KINH GIẢI THÂM MẬT
HT. Thích Trí Quang dịch giải 23.10.1988 PL 2532
Đệ Tử Thượng Thiện Hạ Thanh, Long Beach CA, USA Ấn Tống
Phẩm năm: Vô tánh (64)
Lúc ấy đại bồ tát Thắng nghĩa sinh thưa Phật:
Bạch đức Thế tôn, con từng
một mình ở chỗ
thanh vắng,
tâm trí tầm tư
như vầy, bằng nhiều mặt,
đức Thế tôn đã nói
đặc tính, phát sinh, tận diệt,
vĩnh đoạn và
biến tri của
năm uẩn; như Ngài đã nói
năm uẩn, thì Ngài đã nói
mười hai xứ, mười hai
duyên khởi và bốn thực cũng như vậy; bằng nhiều mặt, Ngài đã nói
đặc tính,
biến tri,
vĩnh đoạn,
tác chứng và
tu tập của bốn đế; bằng nhiều mặt, Ngài đã nói
đặc tính, chủng loại, đa dạng,
vĩnh đoạn và
biến tri của
mười tám giới; bằng nhiều mặt, Ngài đã nói
đặc tính, năng trị, sở trị,
tu tập chưa sinh thì phát sinh, đã sinh thì
kiên cố, bội phần
tu tập cao lên và rộng ra của bốn niệm trú; như Ngài đã nói bốn niệm trú, thì Ngài đã nói bốn chính đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực,
bảy giác chi và
tám thánh đạo cũng như vậy. Nhưng
đức Thế tôn lại nói các
pháp toàn không,
không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn.
Bạch đức Thế tôn, con chưa
hiểu rõ do
mật ý nào mà Ngài nói như vậy? Con xin thỉnh vấn Ngài về nghĩa ấy; xin Ngài thương mà
giải thích cho chúng con về
mật ý mà Ngài nói các
pháp toàn không,
không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn. Bấy giờ
đức Thế tôn bảo
đại bồ tát Thắng nghĩa sinh: Tốt lắm,
Thắng nghĩa sinh, sự tầm tư của ông rất là đúng lý. Tốt lắm,
Thắng nghĩa sinh, ông có thể hỏi
Như lai cái thâm nghĩa như vậy. Vậy là ông muốn
lợi ích yên vui cho
vô lượng chúng sinh. Ông thương tưởng cả
thế giới loài người, và tám
bộ loại khác, muốn làm cho họ được lợi thật, được yên vui, nên phát ra câu hỏi vừa rồi. Ông hãy nghe kyծ
Như lai sẽ
giải thích cho ông về
mật ý mà
Như lai đã nói rằng các
pháp toàn không,
không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn.
Lược Giải.-
Đổi
từ ngữ mà nói thì chính 3
tự tánh được nói là 3
vô tánh, cho thấy Phật nói không thì cái không ấy là thế nào.
Giải Thích 3
Vô TánhChính Văn.-
Thắng nghĩa sinh, hãy
nhận thức rằng
Như lai căn cứ ba
vô tánh sau đây mà
mật ý nói các
pháp toàn không, ấy là tướng
vô tánh, sinh
vô tánh,
thắng nghĩa vô tánh. Tướng
vô tánh là thế nào, là chính
biến kế chấp tánh của các pháp, tại sao, vì tánh ấy do
giả danh thiết lập chứ không phải do
tự tướng thiết lập, nên gọi là tướng
vô tánh. Sinh
vô tánh là thế nào, là
chính y tha
khởi tánh của các pháp, tại sao, vì do cái khác là duyên tố mà có chứ không phải
tự nhiên mà có, nên gọi là sinh
vô tánh.
Thắng nghĩa vô tánh là thế nào, là (một mặt), các pháp do sinh
vô tánh mà nói là
vô tánh, có nghĩa chính các
pháp duyên sinh cũng gọi là
thắng nghĩa vô tánh, tại sao, vì nơi các pháp, nếu là
thanh tịnh sở duyên thì
Như lai nói là
thắng nghĩa vô tánh, mà
y tha khởi tánh không phải
thanh tịnh sở duyên nên cũng gọi là
thắng nghĩa vô tánh. Thêm nữa, (mặt khác),
viên thành thật tánh của các pháp cũng gọi là
thắng nghĩa vô tánh, tại sao, tại
pháp vô ngã của tất cả các pháp thì gọi là
thắng nghĩa,
thắng nghĩa này cũng gọi là
vô tánh, vì nó mới là
thắng nghĩa của các pháp và do
vô tánh hiển lộ, nên (
viên thành thật tánh) gọi là
thắng nghĩa vô tánh (65) .
Tương tự không hoa, tướng
vô tánh cũng vậy.
Tương tự ảo tượng (của
ảo thuật), sinh
vô tánh cũng vậy,
thắng nghĩa vô tánh mặt thứ nhất cũng vậy.
Tương tự hư không do
sắc tướng vô tánh hiển lộ và
phổ biến tất cả (66) ,
thắng nghĩa vô tánh mặt thứ hai cũng vậy, vì do
pháp vô ngã hiển lộ và
phổ biến tất cả.
Như lai căn cứ ba
vô tánh như
vậy mà mật ý nói rằng các
pháp toàn không.
Lược Giải.-
Trọn đoạn E2
giải thích 3
vô tánh có đến 7 đoạn nhỏ. Trên đây là đoạn nhỏ thứ nhất,
giải thích 3
vô tánh.
Chính Văn.-
Thắng nghĩa sinh, ông nên biết
Như lai căn cứ tướng
vô tánh mà
mật ý nói các
pháp không sinh không diệt,
bản lai vắng bặc,
tự tánh niết bàn, vì sao, vì nếu
tự tướng các
pháp toàn không thì
không sinh,
không sinh thì không diệt,
không sinh diệt thì
bản lai vắng bặt,
bản lai vắng bặt thì
tự tánh niết bàn, trong đó không có chút gì gọi là có để còn phải làm cho nhập vào
niết bàn, nên
Như lai căn cứ tướng
vô tánh mà
mật ý nói các
pháp không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn. Thế nhưng
Như lai cũng căn cứ
thắng nghĩa vô tánh được
hiển lộ bởi
pháp vô ngã mà
mật ý nói các
pháp không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn, vì sao, vì
thắng nghĩa vô tánh do
pháp vô ngã hiển lộ thì, luôn luôn và
vĩnh viễn,
pháp tánh các pháp là
an trú,
vô vi, không
thích ứng với tất cả
tạp nhiễm: luôn luôn và
vĩnh viễn,
pháp tánh các pháp là
an trú nên
vô vi, là
vô vi nên
không sinh diệt, là không
thích ứng với tất cả
tạp nhiễm nên
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn, thế nên
Như lai căn cứ
thắng nghĩa vô tánh do
pháp vô ngã hiển lộ mà
mật ý nói các
pháp không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ hai, căn cứ 3
vô tánh mà
giải thích câu nói các
pháp toàn không,
không sinh diệt,
bản lai niết bàn.
Chính Văn.-
Thắng nghĩa sinh, nhưng không phải vì trong
chúng sinh giới có những kẻ nhìn riêng
biến kế chấp cho là
tự tánh, cũng không phải vì những kẻ ấy nhìn riêng
y tha khởi hay
viên thành thật cho là
tự tánh cả, mà
Như lai thiết lập ba
vô tánh.
Như lai thiết lập ba
vô tánh là vì những kẻ nơi
y tha khởi tánh và
viên thành thật tánh mà tăng thêm
biến kế chấp tánh. Những kẻ ấy, do
biến kế chấp tánh (
quá khứ) nên (
hiện tại) nơi
y tha khởi tánh và
viên thành thật tánh mà nổi lên
ngôn ngữ; như
ngôn ngữ nổi lên thế nào thì cũng như thế ấy (67) mà
ngôn ngữ huân tập vào tâm,
ngôn ngữ phát sinh ra biết,
ngôn ngữ liên tục trong tâm (67B) , nên nơi
y tha khởi tánh và
viên thành thật tánh mà tăng thêm
biến kế chấp tánh (68) . Vì, như
biến kế chấp tánh thế nào thì cũng như thế ấy (68B) , nơi
y tha khởi tánh và
viên thành thật tánh mà tăng thêm
biến kế chấp tánh, nên phát sinh
y tha khởi tánh trong tương lai, nghĩa là bị hoặc
tạp nhiễm, bị nghiệp
tạp nhiễm, bị sinh
tạp nhiễm, nên trong
phạm vi sinh tử, (những kẻ ấy) mãi hoài dong ruổi, trôi lăn, không hề ngừng nghỉ, chịu mọi
khổ não trong
nại lạc ca (69) , trong
bàng sinh, trong
ngạ quỉ, trong
chư thiên, trong
tu la, trong
nhân loại.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ ba, nói tại sao lập ra 3
vô tánh (
hay nói vì người nào mà lập ra 3
vô tánh).
Chính Văn.-
Thắng nghĩa sinh, với những người từ
hồi nào đến giờ chưa gieo trồng
thiện căn, chưa làm sạch
chướng ngại (70) , chưa
thành thục liên tục (71) , chưa tu nhiều
thắng giải, chưa thể dồn chứa hai thứ
tư lương phước đức trí tuệ, thì
Như lai vì họ, căn cứ sinh
vô tánh mà
tuyên thuyết pháp yếu;
nghe pháp yếu này rồi, họ có thể
tùy sức mà lý giải các
hành duyên sinh là không
thường hằng, không
yên ổn,
biến động, hư rã; lý giải như vậy rồi, đối với các hành, họ e sợ,
chán ghét sâu xa; e sợ
chán ghét như vậy nên họ
kềm chế điều ác, với điều ác thì có khả năng
đình chỉ, với điều thiện thì có khả năng
tu tập;
tu tập điều thiện nên chưa gieo trồng
thiện căn thì có thể gieo trồng, chưa làm sạch
chướng ngại thì có thể làm sạch, chưa
thành thục liên tục thì có thể
thành thục, và do
vậy mà tu nhiều
thắng giải, dồn nhiều hai thứ
tư lương phước đức trí tuệ. Tuy gieo trồng
thiện căn cho đến dồn nhiều hai thứ
tư lương phước đức trí tuệ, nhưng đối với sinh
vô tánh, họ vẫn chưa
như thật thấu triệt tướng
vô tánh và hai
thắng nghĩa vô tánh, nghĩa là đối với các hành, họ vẫn chưa
chán ghét chính xác, chưa
ly dục chính xác, chưa
giải thoát chính xác, chưa
giải thoát toàn thể hoặc
tạp nhiễm, chưa
giải thoát toàn thể nghiệp
tạp nhiễm, chưa
giải thoát toàn thể sinh
tạp nhiễm, nên
Như lai nói thêm
pháp yếu cho họ về tướng
vô tánh và
thắng nghĩa vô tánh, vì muốn làm cho họ đối với các hành có thể
chán ghét chính xác,
ly dục chính xác,
giải thoát chính xác,
vượt qua toàn thể hoặc
tạp nhiễm,
vượt qua toàn thể nghiệp
tạp nhiễm,
vượt qua toàn thể sinh
tạp nhiễm; được
nghe pháp yếu
Như lai nói thêm cho như vậy, nên, đối với sinh
vô tánh, họ có thể tin hiểu
chính xác về tướng
vô tánh và
thắng nghĩa vô tánh, lựa lọc
suy xét, thấu suốt
chính xác, nghĩa là nơi
y tha khởi tánh họ không còn chấp
biến kế chấp tánh, cái trí không còn
huân tập theo
ngôn ngữ, không còn
nhận thức theo
ngôn ngữ, không còn
liên tục theo
ngôn ngữ, nên họ có thể hủy diệt
y tha khởi tánh, ngay trong
hiện tại họ được nắm giữ bởi
sức mạnh của cái trí như trên nên
vĩnh viễn diệt được cái nhân
đời sau, tức là đối với các hành họ
chán ghét chính xác,
ly dục chính xác,
giải thoát chính xác,
giải thoát toàn thể hoặc, nghiệp, sinh, ba loại
tạp nhiễm.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ tư, nói về
tu chứng 3
vô tánh. Tựu trung có 2 giai đoạn
tu chứng được nói đến là
Tư lương vị và Da hành vị.
Chính Văn.-
Thắng nghĩa sinh, những người có
chủng tánh đi theo Thanh văn thừa cũng do
con đường và dấu đi này mà được
niết bàn yên ổn tối thượng, những người có
chủng tánh đi theo Độc giác thừa, những người có
chủng tánh đi theo Như lai thừa, cũng do
con đường và dấu đi này mà được
niết bàn yên ổn tối thượng; tất cả các vị
Thanh văn Độc giác Bồ tát cùng đi
con đường sạch sẽ
tinh tế và
duy nhất này, cùng được sự
thanh tịnh toàn hảo và
duy nhất này, chứ không có
con đường và sự
thanh tịnh thứ hai, nên
Như lai căn
cứ sự thể ấy mà
mật ý nói chỉ có
Nhất thừa. Chứ không phải trong
chúng sinh giới không có những
chủng tánh khác nhau, hoặc
độn căn, hoặc
trung căn, hoặc
lợi căn. Do vậy, nếu người có
chủng tánh Thanh văn một chiều đi đến
niết bàn, thì dầu được ơn Phật
thiết lập đủ cách cải hoán hướng dẫn cho họ
tu hành dũng mãnh đi nữa, cũng không bao giờ có thể làm cho họ sẽ ngồi nơi
bồ đề tràng mà được
vô thượng giác, tại sao, vì họ vốn chỉ có
chủng tánh thấp kém, một chiều
từ bi bạc nhược, một chiều khiếp sợ khổ sở; vì một chiều
từ bi bạc nhược nên họ một chiều trái bỏ những
công hạnh ích lợi chúng sinh, vì một chiều khiếp sợ khổ sở nên họ một chiều trái bỏ những
thệ nguyện phát khởi công hạnh, và
Như lai không bao giờ nói những người một chiều trái bỏ
công hạnh ích lợi chúng sinh và một chiều trái bỏ
thệ nguyện phát khởi công hạnh sẽ được ngồi nơi
bồ đề tràng và
thành tựu vô thượng giác, nên
Như lai gọi những người này là
Thanh văn một chiều đi đến
niết bàn. Nếu người có
chủng tánh Thanh văn xoay lại hướng về
bồ đề, thì
Như lai cũng dùng cách nói khác mà nói họ là
Bồ tát, tại sao, vì họ
giải thoát phiền não chướng rồi, khi được ơn Phật
thức tỉnh cho, thì đối với
sở tri chướng họ cũng sẽ
được giải thoát; chỉ bởi nguyên thỉ họ vì
tự lợi mà
tu hành những cách
giải thoát phiền não chướng, nên
Như lai nói họ là
chủng tánh Thanh văn.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ năm, nói khuynh hướng khác nhau của những người
tu chứng 3
vô tánh. Chính khuynh hướng này hình thành
Thanh văn Bồ tát,
tiểu thừa đại thừa,
La hán Phật đà, dầu 3
vô tánh chính là
nhất thừa.
Chính Văn.-
Thắng nghĩa sinh, như thế đó, trong
chánh pháp mà
Như lai khéo
tuyên thuyết, khéo qui định, và được nói ra bởi
ý muốn cực kỳ
trong sạch,
vẫn có những
nhận thức khác nhau của nhiều hạng người.
Như lai vốn căn cứ ba
vô tánh như trên, nhưng do
mật ý sâu xa, nên trong những kinh
nghĩa lý chưa
hoàn hảo mà
Như lai đã nói,
Như lai nói
pháp yếu theo cách nói kín đáo, rằng các
pháp toàn không,
không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn. (Một), đối với
kinh pháp như vậy (72) , người đã gieo trồng
thiện căn thượng phẩm, đã làm sạch
chướng ngại, đã
thành thục liên tục, đã tu nhiều
thắng giải, đã dồn chứa được hai thứ
tư lương phước đức trí tuệ thượng phẩm, thì nghe
kinh pháp như vậy rồi, người ấy thấu hiểu đúng như
sự thật lời nói mật ý sâu xa của
Như lai: người ấy tin hiểu
sâu xa kinh pháp như vậy, đối với
nghĩa lý của
kinh pháp như vậy người ấy dùng cái
trí tuệ không
đảo ngược mà
thông suốt đúng như
sự thật, rồi
dựa vào sự
thông suốt này mà khéo léo
tu tập, nên mau chóng
đạt đến sự cứu cánh cùng cực ; và đối với
Như lai, người ấy phát sinh một cách
sâu xa đức tin trong sáng,
nhận thức Như lai là bậc
ứng cúng,
chánh biến giác, đã
chánh biến giác tất cả các pháp. (Hai), người đã gieo trồng
thiện căn thượng phẩm, đã làm sạch
chướng ngại, đã
thành thục liên tục, đã tu nhiều
thắng giải, nhưng chưa dồn chứa được hai thứ
tư lương phước đức trí tuệ thượng phẩm, mà tính họ
chất trực, họ thuộc loại
chất trực, dầu bất lực trong việc
suy nghĩ chọn lựa những sự
phế bỏ và
thiết lập, họ vẫn không
đứng yên trong
sự cố thủ
ý kiến của mình; do đó, họ nghe
kinh pháp như vậy rồi, dầu bất lực trong sự thấu hiểu đúng như
sự thật lời nói mật ý sâu xa của
Như lai, nhưng đối với
kinh pháp như vậy họ
vẫn có thắng giải, vẫn sinh
đức tin trong sáng: tin rằng
kinh pháp như vậy là do
Như lai nói, là rất
sâu xa,
biểu lộ sự
sâu xa,
thích hợp đạo lý Không, khó thấy khó hiểu, không thể tầm tư, không phải lĩnh vực tầm tư biết thấu, mà là nhỏ nhiệm, xác thực, những người
tuệ giác sáng suốt biết thấu; đối với
nghĩa lý được nói trong
kinh pháp như
vậy thì họ khiêm tốn mà tự nói rằng
tuệ giác đức Thế tôn cực kỳ
sâu xa,
pháp tánh các pháp cũng cực kỳ
sâu xa, chỉ
đức Thế tôn mới
thấu triệt một cách khéo léo chứ không phải là cái mình hiểu nổi;
đức Thế tôn thuyết pháp cho những người
thắng giải khác nhau, thấy và biết của
đức Thế tôn không có
giới hạn, thấy và biết của mình chỉ bằng lỗ chân trâu bò; đối với
kinh pháp như vậy họ
tôn kính như thế, và đem nói cho người, sao chép,
bảo tồn, mở đọc,
truyền bá, thiết tha, hiến cúng,
học hỏi, tụng thuộc, ôn tập, nhưng chưa thể đem cái tu của mình mà làm theo; do vậy, họ chưa thể
thông suốt lời chữ của
Như lai mật ý sâu xa nói ra, nhưng cũng do
vậy mà họ vẫn
tăng trưởng được hai thứ
tư lương phước đức trí tuệ, và
đời sau thì
thành thục được cái chưa
thành thục. (Ba), người chưa gieo trồng
thiện căn thượng phẩm,
cho đến chưa dồn chứa được hai thứ
tư lương phước đức trí tuệ thượng phẩm,
tính không chất trực, không thuộc loại
chất trực, dầu có
sức lực trong việc
suy nghĩ chọn lựa những sự
phế bỏ và
thiết lập, nhưng vẫn
đứng yên trong
sự cố thủ
ý kiến của mình, thì họ nghe
kinh pháp như vậy không thể thấu hiểu đúng như
sự thật lời nói mật ý sâu xa của
Như lai, dầu tin hiểu
kinh pháp như vậy nhưng đối với
nghĩa lý kinh pháp như
vậy thì chấp trước theo
ngôn ngữ, cho các pháp
quyết định toàn không,
quyết định không sinh không diệt,
quyết định bản lai vắng bặt,
quyết định tự tánh niết bàn; do vậy, đối với các pháp, họ thấy không, thấy
không tánh (72B) , vì thấy không và thấy
không tánh nên phủ nhận rằng các tánh đều
không tánh, nghĩa là họ
bài bác tất cả
biến kế chấp tánh,
y tha khởi tánh và
viên thành thật tánh của các pháp -- tại sao biết họ
bài bác tất cả, vì có
y tha khởi tánh và
viên thành thật tánh mới
thiết lập biến kế chấp tánh, nếu
y tha khởi tánh và
viên thành thật tánh mà thấy là
không tánh cả thì thế là
bài bác cả
biến kế chấp tánh, thế nên
Như lai nói họ
bài bác tất cả ba tánh -- và như thế thì dẫu đối với
kinh pháp của
Như lai họ thấy là
kinh pháp, nhưng đối với
phi nghĩa lý họ thấy là
nghĩa lý, vì
kinh pháp thấy là
kinh pháp nhưng
phi nghĩa lý thấy là
nghĩa lý, nên họ nắm lấy
kinh pháp làm
kinh pháp và nắm lấy
phi nghĩa lý làm
nghĩa lý: họ tin hiểu
kinh pháp nên
phước đức tăng trưởng, nhưng
chấp trước phi nghĩa lý nên
trí tuệ lui mất,
trí tuệ lui mất nên lui mất
vô số thiện pháp quảng đại. Người nào nghe họ nói một cách cho
kinh pháp là
kinh pháp nhưng cho
phi nghĩa lý là
nghĩa lý, rồi
chấp thuận kiến thức của họ thì cũng cho
kinh pháp là
kinh pháp nhưng cho
phi nghĩa lý là
nghĩa lý, vì cho
kinh pháp là
kinh pháp nhưng cho
phi nghĩa lý là
nghĩa lý nên, cũng như họ, người này lui mất
thiện pháp. Còn người nào
không chấp thuận
kiến thức của họ, nhưng
đột nhiên nghe họ nói các
pháp toàn không,
không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn, thì sinh ra
sợ hãi,
sợ hãi như thế nên nói
kinh pháp như vậy không phải Phật nói mà là ma nói; do
nhận định này mà
phỉ báng thóa mạ kinh pháp như vậy, do
phỉ báng thóa mạ kinh pháp như
vậy mà bị đại suy tổn, chạm đại
nghiệp chướng, vì thế,
Như lai nói ai cho các tánh toàn là
không tánh, nghĩa là lấy
phi nghĩa lý làm
nghĩa lý, thì đó là
phương cách tiện lợi nổi đại
nghiệp chướng, vì họ làm cho
vô số chúng sinh phải bị sa đọa mà tạo đại
nghiệp chướng. (Bốn), người chưa gieo trồng
thiện căn, chưa làm sạch
nghiệp chướng, chưa
thành thục liên tục, không tu nhiều
thắng giải, chưa dồn chứa hai thứ
tư lương phước đức trí tuệ,
tính không chất trực, không phải loại
chất trực, dẫu có
sức lực trong việc
suy nghĩ chọn lựa những sự
phế bỏ và
thiết lập, nhưng thường
đứng yên trong
sự cố thủ kiến thức của mình, thì nghe
kinh pháp như vậy họ không thể thấu hiểu đúng như
sự thật về
lời nói mật ý sâu xa của
Như lai, cũng không tin hiểu
kinh pháp như vậy, nên
kinh pháp cho là phi
kinh pháp,
nghĩa lý cho là
phi nghĩa lý;
kinh pháp cho là phi
kinh pháp và
nghĩa lý cho là
phi nghĩa lý, nên nói rằng
kinh pháp như vậy không phải Phật nói mà là ma nói, và
nhận định này làm cho họ
phỉ báng thóa mạ kinh pháp như vậy là
hư ngụy, bằng lắm cách, họ hủy diệt
xô đổ kinh pháp như vậy, những ai tin hiểu
kinh pháp như
vậy thì bị họ coi là
kẻ thù; họ, trước kia bị
nghiệp chướng làm cho
chướng ngại, nay do
lý do trên mà bị
nghiệp chướng tiếp tục chướng ngại, và
nghiệp chướng này mở đầu (có vẻ) giản dị, nhưng rồi (chịu khổ) trong
thời kỳ bằng trăm ngàn
câu chi na dữu đa (72C) , khó có lúc
thoát khỏi.
Thắng nghĩa sinh, như thế đó, trong
chánh pháp mà
Như lai khéo
tuyên thuyết, khéo qui định, và được nói ra bởi
ý muốn cực kỳ
trong sạch,
vẫn có những
nhận thức khác nhau của nhiều hạng người như vậy.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ sáu, nói những sự
nhận thức đúng và sai về 3
vô tánh.
Chính Văn.-
Bấy giờ
đức Thế tôn muốn nói lại
ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
"Tất cả các pháp
toàn là không cả,
không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh các pháp
vốn thường niết bàn",
lời có trí này
sao không
mật ý (73) ?
Tướng
vô tự tánh,
sinh
vô tự tánh,
nghĩa
vô tự tánh,
ba thứ như vậy
Như lai căn cứ
mà nói lời trên (73B) ;
nếu không biết được
mật ý Như lai,
thì mất
đường chính,
không đi đến đâu.
Các vị
trong sạchtoàn do đường ấy;
đường ấy
duy nhất,
không đường thứ hai,
do
sự thể này
lập ra
nhất thừa,
không phải
chúng sinhchủng tánh đồng nhất.
Nên trong
chúng sinhcó
vô số người
chỉ đưa
bản thânđi đến
niết bàn,
và thật hiếm có
những ai
đại bitinh tiến dũng mãnhchứng
đại niết bànkhông hề
bỏ rơihết thảy
chúng sinh.
Trong
vô lậu giới
nhiệm mầu
nan tư,
thì
sự giải thoátthật là đồng đẳng,
hoàn thành chân thật,
thoát ly khổ não,
nên còn được gọi
hai cách gọi khác,
hoặc gọi là thường,
hoặc gọi là lạc.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ bảy,
kết thúc sự
giải thích về 3
vô tánh.
Tiếp Nhận Lý Giải
Chính Văn.-
Lúc ấy đại bồ tát Thắng nghĩa sinh thưa Phật:
bạch đức Thế tôn,
ngôn ngữ mật ý của
đức Thế tôn thật rất kỳ lạ, rất hiếm có,
cho đến tinh tế và rất
tinh tế,
sâu xa và rất
sâu xa, khó
thấu triệt và rất khó
thấu triệt. Nay, theo
ý nghĩa của
đức Thế tôn nói mà con
tiếp nhận lý giải, thì nơi các hành của
phân biệt biết đến và
biến kế dựa vào (74) mà
giả danh thiết lập làm
tự tánh và
sai biệt của
sắc uẩn,
giả danh thiết lập làm
tự tánh và
sai biệt của
sắc uẩn phát sinh, của
sắc uẩn diệt tận, của
vĩnh đoạn sắc uẩn, của
biến tri sắc uẩn, (sự
giả danh thiết lập ấy) gọi là
biến kế chấp tánh, và
đức Thế tôn căn cứ
biến kế chấp tánh như
vậy mà thiết lập tướng
vô tánh; còn chính các hành của
phân biệt biết đến và
biến kế dựa vào thì gọi là
y tha khởi tánh, và
đức Thế tôn căn cứ
y tha khởi tánh như
vậy mà thiết lập sinh
vô tánh và một phần của
thắng nghĩa vô tánh; và cứ như thế, theo
ý nghĩa của
đức Thế tôn nói mà con
tiếp nhận lý giải, thì chính nơi các hành của
phân biệt biết đến và
biến kế dựa vào mà (thấy)
biến kế chấp tánh không thật có: cái
tánh không thật có
biến kế chấp tánh này, tức
chân như do
pháp vô ngã hiển lộ và là
thanh tịnh sở duyên này, gọi là
viên thành thật tánh, và
đức Thế tôn căn cứ
viên thành thật tánh như
vậy mà thiết lập một phần nữa của
thắng nghĩa vô tánh. Như đối với
sắc uẩn (được nói như vậy) thì đối với các uẩn khác cũng nên nói rõ như vậy; như đối với
năm uẩn (được nói như vậy) thì đối với
mười hai xứ mỗi xứ cũng nên nói rõ như vậy, đối với mười hai hữu chi mỗi hữu chi cũng nên nói rõ như vậy, đối với bốn thực mỗi thực cũng nên nói rõ như vậy, đối với (ba lần) sáu giới tức
mười tám giới mỗi giới cũng nên nói rõ như vậy.
Nay, theo
ý nghĩa của
đức Thế tôn nói mà con
tiếp nhận lý giải, thì nơi các hành của
phân biệt biết đến và
biến kế dựa vào mà
giả danh thiết lập làm
tự tánh và
sai biệt của
khổ đế và của
biến tri khổ đế, (sự
giả danh thiết lập ấy) gọi là
biến kế chấp tánh, và
đức Thế tôn căn cứ
biến kế chấp tánh như
vậy mà thiết lập tướng
vô tánh; còn chính các hành của
phân biệt biết đến và
biến kế dựa vào thì gọi là
y tha khởi tánh, và
đức Thế tôn căn cứ
y tha khởi tánh như
vậy mà thiết lập sinh
vô tánh và một phần của
thắng nghĩa vô tánh; và cứ như thế, theo
ý nghĩa của
đức Thế tôn nói mà con
tiếp nhận lý giải, thì chính nơi các hành của
phân biệt biết đến và
biến kế dựa vào mà (thấy)
biến kế chấp tánh không thật có: cái
tánh không thật có
biến kế chấp tánh này, tức
chân như do
pháp vô ngã hiển lộ và là
thanh tịnh sở duyên này, gọi là
viên thành thật tánh, và
đức Thế tôn căn cứ
viên thành thật tánh như
vậy mà thiết lập một phần nữa của
thắng nghĩa vô tánh. Như đối với
khổ đế (được nói như vậy) thì đối với các đế khác cũng nên nói rõ như vậy; như đối với bốn đế (được nói như vậy) thì đối với bốn niệm trú, bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực,
bảy giác chi và tám
đạo chi, mỗi thứ cũng nên nói rõ như vậy.
Nay, theo
ý nghĩa của
đức Thế tôn nói mà con
tiếp nhận lý giải, thì nơi các hành của
phân biệt biết đến và
biến kế dựa vào mà
giả danh thiết lập làm
tự tánh và
sai biệt của
chánh định, của các sự của
chánh định là năng trị, sở trị, chính tu chưa sinh thì phát sinh, đã sinh thì
kiên cố, bội tu thì cao lên và rộng ra, (sự
giả danh thiết lập ấy) gọi là
biến kế chấp tánh, và
đức Thế tôn căn cứ
biến kế chấp tánh như
vậy mà thiết lập tướng
vô tánh; còn chính các hành của
phân biệt biết đến và
biến kế dựa vào thì gọi là
y tha khởi tánh, và
đức Thế tôn căn cứ
y tha khởi tánh như
vậy mà thiết lập sinh
vô tánh và một phần của
thắng nghĩa vô tánh; và cứ như thế, theo
ý nghĩa của
đức Thế tôn nói mà con
tiếp nhận lý giải, thì chính nơi các hành của
phân biệt biết đến và
biến kế dựa vào mà (thấy)
biến kế chấp tánh không thật có: cái
tánh không thật có
biến kế chấp tánh này, tức
chân như do
pháp vô ngã hiển lộ và là
thanh tịnh sở duyên này, gọi là
viên thành thật tánh, và
đức Thế tôn căn cứ
viên thành thật tánh như
vậy mà thiết lập một phần nữa của
thắng nghĩa vô tánh.
Lược Giải.-
Sự
tiếp nhận lý giải của
đại bồ tát Thắng nghĩa sinh có 3 đoạn nhỏ. Trên đây là đoạn nhỏ thứ nhất, nói sự
tiếp nhận lý giải về 3
tự tánh và 3
vô tánh.
Chính Văn.-
Bạch đức Thế tôn, như thuốc tỳ thấp phược (75) thì nên để khắp trong các phương thuốc tán và
thuốc tiên;
tương tự như vậy, "do ba
vô tánh nên các
pháp toàn không,
không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn",
pháp thoại mà
nghĩa lý đã
hoàn hảo này nên để vào khắp trong các kinh
nghĩa lý chưa
hoàn hảo. Như bột vẽ màu (76) thì có khắp trong tất cả nét vẽ, làm cho những nét vẽ ấy đều cùng một màu hoặc xanh hoặc vàng hoặc đỏ hoặc trắng, lại làm cho rõ ra những nét vẽ ấy ;
tương tự như vậy, "do ba
vô tánh nên các
pháp toàn không
cho đến tự tánh niết bànở,
pháp thoại mà
nghĩa lý đã
hoàn hảo này có khắp trong tất cả các kinh
nghĩa lý chưa
hoàn hảo, làm cho các kinh ấy cùng một
ý vị, lại làm cho rõ ra
nghĩa lý chưa
hoàn hảo trong các kinh ấy (77) . Như những
thực phẩm bánh trái đã chín và quí mà bỏ sữa chín vào thì càng thêm
mùi vị đặc biệt;
tương tự như vậy, "do ba
vô tánh nên các
pháp toàn không
cho đến tự tánh niết bàn",
pháp thoại mà
nghĩa lý đã
hoàn hảo này đặt vào các kinh
nghĩa lý chưa
hoàn hảo thì càng làm sinh ra nỗi
thích thú siêu việt. Như
hư không thì khắp nơi đều cùng mọẤt
đặc tính, ấy là không trở ngại mọi sự việc;
tương tự như vậy, "do ba
tự tánh nên các
pháp toàn không
cho đến tự tánh niết bàn",
pháp thoại mà
nghĩa lý đã
hoàn hảo này thì khắp trong các kinh
nghĩa lý chưa
hoàn hảo đều cùng một
đặc tính, ấy là không trở ngại việc tu của
Thanh văn Độc giác và
Đại thừa.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ hai, nói
tiếp nhận và lý giải về
giá trị của 3
vô tánh.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Thắng nghĩa sinh thưa như vậy rồi,
đức Thế tôn bảo ngài: Tốt lắm,
Thắng nghĩa sinh, ông khéo lý giải về
ý nghĩa của
lời nói mật ý rất
sâu xa mà
Như lai đã nói. Ông lại khéo ví dụ về
ý nghĩa ấy,
ví như thuốc tỳ thấp phược, như bột vẽ màu, như sữa chín, như
hư không.
Thắng nghĩa sinh, đúng như vậy, đúng như ông nói chứ không có gì khác hơn nữa. Ông hãy
tiếp nhận và lý giải đúng như vậy.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ ba,
đức Thế tôn chuẩn nhận.
Đối Chiếu Đề Cao
Chính Văn.-
Bấy giờ
đại bồ tát Thắng nghĩa sinh lại thưa Phật:
bạch đức Thế tôn,
xưa kia, trong
thời kỳ đầu tiên, khi ở trong rừng
Ban cho loài nai, chỗ
tiên nhân Ba la niệt tư
sa xuống (78) ,
đức Thế tôn chỉ vì những vị
xu hướng Thanh văn thừa, căn cứ
đạo lý tứ đế mà
chuyển pháp luân, tuy rất lạ, rất hiếm, bao nhiêu người trời trong
thế giới không ai chuyển được đúng cách, nhưng
pháp luân được chuyển trong
thời kỳ này
vẫn có cái trên nữa, vẫn
chịu đựng đả phá, là
nghĩa lý chưa
hoàn hảo, là nơi đặt chân của sự
tranh luận. Kế đó, trong
thời kỳ thứ hai,
đức Thế tôn chỉ vì những vị
xu hướng Đại thừa, căn cứ
đạo lý "các
pháp toàn không,
không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn", dùng sự
ẩn mật mà
chuyển pháp luân, tuy càng rất lạ, càng rất hiếm, nhưng
pháp luân được chuyển trong
thời kỳ này vẫn còn có cái trên nữa, vẫn còn
chịu đựng đả phá, vẫn là
nghĩa lý chưa
hoàn hảo, vẫn là nơi đặt chân của sự
tranh luận. Còn nay, trong
thời kỳ thứ ba,
đức Thế tôn khắp vì các vị
xu hướng Nhất thế thừa (79) , căn cứ
đạo lý "do ba
vô tánh nên các
pháp toàn không,
không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn", dùng sự
minh bạch mà
chuyển pháp luân, càng rất lạ nhất, càng rất hiếm nhất, và
pháp luân được chuyển hiện nay không còn có cái gì trên nữa, không còn
chịu đựng sự đả phá nào nữa,
nghĩa lý đích thực
hoàn hảo, không còn là nơi đặt chân của sự
tranh luận.
Bạch đức Thế tôn, đối với
pháp thoại rất
sâu xa và rất
hoàn hảo của
đức Thế tôn căn cứ
đạo lý "do ba
vô tánh nên các
pháp toàn không,
không sinh không diệt,
bản lai vắng bặt,
tự tánh niết bàn" mà nói ra đây, nếu
thiện nam hay
thiện nữ nào nghe rồi tin hiểu, sao chép,
bảo tồn, hiến cúng,
truyền bá,
học hỏi, tụng thuộc,
tu tập,
tư duy đúng lý, và đem sự tu của mình mà
nỗ lực tu tập, thì phát sinh được bao nhiêu phước đức?
Lược Giải.-
Sự
đối chiếu đề cao có 2 đoạn nhỏ. Trên đây là đoạn nhỏ thứ nhất,
đại bồ tát Thắng nghĩa sinh đề cao 3
vô tánh bằng cách
hệ thống hóa
toàn bộ Phật pháp thành 3
thời kỳ (mà thường gọi là hữu, không và trung), lại hỏi cái phước
tín giải và
tu học 3
vô tánh.
Chính Văn.-
Đại bồ tát Thắng nghĩa sinh thưa như vậy rồi,
đức Thế tôn dạy ngài:
Thắng nghĩa sinh,
thiện nam hay
thiện nữ như vậy được phước
vô số vô lượng, khó thể
đối chiếu và
nhận thức.
Như lai nay chỉ nói cho ông
một phần nhỏ. Đất nơi móng tay mà
so sánh với đất cả
đại địa thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, không bằng một phần sổ, toán, kế, dụ,
ô ba ni sát đàm (80) . Nước trong lỗ chân trâu bò mà
so sánh với nước cả
bốn đại dương thì không bằng một phần trăm,
cho đến không bằng một phần
ô ba ni sát đàm.
Tương tự như vậy, đối với các kinh
nghĩa lý chưa
hoàn hảo mà nghe rồi tin hiểu,
cho đến đem sự tu của mình mà
nỗ lực tu tập, cái phước như vậy đem
so sánh với cái phước nghe rồi tin hiểu,
cho đến đem cái tu của mình mà
nỗ lực tu tập đối với
pháp thoại nghĩa lý đã
hoàn hảo này, thì không bằng một phần trăm,
cho đến không bằng một phần
ô ba ni sát đàm.
Lược Giải.-
Đây là đoạn nhỏ thứ hai,
đức Thế tôn đề cao cái phước
tín ngưỡng và
tu học 3
vô tánh.
Danh Hiệu Và
Lợi Ích Của
Pháp ThoạiChính Văn.-
Khi
đức Thế tôn dạy như vậy rồi,
đại bồ tát Thắng nghĩa sinh lại thưa Ngài:
bạch đức Thế tôn, trong
toàn bộ pháp thoại Giải
thâm mật,
pháp thoại này nên mệnh danh là gì? chúng con phải kính cẩn ghi nhớ như thế nào?
Đức Thế tôn dạy:
Thắng nghĩa sinh,
pháp thoại này tên là
Nghĩa lý hoàn hảo về
thắng nghĩa. Ông hãy kính cẩn ghi nhớ theo cái tên như vậy.
Khi
đức Thế tôn nói
pháp thoại Nghĩa lý hoàn hảo về
thắng nghĩa này thì trong
đại hội có sáu trăm ngàn
chúng sinh phát tâm vô thượng bồ đề; ba trăm ngàn
Thanh văn lánh xa bụi bặm, tách rời
dơ bẩn, đối với các pháp thì được mắt pháp
trong sáng; một trăm năm mươi ngàn
Thanh văn hết hẳn mọi sự sơ hở (81) , tâm
được giải thoát; bảy mươi lăm ngàn
Bồ tát được
vô sinh pháp nhẫn.
Nói Tâm Ấy Là Hạnh Năng Quán
D1. Nói
Chỉ Quán (Phẩm 6)
Đ1. Nói Y Trú Của
Chỉ QuánĐ2. Nói
Sở Duyên Của
Chỉ QuánĐ3. Nói Sự Cầu Và Sự Khéo Về
Chỉ QuánĐ4. Nói
Tác Ý Tùy Thuận Của
Chỉ QuánĐ5. Nói Đồng Dị Của
Chỉ QuánĐ6. Nói
Duy Thức Của
Chỉ QuánĐ7. Nói Đơn Tu Và Song Tu Của
Chỉ QuánĐ8. Nói Chủng Số Của
Chỉ QuánĐ9. Nói Y Và Bất
Y Pháp Của
Chỉ QuánĐ10. Nói Có Và Không Tầm Tư Của
Chỉ QuánĐ11. Nói Chỉ, Cử Và Xả Của
Chỉ QuánĐ12. Nói Sự Biết Pháp Và Biết Nghĩa Của
Chỉ QuánĐ13. Nói Sự Bao Quát Các Định Của
Chỉ QuánĐ14. Nói
Nhân Quả Tác Dụng Của
Chỉ QuánĐ15. Nói
Chướng Ngại của
Chỉ QuánĐ16. Nói Sự
Chứng Đắc Bồ Đề Của
Chỉ QuánĐ17. Nói Sự Dẫn Ra
Uy Đức Quảng Đại Của
Chỉ QuánĐ18. Nói Sự Nhập
Vô Dư Y Diệt Các Thọ Của
Chỉ QuánĐ19.
Kết Thúc Pháp Thoại Chỉ QuánD2. Nói Địa Độ (Phẩm 7)
Đ1. Nói Về Các Địa
Đ2. Nói Về Các Độ
Đ3. Nói Về
Chướng NgạiĐ4. Nói Về
Nhất ThừaĐ5.
Kết Thúc Pháp ThoạiNói Y Trú Của
Chỉ QuánChính Văn.-