lời nói, khéo biết
ý nghĩa,
đồng loại với cái nghĩa đã biết là
ấn tướng chánh định đã hiện
trước mắt, cực thuận với
giải thoát, đã lãnh nhận được
sự giải thoát thành đạt. Đó là sự biết nghĩa mà khác nhau của ba tuệ.
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, các vị
Bồ tát tu
chỉ quán thì phải biết pháp biết nghĩa, vậy biết là thế nào? thấy là thế nào?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, bằng nhiều mặt,
Như lai đã nói sự khác biệt của biết và thấy.
Như lai nay nói khái lược cho ông về sự ấy: cái tuệ
tinh tế vin vào pháp tổng quát mà tu
chỉ quán thì gọi là biết, cái tuệ
tinh tế vin vào pháp riêng biệt mà tu
chỉ quán thì gọi là thấy.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ ba, nói về cái trí biết pháp biết nghĩa.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, các vị
Bồ tát tu
chỉ quán là do
tác ý nào?
trừ khử tướng gì? và làm sao trừ khử?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tự, do
tác ý chân như, và
trừ khử pháp tướng nghĩa tướng. ẫ Đối với cái danh của pháp nghĩa, và
tự tánh của cái danh ấy, khi vô đắc (105) thì cũng không thấy cái tướng của cái danh ấy
dựa vào:
trừ khử như vậy đó; như đối với danh thì đối với câu, đối với văn và đối với nghĩa nên biết cũng cũng vậy; sau hết đối với cái giới của pháp nghĩa, và
tự tánh của cái giới ấy, khi vô đắc thì cũng không thấy cái tướng của cái giới ấy
dựa vào:
trừ khử như vậy đó.
Bạch đức Thế tôn,
thấu triệt chân như thì
tướng chân như ấy cũng bị
trừ khử chăng?
Thiện nam tử,
thấu triệt chân như hoàn toàn vô tướng và vô đắc, vậy
trừ khử cái gì.
Như lai nói rằng khi
thấu triệt chân như thì
trừ khử được
pháp tướng và
nghĩa tướng, chứ không phải
chân như được
thấu triệt đó cái khác có thể
trừ khử.
Bạch đức Thế tôn, như
đức Thế tôn nói đồ chứa nước
dơ bẩn, bức gương không sáng sạch, suối hồ nước
xao động, thì không thể nhìn thấy
hình ảnh mặt mình, nhìn thấy thì không phải những thứ trên đây;
tương tự như vậy, cái tâm mà không tu thì không thể
chính xác nhìn thấy
chân như, khéo tu cái tâm thì có thể nhìn thấy. Lời này nói về
quán trí nào và nói về
chân như nào?
Thiện nam tử, lời này nói về ba
quán trí là
quán trí do nghe mà có,
quán trí do nghĩ mà có và
quán trí do tu mà có, và căn cứ
chân như nơi sự
liễu biệt (106) mà nói.
Bạch đức Thế tôn, để
trừ khử các tướng nên các vị
Bồ tát biết
pháp tướng nghĩa tướng phải
nỗ lực tu tập phương cách trừ khử, vậy có bao nhiêu cái tướng khó trừ khử? và cái gì
trừ khử được?
Thiện nam tử, cái tướng có mười thứ, và cái Không có thể
trừ khử. Mười thứ ấy là những gì ? Một là biết pháp biết nghĩa thì có cái tướng
văn từ, cái tướng ấy được
chính yếu trừ khử bởi các
pháp không. Hai là biết
chân như nơi sự
an lập thì có cái tướng sinh trụ diệt và cái tướng
liên tục chuyển biến, hai cái tướng ấy được
chính yếu trừ khử bởi
tướng không (107) và
vô tiền hậu không (108) . Ba là biết nghĩa
năng thủ thì có cái tướng luyến tiếc
thân thể và cái tướng
ngã mạn, hai cái tướng ấy được
chính yếu trừ khử bởi
nội không và
vô sở đắc không. Bốn là biết
nghĩa sở thủ thì có cái tướng luyến tiếc
tài sản, cái tướng ấy được
chính yếu trừ khử bởi
ngoại không. Năm là biết nghĩa hưởng dụng, trong đó có trai gái
phục dịch và đồ dùng
thích hợp, thì có cái tướng trong thấy
thích thú và cái tướng ngoài thấy
tốt đẹp, hai cái tướng ấy được
chính yếu trừ khử bởi
nội ngoại không và
bản tánh không. Sáu là biết nghĩa dựng nên thì có cái tướng
thế giới bao la, cái tướng ấy được
chính yếu trừ khử bởi
đại không. Bảy là biết không
hình sắc thì có cái tướng bên trong
vắng lặng giải thoát, cái tướng ấy được
chính yếu trừ khử bởi
hữu vi không. Tám là biết
chân như nơi các tướng thì có các tướng
nhân vô ngã, tướng
pháp vô ngã,
tướng duy thức và tướng
thắng nghĩa, bốn cái tướng ấy được
chính yếu trừ khử bởi
cứu cánh không,
vô tánh không,
vô tánh tánh không và
thắng nghĩa không. Chín là biết
chân như nơi sự
thanh tịnh thì có cái tướng
vô vi và cái
tướng không biến dịch, hai cái tướng ấy được
chính yếu trừ khử bởi
vô vi không và vô biến dị không. Mười là chính sự
tác ý tư duy về cái không để
đối trị các cái tướng nói trên thì có cái
tướng không, cái tướng ấy được
chính yếu trừ khử bởi
không không.
Bạch đức Thế tôn, như vậy khi
trừ khử mười cái tướng là
trừ khử cái gì? và
giải thoát cái gì?
Thiện nam tử,
trừ khử cái tướng của
ấn tượng chánh định, và
giải thoát sự
tạp nhiễm thắt buộc (109) , rồi sự
trừ khử ấy cũng không còn. Nhưng ông nên biết
Như lai căn cứ phần đặc thù mà nói cái không này
trừ khử cái tướng kia, chứ không phải mỗi cái
không không trừ khử được mọi cái tướng.
Thí dụ vô minh không phải
không sinh ra mọi thứ
tạp nhiễm từ hành
cho đến lão tử, nhưng căn cứ phần đặc thù nên nói
vô minh sinh ra hành, vì nó là duyên tố gần nhất của hành.
Đạo lý ở đây ông nên biết cũng là như vậy.
Bạch đức Thế tôn, ở đây cái không nào là cái không tổng quát?
Bồ tát hiểu được cái không ấy thì không có những sự mất mát hư hỏng, bỏ được sự
tăng thượng mạn đối với cái không.
Đức Thế tôn, vào
lúc ấy,
ca tụng đại bồ tát Từ thị, rằng tốt lắm,
Thiện nam tử, tốt lắm; ông có thể hỏi
Như lai cái nghĩa sâu như vậy để làm cho các vị
Bồ tát không bị mất bị hỏng về cái không. Các vị
Bồ tát mất hỏng về cái không thì mất hỏng
toàn thể Đại thừa. Do vậy, ông hãy nghe cho thật kyլ
Như lai nói cho ông về cái không tổng quát. Ấy là, nơi
y tha khởi tánh và
viên thành thật tánh, mọi
biến kế chấp tánh dầu thuộc loại
tạp nhiễm hay thuộc loại
thanh tịnh đều
rốt ráo rời bỏ,
hoàn toàn vô đắc, như vậy gọi là cái không tổng quát của
Đại thừa.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ tư, nói về sự
trừ khử của cái trí biết pháp biết nghĩa.
Nói Sự Bao Quát Các Định Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn,
chỉ quán như thế này
bao gồm được mấy thứ
chánh định siêu việt?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử,
vô lượng chánh định siêu việt của
Thanh văn của
Bồ tát và của
Như lai mà
Như lai đã nói, thì ông nên biết tất cả đều
bao gồm trong
chỉ quán ở đây.
Nói
Nhân Quả Tác Dụng Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Bạch đức Thế tôn,
chỉ quán như thế này lấy gì làm nhân tố?
Thiện nam tử, nhân tố của
chỉ quán như thế này là
giới thanh tịnh, là
chánh kiến được có bởi nghe
thanh tịnh và
nghĩ thanh tịnh.
Bạch đức Thế tôn,
chỉ quán như thế này lấy gì làm thành quả?
Thiện nam tử,
thành quả của
chỉ quán như thế này là
tâm thanh tịnh và tuệ
thanh tịnh, còn nữa, hết thảy
thiện pháp thuộc loại
thế gian và thuộc loại
xuất thế của
Thanh văn và của
Như lai, nên biết toàn là
thành quả của
chỉ quán như thế này tạo ra.
Bạch đức Thế tôn,
chỉ quán như thế này làm được công việc gì?
Thiện nam tử, làm được công việc
giải thoát tướng phược và
giải thoát trọng phược.
Nói
Chướng Ngại Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Bạch đức Thế tôn, trong năm thứ
ràng buộc mà
đức Thế tôn nói, mấy thứ là sự
cản trở của chỉ? mấy thứ là sự
cản trở của quán? mấy thứ là sự
cản trở của cả hai?
Thiện nam tử, luyến tiếc
thân thể và luyến tiếc
tài sản là những sự
cản trở của chỉ, không thích
thánh giáo là sự
cản trở của quán, thích ở
xen lẫn và được ít đã đủ (110) là những sự
cản trở của cả hai: vì sự thứ nhất mà việc tu không làm được, vì sự thứ hai mà việc tu không trọn được.
Bạch đức Thế tôn, trong năm thứ ngăn che (111) , mấy thứ là sự
cản trở của chỉ? mấy thứ là sự
cản trở của quán? mấy thứ là sự
cản trở của cả hai?
Thiện nam tử,
trạo cử ố tác là sự
cản trở của chỉ,
hôn trầm thụy miên và
nghi pháp là những sự
cản trở của quán,
tham dục và
sân nhuế là những sự
cản trở của cả hai.
Bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì gọi là được
trong sáng đầy đủ về chỉ?
Thiện nam tử,
cho đến lúc bao nhiêu
hôn trầm thụy miên được
chính xác và khéo léo loại trừ thì ngang đó gọi là được
trong sáng đầy đủ về chỉ.
Bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì gọi là được
trong sáng đầy đủ về quán?
Thiện nam tử,
cho đến lúc bao nhiêu
trạo cử ố tác được
chính xác và khéo léo loại trừ thì ngang đó gọi là được
trong sáng đầy đủ về quán.
Bạch đức Thế tôn,
Bồ tát khi
chỉ quán đã
hiện ra thì phải biết có mấy thứ làm cho tâm xao động?
Thiện nam tử, phải biết có năm thứ:
tác ý, ngoại tâm,
nội tâm, cảnh tướng, thô trọng. Một, nếu
Bồ tát rời
tác ý hợp với
Đại thừa mà rơi vào những
tác ý hợp với
Thanh văn Độc giác thì gọi là
tác ý xao động. Hai, nếu bao nhiêu tầm tư đều xuôi theo
phiền não khi đối trước đa dạng của năm thứ
dục lạc tuyệt hảo, nếu buông thả
tâm trí ra chảy
tràn vào ngoại cảnh, thì gọi là ngoại tâm
rối loạn. Ba, nếu vì
hôn trầm và
thụy miên, vì
trầm một (112) , vì
đam mê về định (113) , vì sự nhuốm bẩn của một
tùy phiền não nào đó
chướng ngại cho định (114) , thì gọi là
nội tâm xao động. Bốn, nếu đối với cảnh tướng ngoài định mà nghĩ là cảnh tướng của định (115) bên trong thì gọi là cảnh tướng
xao động. Năm, nếu những
cảm giác do
tác ý sinh ra mà cho là do cái thân thô trọng nên chấp tự ngã, nổi
kiêu mạn, thì gọi là thô trọng
xao động.
Bạch đức Thế tôn, từ
Bồ tát địa đầu tiên
cho đến Như lai địa,
chỉ quán như thế này
đối trị được những
sự chướng ngại nào?
Thiện nam tử,
chỉ quán như thế này trong
Bồ tát địa đầu tiên thì
đối trị được
sự chướng ngại vì hoặc nghiệp sinh
tạp nhiễm của
ác đạo, trong
Bồ tát địa thứ hai thì
đối trị được
sự chướng ngại vì
hiện hành của sự
lầm lỡ vị phạm rất nhỏ, trong
Bồ tát địa thứ ba thì
đối trị được
sự chướng ngại vì
tham lam của dục, trong
Bồ tát địa thứ tư thì
đối trị được
sự chướng ngại vì định ái và
pháp ái, trong
Bồ tát địa thứ năm thì
đối trị được
sự chướng ngại vì một chiều chống
sinh tử hướng
niết bàn, trong
Bồ tát địa thứ sáu thì
đối trị được
sự chướng ngại vì
hiện hành nhiều của
thô tướng, trong
Bồ tát địa thứ bảy thì
đối trị được
sự chướng ngại vì
hiện hành của tế tướng, trong
Bồ tát địa thứ tám thì
đối trị được
sự chướng ngại vì phải da
công dụng đối với
vô tướng và không
tự tại đối với
hữu tướng, trong
Bồ tát địa thứ chín thì
đối trị được
sự chướng ngại vì không
tự tại đối với
ngôn từ khéo léo về mọi chủng loại, trong
Bồ tát địa thứ mười thì
đối trị được
sự chướng ngại vì không
chứng đắc pháp thân viên mãn. Và
chỉ quán như thế này, trong
Như lai địa thì
đối trị được
phiền não chướng và
sở tri chướng cực vi tế; và tối
cực vi tế, vì
vĩnh viễn hại được hai chướng như vậy nên chứng được một cách
cứu cánh cái trí thấy biết
hoàn toàn, không còn
vướng mắc không còn
chướng ngại, lại do đối tượng
sở tác thành tựu (116) (của cái trí nói trên) nên lập ra
pháp thân tối cực
thanh tịnh.
Nói Sự
Chứng Đắc Bồ Đề Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế Tôn,
Bồ tát do
nỗ lực tu hành chỉ quán mà
chứng đắc vô thượng bồ đề là thế nào?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, nếu
Bồ tát đã được
chỉ quán bằng cách căn cứ bảy
chân như, đúng như cái pháp đã nghe và đã nghĩ, do
tâm trí của
chánh định siêu việt mà bên trong tự
chánh tư duy về tánh
chân như đã khéo
thẩm định khéo
tư lượng và khéo
thiết lập, thì vì
chánh tư duy chân như nên đối với sự
hiện hành của tế tướng
tâm trí còn bỏ được, huống chi đối với sự
hiện hành của
thô tướng. Tế tướng là
ấn tượng chấp thọ,
lãnh nạp,
liễu biệt và
nhiễm tịnh (117) , là
ấn tượng pháp trong, pháp ngoài và trong ngoài (118) , là
ấn tượng cho rằng mình làm mọi sự
lợi ích chúng sinh, là
ấn tượng chánh trí,
chân như, là
ấn tượng khổ tập diệt đạo, là
ấn tượng hữu vi,
vô vi, là
ấn tượng hữu thường,
vô thường, là
ấn tượng khổ có biến dị,
khổ không biến dị, là
ấn tượng hữu vi đa dạng,
hữu vi đồng nhất, là
ấn tượng tất cả được có bởi biết tất cả là tất cả (119) , là
ấn tượng nhân vô ngã,
pháp vô ngã, mọi
ấn tượng như vậy
tâm trí Bồ tát loại bỏ được cả.
Bồ tát ở nhiều trong sự
tu hành như thế này nên lúc nào cũng khéo
sửa trị tâm trí của mình trong mọi sự
ràng buộc, ngăn che và
xao động. Từ đó về sau, đối với bảy
chân như có bảy cái
trí thông suốt,
tự chứng bên trong, được riêng biệt sinh ra (120) , và gọi là
Kiến đạo vị. Do được như vậy nên gọi là vị nhập vào chánh tánh
ly sanh (121) của
Bồ tát, vị sinh vào nhà
Như lai, vị
chứng đắc Bồ tát địa đầu tiên, vị hưởng dụng mọi
thành quả siêu việt của
Bồ tát địa này.
Bồ tát như vậy, trước đây được
chỉ quán bằng cách được đối tượng có
phân biệt và đối tượng không
phân biệt, nay được
Kiến đạo vị là được thêm đối tượng
biên tế các pháp (121B). Rồi các giai đoạn
liên tiếp về sau, trong tất cả
Bồ tát địa còn lại, thì
tiến tu Tu đạo vị, bằng cách
tác ý tư duy cả ba đối tượng nói trên. Tựa như có kẻ lấy chốt nhỏ đẩy chốt to ra, vị
Bồ tát này, với cách lấy chốt tháo chốt mà
trừ khử mọi
ấn tượng có từ bên trong, nên bao nhiêu cái tướng thuộc loại
tạp nhiễm đều
trừ khử cả, và tướng phược được
trừ khử nên trọng phược cũng
trừ khử. Vì
vĩnh viễn hại được tướng phược và trọng phược nên
tuần tự trong các
Bồ tát địa về sau, vị
Bồ tát này
y như cách luyện vàng mà luyện tâm mình,
cho đến chứng được
vô thượng bồ đề, nghĩa là chứng được đối tượng
sở tác thành tựu (122) .
Thiện nam tử, như thế đó gọi là
Bồ tát từ bên trong
tu hành chính xác về
chỉ quán nên chứng được
vô thượng bồ đề.
Nói Sự Dẫn Ra
Uy Đức Quản Đại Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, như thế nào là
Bồ tát tu hành (
chỉ quán) dẫn ra
uy đức cao rộng của Bồ tát?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử,
Bồ tát khéo biết sáu sự sau đây thì có thể dẫn ra
uy đức cao rộng của
Bồ tát: khéo biết tâm phát sinh, khéo biết tâm trú ở, khéo biết tâm thoát ra, khéo biết tâm thêm lên, khéo biết tâm bớt đi, khéo biết các
phương tiện. Một, khéo biết tâm phát sinh là
chính xác biết
mười sáu tâm phát sinh khác nhau, đó là thứ nhất, sự phát sinh của cái thức mà
hành tướng năng duyên khó biết,
liên tục chấp thọ sắc căn và
liên tục chấp trì thế giới, đó là
a đà na thức; thứ hai, sự phát sinh của cái thức mà
hành tướng đa dạng vin theo đối cảnh đa dạng, đó là
phân biệt ý thức nhận thức một lúc tất cả đối cảnh
sắc thanh hương vị xúc và cảm nhận một lúc tất cả
ấn tượng của
giác quan ở trong và đối cảnh ở ngoài, đó là
phân biệt ý thức trong một thoáng mà nhập nhiều
chánh định, thấy nhiều
cõi Phật, thấy nhiều
đức Phật; thứ ba, sự phát sinh của cái thức mà đối cảnh nhỏ hẹp, đó là thức hệ thuộc
Dục giới; thứ tư, sự phát sinh của cái thức mà đối cảnh rộng lớn, đó thức hệ thuộc
Sắc giới; thứ năm, sự phát sinh của cái thức mà đối cảnh
vô lượng, đó là thức hệ thuộc
Không vô biên xứ và
Thức vô biên xứ; thứ sáu, sự phát sinh của cái thức mà đối cảnh
vi tế, đó là thức hệ thuộc
Vô sở hữu xứ; thứ bảy, sự phát sinh của cái thức mà đối cảnh tận biên, đó là thức hệ thuộc Phi
phi tưởng xứ; thứ tám, sự phát sinh của cái thức mà đối cảnh
vô tướng, đó là thức
siêu thoát thế gian và thức vin theo
niết bàn; thứ chín, sự phát sinh của cái thức đi đôi với
khổ thọ, đó là thức
địa ngục; thứ mười, sự phát sinh của cái thức đi đôi với tạp thọ, đó là thức
Dục giới; mười một, sự phát sinh của cái thức đi đôi với
hỷ thọ, đó là thức
Sơ thiền và
Nhị thiền; mười hai, sự phát sinh của cái thức đi đôi với
lạc thọ, đó là thức
Tam thiền; mười ba, sự phát sinh của cái thức đi đôi với
xả thọ, đó là thức
Tứ thiền cho đến Phi
phi tưởng xứ; mười bốn, sự phát sinh của cái thức đi đôi với các pháp nhiễm, đó là thức
thích ứng với mọi
phiền não và
tùy phiền não; mười lăm, sự phát sinh của cái thức đi đôi với các pháp lành, đó là thức
thích ứng với
tâm sở thiện; mười sáu, sự phát sinh của cái thức đi đôi với pháp
vô ký, đó là thức không
thích ứng cả hai loại
tâm sở nói trên. Hai, khéo biết tâm trú ở là biết
chính xác chân như nơi sự
liễu biệt (123) . Ba, khéo biết tâm thoát ra là biết
chính xác rằng phải
thoát khỏi hai thứ tướng phược và trọng phược, và đó là khéo biết rằng phải làm cho tâm mình thoát ra hai thứ như vậy (124) . Bốn, khéo biết tâm thêm lên là biết
chính xác về cái
tâm trí đối trị được tướng phược và trọng phược khi nó lớn thêm khi nó dồn lại, (những gì
tùy thuộc nó) cũng được lớn thêm cũng được dồn lại. Năm, khéo biết tâm bớt đi là biết
chính xác về cái bị
đối trị, tức cái
tâm trí bị bẩn vì tướng phược và trọng phược khi nó
lui lại khi nó bớt đi, (những gì
tùy thuộc nó) cũng bị
lui lại cũng bị bớt đi. Sáu, khéo biết các
phương tiện là biết
chính xác về
tám giải thoát tám thắng xứ và
mười biến xứ, về cách
tu tập và về sự
trừ khử (của các pháp này).
Thiện nam tử,
Bồ tát nào khéo biết như
vậy thì uy đức cao rộng của
Bồ tát hoặc đã được dẫn ra, hoặc sẽ được dẫn ra, hoặc đang được dẫn ra.
Lược Giải.-
Ở đây cho thấy
uy đức của Tâm cao rộng biết bao. Biết
uy đức ấy mà
tu tập để
phục hồi và vận dụng thì thế chính là
uy đức Bồ tát được dẫn ra đó.
Nói Nhập
Vô Dư Y Diệt Các Thọ Của
Chỉ QuánChính Văn.-
Đại bồ tát Từ thị thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, như
đức Thế tôn nói trong
niết bàn hoàn toàn (125) thì hết thảy
cảm giác (126)
vĩnh viễn diệt hết, không còn thừa sót, vậy những
cảm giác nào bị
vĩnh viễn diệt hết ở đây?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử, lấy cốt yếu mà nói thì ở đây có hai loại
cảm giác vĩnh viễn diệt hết, không còn thừa sót, đó là một,
cảm giác xuất từ
giác quan, và hai,
cảm giác xuất từ đối cảnh (127) .
Cảm giác xuất từ
giác quan lại có bốn loại: thứ nhất là
cảm giác dựa vào giác quan có sắc chất, thứ hai là
cảm giác dựa vào giác quan không sắc chất, thứ ba là
cảm giác của kết quả đã
hoàn thành, thứ tư là
cảm giác của kết quả chưa
hoàn thành ẫ kết quả đã
hoàn thành là
cảm giác hưởng chịu trong
hiện tại, kết quả chưa
hoàn thành là
cảm giác làm nhân cho
vị lai (128) .
Cảm giác xuất từ đối cảnh cũng có bốn loại: thứ nhất là
cảm giác do
thế giới đang sống (129) , thứ hai là
cảm giác do đồ dùng để sống, thứ ba là
cảm giác do hưởng dụng hai loại trên, thứ tư là các giác do luyến tiếc hai loại trên. Trong
niết bàn chưa toàn thì đã diệt hết tất cả
cảm giác của kết quả chưa
hoàn thành, còn lại là
cảm giác phát sinh từ
tuệ giác đối trị, là
cảm giác mà
thánh giả và
phàm phu đều có, là
cảm giác của kết quả đã
hoàn thành; lại nữa, (trong
niết bàn chưa toàn) cũng diệt hết cả hai loại
cảm giác (của kết quả là đã
hoàn thành và chưa
hoàn thành), còn lại chỉ có
cảm giác phát sinh từ
tuệ giác đối trị. Còn
niết bàn hoàn toàn mà nhập vào thì lúc đó cái
cảm giác phát sinh từ
tuệ giác đối trị cũng không còn. Do vậy nên
Như lai nói rằng trong
niết bàn hoàn toàn, hết thảy
cảm giác đều
vĩnh viễn diệt cả, không còn thừa sót.
Lược Giải.-
Rõ ràng đoạn này nói về
niết bàn một cách cho giống
niết bàn của
La hán, chứ chưa phải nói về
đại niết bàn của Phật. Còn
cảm giác thì coi lại phẩm một và coi tới phẩm tám sẽ thấy
cảm giác của Phật là thế nào, ấy là chưa kể
cảm giác vì
chúng sinh mà có.
Kết Thúc Pháp Thoại Chỉ QuánChính Văn.-
Lúc ấy đức Thế tôn dạy như vậy rồi lại nói với
đại bồ tát Từ thị: Tốt lắm,
Thiện nam tử, hôm nay ông khéo căn cứ pháp du dà
tinh tế, cùng cực
trong sáng và
hoàn toàn đầy đủ mà xin hỏi
Như lai. Đối với pháp du dà, vốn ông đã được sự khéo léo
hiểu biết một cách
quyết định và tột bậc.
Như lai cũng đã nói cho ông về pháp du dà
tinh tế, cùng cực
trong sáng và
hoàn toàn đầy đủ. Trong
quá khứ và trong
vị lai, bao nhiêu bậc
Chánh biến giác đã nói và sẽ nói thì cũng toàn là nói như vậy. Các
thiện nam và
thiện nữ nên
dựa vào pháp thoại này,
dũng mãnh tinh tiến mà
chính xác tu học.
Đức Thế tôn muốn lặp lại
ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
Đối với du dà
giáo pháp lập ra (130) ,
ai sống buông thả
mất
đại niết bàn;
dựa vào du dà
giáo pháp lập ra,
chính xác tu tậpđược
đại bồ đề.
Thấy mà thủ đắc,
khó mong giải thoát!
cho cái thấy ấy
là đã được Pháp,
kẻ ấy rời xa
khỏi pháp du dà
như là mặt đất
cách xa
không gian.
Lợi ích chúng sinhmột cách bền bỉ
mà không nghĩ rằng
mình làm như vậy:
lĩnh hội như vậy
càng làm lợi người.
Ai người có trí
làm hết kiếp lượng (131)
thì được cái mừng
cao cả
trong sáng.
Ai vì
dục vọngmà thuyết
chánh pháp,
thì người như vậy
phải được gọi là
đã bỏ
dục vọnglại theo dục vọng!
Ngu si như vậy
mà được Pháp này
thì như một kẻ
được ngọc
vô giámà đi lang thang
làm kẻ ăn mày!
Cái lối
luận bànvô ích ồn náo
thì phải bỏ đi
để mà nổi dậy
hạnh nguyện tinh tiếnvào bậc
thượng thừa:
vì để
hóa độcả trời và người,
hãy siêng
tu họcpháp du dà này!
Bấy giờ
đại bồ tát Từ thị lại thưa Phật:
bạch đức Thế tôn, trong
toàn bộ pháp thoại Giải
thâm mật,
pháp thoại này nên mệnh danh là gì? chúng con phải kính cẩn ghi nhớ như thế nào?
Đức Thế tôn dạy
đại bồ tát Từ thị:
Thiện nam tử,
pháp thoại này tên là
Nghĩa lý hoàn hảo về du dà. Ông hãy kính cẩn ghi nhớ theo cái tên như vậy.
Khi
đức Thế tôn nói
pháp thoại Nghĩa lý hoàn hảo về du dà thì trong
đại hội có sáu trăm ngàn
chúng sinh phát tâm vô thượng bồ đề; ba trăm ngàn
Thanh văn lánh xa bụi bặm, tách rời
dơ bẩn, đối với các pháp thì được mắt pháp
trong sáng; một trăm năm mươi ngàn
Thanh văn hết hẳn mọi sự sơ hở, tâm
được giải thoát; bảy mươi lăm ngàn
Bồ tát được
tác ý về du dà rộng lớn.