KINH VÔ NGÃ TƯỚNG
(Anattalakkhaṇa Sutta)
Thiền sư Mahasi Sayadaw - Phạm Kim Khánh dịch
Làm thế nào phát triển Tuệ minh sát
Tuệ chán nản phát triển khi thấy khổ
Tuệ chán nản phát triển khi thấy vô ngã
Định nghĩa Nibbinda ñāṇa
Thật sự mong muốn Niết Bàn
Ức đoán Niết Bàn
Sáu đặc điểm của tuệ xả hành
Phát triển tuệ đưa vượt lên
Từ nhàm chán tiến đến Thánh Đạo và Thánh Quả
Sự mô tả trùng hợp với thực nghiệm của hành giả như thế nào
Suy tư của vị A La Hán
Tóm lược
Hết lòng thành kính đảnh lễ sáu vị A La Hán -VIII-
THUẦN HÓA TUỆ MINH SÁT
-ooOoo-
Bản chánh kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng, được chia làm bốn phần. Phần đầu đề cập đến lời dạy rằng "năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có chiều hướng gây
đau khổ và, bởi vì không thể điều khiển và
kiểm soát nó, do đó không có tự ngã hay
thể chất bên trong."
Phần nhì đề cập đến câu hỏi, Ṅăm uẩn là thường còn hay vô thường? Là
đau khổ hay hạnh phúc?" và
giải thích rằng xem cái gì không thường còn,
đau khổ và phải
biến chuyển là "của tôi" "tôi" "tự ngã của tôi" là không
thích nghi.
Trong phần thứ ba,
năm uẩn được xếp loại và
liệt kê dưới mười một tựa đề và được dạy phải
quán niệm xem là "không phải của tôi, không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi" (
vô thường, khổ,
vô ngã).
Trong phần thứ tư mà giờ đây
chúng ta sắp đề cập đến,
Đức Thế Tôn dạy người hành thiền phải
thực hành như thế nào để
dần dần, từng giai đoạn, trau giồi
tuệ minh sát, và bằng cách nào phát triển nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, đưa đến Đạo Tuệ và Quả Tuệ và
cuối cùng đến
giải thoát cùng tột,
trở thành bậc
A La Hán.
Làm Thế Nào Phát Triển
Tuệ Minh Sát?
Evaṁ passaṁ bhikkhave, sutvā ariyasāvako rūpa-smiṁpi nibbindati vedanāyapi nibbindati saññāyapi nibbindati saṅkhāresupi nibbindati viññāṇasmiṁpi nibbindati.
"Nầy chư Tỳ Khưu, vị thánh
đệ tử đã được thụ huấn, thấy như vậy, nảy sanh tâm chán nản sắc, chán nản thọ, chán nản tưởng, chán nản hành, chán nản thức."
Bằng cách ấy
Đức Thế Tôn dạy nên phát triển tuệ chán nản, nibbidā ñāṇa, như thế nào. Trong đoạn kinh trên cụm từ "thấy như vậy" có nghĩa là thấy
vô thường, khổ,
vô ngã. Người đã thấy như vậy
trở thành vị
đệ tử đã được thụ huấn, trang bị đầy đủ
trí tuệ bằng cả hai
phương cách, lắng
nghe lời dạy và tự
cá nhân kinh nghiệm.
Vị ấy được dạy rằng muốn
nhận thấy bản chất vô thường, khổ và
vô ngã của
năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, thì phải
chuyên cần chú niệm,
thận trọng ghi nhận tất cả
nhãn thức,
nhĩ thức,
tỷ thức,
thiệt thức,
thân thức và
ý thức mỗi khi thấy, nghe v.v... Vị ấy cũng nghe dạy phải suy niệm rằng
ngũ uẩn thủ, năm nhóm bám níu, chỉ là danh pháp và
sắc pháp, và sự hay biết là (
cơ năng, hay
nhiệm vụ của) tâm (danh, nāma). Vị ấy cũng nghe về nhân và quả, về
bản chất không ngừng
sanh diệt,
vô thường và không có
thể chất. Tất cả những điều ấy là
kiến thức đã được thâu đạt nhờ
học hỏi hoặc nghe thuật lại.
Hành giả đã có được những
kiến thức ấy trước khi bắt đầu hành thiền. Rồi trong khi
ghi nhận phồng, xẹp, co vào, duỗi ra,
di chuyển, giãn ra, ép vào, sờ đụng biết cứng, thô, mềm, láng, nóng, lạnh và thấy, nghe, hửi, nếm, và sờ đụng,
hành giả nhận thức rằng những đối tượng mà mình
ghi nhận là
sắc pháp và sự
hiểu biết những đối tượng ấy là danh pháp và chỉ có hai:
sắc pháp và danh pháp. Trong khi
ghi nhận nhãn thức,
nhĩ thức,
thân thức và
ý thức hành giả biết rằng thức ấy, tức sự thấy, sự nghe v.v... là danh, và
căn môn của thức là sắc, chỉ có hai, danh và sắc ấy. Đây là
kiến thức thâu thập qua
kinh nghiệm cá nhân.
Lại nữa, khi có
ý muốn co vào,
hành giả co; khi có
ý muốn duỗi ra,
hành giả duỗi; khi có
ý muốn đi,
hành giả đi.
Ghi nhận tất cả những
sự kiện ấy,
hành giả nhận thức rằng mình co vào vì có
ý muốn co vào; mình duỗi ra, hoặc đi vì có
ý muốn làm vậy, không có một
thực thể sống, một tự ngã, làm cho mình co vào, duỗi ra hay đi, chỉ có
nguyên nhân tạo nên
hậu quả. Đây cũng là
kiến thức được thâu thập
xuyên qua kinh nghiệm bản thân.
Nếu
hành giả không
ghi nhận những
hiện tượng ấy ắt không thể
nhận thấy đúng
sự thật.
Hành giả phát tâm ưa thích. Từ
ưa thích sanh khao khát
ước mong. Bởi vì khao khát
ước mong nên phải
cố gắng thành đạt cho được, do đó tạo nghiệp --
thiện nghiệp và
bất thiện nghiệp -- đưa đến những
trở thành (hữu) mới. Bằng cách ấy
hành giả thấu hiểu
Định Luật Phát Sanh
Tùy Thuộc,
liên quan đến hiện tượng nhân quả.
Một lần nữa, đối tượng sắc, thọ, tưởng, hành, thức và cái tâm hay biết các đối tượng ấy, cả hai đều
liên tục sanh khởi và
hoại diệt. Như vậy
hành giả hiểu biết đúng lời dạy của
Đức Thế Tôn, rằng những
hiện tượng ấy là
vô thường, khổ và
vô ngã.
Như đã nói ở phần trên,
các loại kiến thức khác nhau ấy, bắt đầu từ sự
phân biệt danh pháp và
sắc pháp, chí đến
kiến thức về
bản chất vô thường, khổ và
vô ngã, tất cả đều được thâu đạt
xuyên qua kinh nghiệm bản thân, không phải nhờ
học hỏi hay nghe thuật lại.
Chúng ta dám nói rằng trong nhóm quý vị
hiện diện trong
cử tọa đây phần lớn đã có trang bị đầy đủ những
kinh nghiệm cá nhân tương tợ. Như vậy
chúng ta nói rằng người đã có thể
nhận thức bản chất vô thường, khổ và
vô ngã đúng
như thật, qua
kinh nghiệm bản thân là người đã được
giáo huấn đầy đủ, người đã được trang bị đủ cả hai,
kiến thức qua
học hỏi và
kiến thức qua
kinh nghiệm cá nhân, cả pháp học lẫn
pháp hành.
Khỏi
cần phải nói rằng Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, đã là bậc
Nhập Lưu, ắt có trang bị đầy đủ cả hai loại
kiến thức, do đó là hàng
đệ tử được thụ huấn đầy đủ.
Vị
đệ tử của
Đức Thế Tôn đã được thụ huấn đầy đủ như vậy có thể
nhận thức, với sự
hiểu biết của chính mình, rằng
năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, phát hiện mỗi khi thấy, nghe, sờ đụng và
hiểu biết là
vô thường, khổ và
vô ngã. Vị
hành giả mà
nhận thức được như vậy sẽ sớm
thành đạt udayabbaya ñāṇa, tuệ
sanh diệt, phân biện
rõ ràng trạng thái nhanh chóng
sanh diệt của
sắc pháp và danh pháp. Theo sách Visuddhimagga,
Thanh Tịnh Đạo, khi đã
thành đạt tuệ giác nầy
hành giả thấy những ánh sáng lạ thường và
hào quang, và
chứng nghiệm hạnh phúc an lạc chưa từng bao giờ được biết,
chứng nghiệm tâm phỉ (pīti) và có
tình trạng thanh bình tĩnh lặng.
Hành giả cũng
kinh nghiệm trạng thái an khinh,
thân tâm nhẹ nhàng thơ thới,
dịu dàng và có nhiều
nghị lực. Như thế ấy vị
hành giả cảm nghe
thân tâm hoan hỷ thỏa thích không thể tả.
Tâm chú niệm của vị
hành giả toàn hảo đến đổi có thể nói rằng không có chi mà mình không
ghi nhận, trí
minh mẫn sáng suốt và bén nhạy làm cho mình có
cảm tưởng rằng không có chi mà mình không thể
hiểu biết.
Tâm đạo càng
tiến triển nhiệt thành,
đức tin nơi
Đức Phật,
Giáo Pháp và
Đức Tăng càng
tăng trưởng mãnh liệt,
rõ ràng và
sáng tỏ hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên tất cả những
hiện tượng lạ thường ấy phải được
ghi nhận và
buông bỏ, để
trôi qua. Khi không nắm giữ mà
buông xả như vậy giai đoạn tuệ nầy cũng
trôi qua và
hành giả tiến đến giai đoạn bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt. Vào lúc nầy
đề mục thiền và cái
tâm hành thiền được thấy tan rã và biến mất từng cặp.
Thí dụ như khi
ghi nhận bụng phồng, thấy
di động phồng và tâm
ghi nhận di động ấy
cùng lúc tan biến. Mỗi
di động phồng lên được phân biện tan biến trong từng những giai đoạn biến tan nhỏ riêng biệt,
liên tục tiếp nối nhau. Mỗi khi
ghi nhận thì
hành giả phân biện
rõ ràng điều nầy.
Đề mục thiền hình như
chấm dứt và biến mất trước, liền theo đó tâm
ghi nhận đề mục ấy cũng nhanh chóng
chấm dứt.
Dĩ nhiên đó là những gì thật sự xảy diễn. Khi một
ý tưởng được
quán niệm,
tâm quán niệm chỉ phát sanh sau khi
ý nghĩ ấy biến mất. Điều nầy cũng xảy diễn trong khi
ghi nhận những đối tượng khác -- sự
ghi nhận chỉ đến sau khi đối tượng được
ghi nhận đã biến mất. Nhưng khi
tuệ giác phát triển chưa được đầy đủ, ta có
cảm tưởng hình như đối tượng được
ghi nhận biến tan
cùng lúc với tâm
hiểu biết. Điều nầy
trùng hợp với lời dạy của
bài kinh, rằng
chỉ quán niệm khoảnh khắc
hiện tại.
Nhận thức tiến trình tan biến
liên tục và nhanh chóng xảy diễn như vậy ta
hiểu biết rằng cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, và đó là điều đáng kinh sợ. Đây là tuệ diệt,
nhận thấy hiểm họa hay kinh sợ bhaṅga ñāṇa. Khi thấy sự vật là hiểm nguy,
hành giả hiểu biết rằng nó là
độc hại và đầy hiểm họa. Đó là ādinava ñāṇa,
tuệ giác nhận thấy hiểm họa trong tất cả những gì không ngừng
chuyển biến, luôn luôn
trở thành (tức các pháp được
cấu tạo, các hành, hay các
pháp hữu vi).
Hành giả không còn thấy
thích thú trong những
danh uẩn và
sắc uẩn đáng kinh sợ ấy nữa, thấy đó là đáng ghê tởm và đáng chán. Đó là nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản.
Đức Thế Tôn muốn nhắc đến
trạng thái tâm nầy khi Ngài
tuyên ngôn rūpasmiṁpi nibbindati: Nó càng
chán ghét sắc pháp ..."
Trước khi nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, nầy phát triển ta còn khá bằng lòng và
vui vẻ thỏa thích với
hình sắc của cơ
thể hiện thời, và
vui vẻ thỏa thích ước mong một
thân hình đẹp đẻ xinh tươi trong tương lai ở
cảnh người hay cảnh trời. Ta khao khát
trông chờ một
thân hình mạnh khoẻ,
xinh đẹp ở
cảnh người hoặc cảnh trời. Với sự phát sanh của
tuệ giác nầy ta không còn cảm nghe
hạnh phúc, không còn
vui vẻ sống trong
tình trạng mong chờ. Cái mà được gọi là
hạnh phúc trong
cảnh người chỉ là sự
kết hợp của
sắc pháp và danh pháp luôn luôn nhanh chóng sanh rồi diệt.
Hành giả cũng
nhận thức rằng cái mà được gọi là
hạnh phúc ở
cõi trời cũng cùng thế ấy, là sự
kết hợp phù du tạm bợ của sắc và danh pháp mà mình đã chán chê ghét bỏ và
mệt mỏi ghê tởm. Cũng tựa hồ như người thợ chày, bắt nắm trong tay một con
rắn độc mà trong khi đó nghĩ rằng nó là con lươn; một khi
nhận ra rằng mình chỉ cầm trong tay một con
rắn độc, không phải con lươn, thì vội vả muốn
vứt bỏ đi càng sớm càng tốt.
Hình ảnh thí dụ nầy đã được
mô tả đầy đủ trong bài giảng của Sư về kinh Sīlavanta Sutta.
Lại nữa, trước khi
thành đạt tuệ chán nản, nibbidā ñāṇa,
hành giả thỏa thích với tất cả những
cảm thọ đang hưởng, và
mong mỏi sẽ còn được thoả thích hưởng thọ những niềm
hạnh phúc của
cảnh người và cảnh trời trong những kiếp sống tương lai. Trong
hiện tại vị ấy
thỏa thích hồi nhớ những kỷ niệm (tưởng, saññā)
êm đềm vui vẻ của
thời xưa, và
mong mỏi sẽ còn
thỏa thích hưởng thọ những kỷ niệm
tốt đẹp trong kiếp sống tương lai. Vị ấy
thỏa thích với những
tư tưởng và hành động trong
hiện tại và những
tư tưởng và hành động trong những kiếp sống
vị lai. Vài người còn van vái nguyện cầu sẽ được những gì mình muốn làm, sau khi
tái sanh vào kiếp tới. Vài người
lợi dưỡng và
thỏa thích ước mơ tưởng tượng trong
hiện tại,
trông chờ sẽ được như thế trong những kiếp sống tương lai. Nhưng khi tuệ chán nản, nibbidā ñāṇa, phát triển, thấy đúng
sự thật là thọ, tưởng, hành và thức
mãi mãi nhanh chóng
sanh diệt thì đâm ra ghê tởm chán chê. Cũng như trong
hiện tại nó nhanh chóng
hoại diệt, dầu ta có
tái sanh trong
cảnh người hay cảnh trời thì những thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng sẽ không ngừng tan biến.
Nhận xét như thế
hành giả cảm nghe không còn
ham muốn những uẩn ấy nữa và
bất mãn với nó.
Điều chánh yếu là thật sự
bất mãn và
mệt mỏi nhàm chán. Chỉ khi
hành giả thật sự chán nản với
tình trạng đau khổ và bấp bênh của
đời sống mới mạnh mẽ phát triển
ý muốn tách rời, thoát ra khỏi,
xa lìa nó, và do đó mới
phát tâm chuyên cần cố gắng để
buông bỏ. Chỉ đến chừng đó tuệ xả hành (saṅkhārupekkhā ñāṇa) sẽ phát hiện và
tuệ minh sát phát triển đầy đủ, và
hành giả chứng ngộ Niết Bàn (Nibbāna) qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ,
trở thành Nhập Lưu,
Nhứt Lai,
Bất Lai hay một vị
A La Hán. Như vậy điều quan trọng chánh yếu là phải tận lực
tinh tấn trau giồi nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản.
Vì lẽ ấy Đức Bổn Sư dạy:
Sabbe saṅkhāra aniccā'ti
yadā paññaya passati
atha nibbindati dukhe
esa maggo visuddhiyā.
"Tất cả các hành (tức các
pháp hữu vi, saṅkhāra, hay các pháp được
cấu tạo), do nghiệp, tâm,
điều kiện thời tiết và vật thực tạo duyên, là
vô thường. Khi đã
thấu triệt chân lý ấy qua vipassanā ñāṇa (
tuệ minh sát) ta càng
bất mãn và
mệt mỏi chán ghét tất cả những khổ đau ấy (của tất cả
sắc pháp và danh pháp). Tâm bất
toại nguyện và chán nản ấy thật sự là
con đường chân chánh của
trạng thái trong sạch (
Thanh Tịnh Đạo) dẫn đến
Niết Bàn, vượt thoát ra khỏi mọi
ô nhiễm và
đau khổ."
Vị
hành giả đã
ghi nhận mỗi khi thấy, nghe, nếm, sờ đụng và suy tư khi nó vừa
sanh khởi,
nhận thức rằng đó chỉ là những
hiện tượng nhanh chóng phát sanh và
hoại diệt. Do đó vị nầy
hiểu biết đúng
thực tướng của sự vật -- tất cả đều
vô thường. Với
tuệ giác thông hiểu tận tường đặc tướng
vô thường hành giả chứng ngộ rằng không có chi là vui thú và
thỏa thích trong thân và tâm
hiện tại nầy; những
trạng thái thân và tâm trong tương lai cũng cùng một
bản chất như vậy, sẽ không có chi đáng
vui thích và
hoan hỷ trong đó. Do đó
hành giả phát sanh tâm
nhàm chán và
mệt mỏi với tất cả mọi
sắc pháp và danh pháp, và
hết lòng muốn thoát ra khỏi thân và tâm nầy, tận lực
chuyên cần hành thiền nhắm đến
giải thoát. Do đó saṅkhārupekkha ñāṇa, tuệ xả hành, phát sanh và
hành giả chứng ngộ Niết Bàn, Nibbāna, qua
Thánh Đạo.
Vì lẽ ấy Đức Thế Tôn dạy rằng
tuệ minh sát nhìn thấy chỉ có bất
toại nguyện và chán chê là
con đường thật sự đến
Niết Bàn.
Tuệ Chán Nản Phát Triển Khi Thấy Khổ
Sabbe saṅkhāra dukkhā'ti
yadā paññāya passati
atha nibbindati dukhe
esa maggo visuddhiyā.
"Tất cả các hành (saṅkhāra, tức các
pháp hữu vi), được tạo
duyên do nghiệp, tâm,
điều kiện thời tiết và vật thực là
vô thường. Khi
thông hiểu được
chân lý nầy ..."
Một
vị đạo sư đã
phiên dịch danh từ "saṅkhāra" trong câu nầy là "tác ý" (cetanā), tức là
nguyên nhân tạo nghiệp, thiện hay
bất thiện. Như vậy theo vị nầy: Ṅhững hành động tạo
thiện nghiệp như
bố thí,
trì giới, tất cả đều là saṅkhāra, hành, và do đó là khổ. Cùng thế ấy
thực hành thiền
vắng lặng hay
thiền minh sát cũng là saṅkhāra, hành. Tất cả các hành ấy đều tạo nghiệp
đau khổ. Muốn
thành đạt trạng thái vắng lặng Niết Bàn (Nibbāna), không nên có bất luận hành động nào. Hãy giữ tâm như nguyên khởi nó là vậy." Nói như thế ấy,
vị đạo sư nầy giảng sai lệch đi
giáo huấn của
Đức Phật để được
thích hợp với
mục tiêu của mình và của hàng
đệ tử đã
chấp nhận quan kiến của mình, và như thế,
quảng bá một
giáo huấn sai lầm.
Trong
thực tế, danh từ "saṅkhāra", hành, trong câu nầy không có nghĩa là hành động tạo thiện hay
bất thiện nghiệp có
tác ý (kusala, akusala saṅkhāra) phát sanh do
vô minh. Nơi đây saṅkhāra, hành, giản dị có nghĩa là danh pháp và
sắc pháp phát sanh do nghiệp, tâm,
điều kiện thời tiết và vật thực.
Một lần nữa, danh pháp và
sắc pháp ở đây không
bao gồm những thức của Đạo và Quả
siêu thế, hoặc những
tâm sở làm đối tượng cho
thiền minh sát (vipassanā bhāvanā). Chỉ có những
hình thức tại thế của danh pháp và
sắc pháp được đề cập đến ở đây. Danh từ "saṅkhāra" ở câu trước cũng phải được hiểu cùng
một thế ấy. Như vậy, tất cả những danh pháp và
sắc pháp, phát hiện mỗi khi thấy, nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư đều không ngừng nhanh chóng
sanh khởi và
hoại diệt và do đó, là
vô thường. Bởi vì là
vô thường, luôn luôn
chuyển biến, nên nó là
đau khổ. Đó là
ý nghĩa nên được hiểu ở đây.
"Tất cả các hành (tức các
pháp hữu vi, hay các pháp được
cấu tạo) phát sanh do nghiệp, tâm,
điều kiện thời tiết và vật thực đều
đau khổ. Khi do tuệ diệt (bhaṅga ñāṇa), ta
trở thành bất mãn và
nhàm chán mệt mỏi với tất cả
đau khổ ấy. Bất
toại nguyện và chán nản nầy thật sự là
con đường trong sạch chân chánh (
Thanh Tịnh Đạo), dẫn đến
Niết Bàn (Nibbāna) vượt thoát ra khỏi mọi
ô nhiễm và khổ đau."
Hành giả nhận thức rằng tất cả những danh pháp và
sắc pháp phát hiện vào lúc hay biết
cảm thọ phải nhanh chóng tan rã, và do đó là
vô thường. Bởi vì nó
vô thường nên phải chịu luôn luôn tan rã, người hành thiền
nhận thức rằng nó là đáng kinh sợ và là một nguồn
đau khổ. Đối với vài vị
hành giả, những
cảm giác khó chịu như gồng cứng, nóng, đau nhức và ngứa ngái không ngừng phát sanh ở nhiều
nơi khác nhau trong thân. Mỗi khi những
cảm giác ấy phát sanh thì
hành giả ghi nhận, và do đó nhận chân
rõ ràng toàn thể châu thân là một khối
đau khổ. Điều nầy hợp với lời dạy dukkha maddhakkhi sallato:
tuệ minh sát, vipassanā ñāṇa,
nhận thấy thân nầy như một khối
đau khổ vì bị
gai góc hay mũi nhọn đâm chích.
Một câu hỏi có thể nêu lên, "Có chăng khác biệt nào giữa những khổ đau mà người thường
kinh nghiệm và khổ đau mà người có hành thiền kinh nghiệm?" Sự khác biệt là khi cảm nghe đau nhức thì người thường thấy là, "cơn đau của tôi, tôi đang đau khổ", nhưng vị
hành giả hiểu biết thọ khổ mà không dính mắc, vị ấy
nhận thức rằng đó chỉ là những
hiện tượng khởi sanh và tức khắc
hoại diệt. Đây là vipassanā ñāṇa, một đối tượng của
tuệ minh sát,
không chấp vào một cái ta.
Dầu
nhận thức rằng đó là
đau khổ vì đặc tướng
vô thường của nó, hay xem đó là một khối khổ đau không thể
chịu đựng, không có
thỏa thích nào trong các hành, chỉ có
nhàm chán. Có
tình trạng bất
toại nguyện và
mệt mỏi chán chê đối với danh pháp và
sắc pháp trong
hiện tại và
vị lai, một
tình trạng hoàn toàn chán ghét đối với tất cả danh pháp và
sắc pháp. Đó là sự phát triển của nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản. Khi
tuệ giác (ñāṇa) phát triển ắt có
ý muốn tách rời,
xa lìa khỏi danh pháp và
sắc pháp, muốn
thoát ly ra khỏi đó.
Hành giả tiếp tục công phu thực hành thiền tập nhằm vượt đến
tình trạng giải thoát ấy.
Liên tục chuyên cần tinh tấn như thế, đến một lúc saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành
sanh khởi và
hành giả chứng ngộ Niết Bàn qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ. Do đó
Đức Thế Tôn mô tả tuệ giác xem tất cả các hành (saṅkhāra) là khổ, là đối tượng của sự chán nản, là
Con Đường Niết Bàn.
Cùng
một thế ấy
Đức Thế Tôn dạy
quán chiếu như thế nào để
nhận thức rằng các hành là
vô ngã và chán chê muốn tách rời ra khỏi đó.
Tuệ Chán Nản Phát Triển Khi Thấy
Vô NgãSabbe dhammā anattā'ti
yadā paññaya passati
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā.
Danh từ dhamma trong câu nầy cũng cùng một
ý nghĩa với chữ saṅkhāra của hai câu trước, là danh pháp và
sắc pháp, theo
nhận thức của
tuệ minh sát. Anattā (
vô ngã) là dhamma (pháp), và dhamma là những
hiện tượng, như vậy cũng là anattā. Nơi đây danh từ dhamma được dùng nhằm làm tỏ rạng hơn
ý nghĩa vô ngã của saṅkhāra. Đó là lối
giải thích của Bản
Chú Giải, và
chúng tôi tin rằng
giải thích như vậy là
thích nghi và có thể
chấp nhận. Nhưng cũng có những
quan điểm khác chủ trương rằng danh từ dhamma
cố ý được xử dụng ở đây để
bao gồm Đạo và Quả
siêu thế và luôn cả những pháp
vô lậu,
Niết Bàn, Nibbāna.
Chúng tôi nghĩ rằng lối
diễn dịch nầy không vững lắm. Người thường
nhận thấy rằng saṅkhāra, hành, như sự thấy và sự nghe là thường còn và lạc, trong khi người hành thiền thấy là
vô thường và khổ. Cùng thế ấy, cái mà người thường xem là tự ngã, cũng danh và sắc
tại thế ấy, vị
hành giả thấy là
vô ngã, anattā. Người hành thiền không cần và cũng không thể
ghi nhận (niệm) những sự vật
siêu thế. Những vật
vô lậu ấy không thể là đối tượng suy niệm cho người
tại thế và những người nầy không thể bám vào những đối tượng ấy. Như vậy phải
nhận định rằng dhamma ở đây chỉ là saṅkhāra
tại thế, tức danh và sắc, vốn có thể làm
đề mục quán chiếu của
thiền minh sát (vipassanā bhāvanā).
"Tất cả những
sắc pháp và danh pháp
tại thế, như sự thấy và sự nghe, không phải là tự ngã, không phải
thực thể sống.
Xuyên qua thiền minh sát, khi đến tầng tuệ diệt (bhaṅga ñāṇa), ta
thấu triệt chân lý nầy, và càng
bất mãn, chán chê tất cả những
đau khổ nầy.
Chán ghét là
con đường chân chánh thật sự dẫn đến
trong sạch (
Thanh Tịnh Đạo)
Niết Bàn, vượt
thoát khỏi mọi
ô nhiễm và khổ đau."
Bởi vì người thường chấp
sắc pháp và danh pháp là tự ngã,
thực thể sống, nên họ
hoan hỷ thỏa thích trong đó và cảm nghe
hạnh phúc. Nhưng vị
hành giả chỉ thấy đó là những
hiện tượng không ngừng
sanh diệt và do vậy
nhận thức rằng đó không phải tự ngã. Như được
giải thích trong
bài kinh nầy, bởi vì những
hiện tượng ấy có chiều hướng gây
đau khổ nên được thấy không phải là tự ngã và ta không thể điều khiển hay
kiểm soát theo ý mình. Như vậy người hành thiền không còn
thỏa thích hay
hoan hỷ trong danh và
sắc pháp.
Ý muốn tách rời, thoát ra khỏi những danh pháp và
sắc pháp ấy, phát sanh đến
hành giả. Vị nầy
tiếp tục chuyên cần hành thiền nhằm
thành tựu mục tiêu giải thoát ra khỏi danh và
sắc pháp ấy.
Đúng lúc, saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, phát sanh và
hành giả chứng ngộ Niết Bàn do Đạo Tuệ. Do đó
Đức Thế Tôn mô tả tuệ minh sát, xem tất cả
sắc pháp và danh pháp là
vô ngã, và dẫn đến
tình trạng nhàm chán mệt mỏi với
sắc pháp và danh pháp ấy, là
Con Đường Niết Bàn.
Như vậy phải
thận trọng ghi chú ba câu kệ trên.
Cho đến khi,
bằng kinh nghiệm của chính mình,
hành giả nhận thấy rằng các hành, saṅkhāra, tức danh pháp và
sắc pháp, luôn luôn nhanh chóng
sanh diệt,
tuệ minh sát thật sự mới phát triển đầy đủ để thấy
vô thường, khổ và
vô ngã. Và
nếu không thật sự
chứng nghiệm vô thường, khổ,
vô ngã, nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản,
nhàm chán những
đau khổ của danh pháp và
sắc pháp, sẽ không phát sanh. Và không có nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, không thể
chứng ngộ Niết Bàn. Chỉ khi tự mình
chứng nghiệm bản chất vô thường, khổ và
vô ngã của các hành, saṅkhāra, tâm
nhàm chán mệt mỏi mới phát triển, và nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, khởi hiện. Chỉ khi tiến
đạt đến nibbidā ñāṇa nầy Đạo Tuệ, Quả Tuệ và sau đó là
Niết Bàn, sẽ đến.
Vì lẽ ấy trong
bài kinh Đức Thế Tôn tuyên ngôn: Evaṁ passaṁ bhikkhave, sutvā ariyasāvako, rūpasmiṁpi nibbindati ...:
"Nầy chư tỳ khưu, vị Thánh
Đệ Tử thấy như thế (tức thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức 'không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta') càng
phát tâm nhàm chán sắc,
nhàm chán thọ, tưởng, hành, thức."
Định Nghĩa Nibbinda Ñāṇa
Trong đoạn kinh Pāli trên, mấy chữ "Thấy như thế " tóm lược lời
tuyên ngôn về tiến trình phát triển
tuệ minh sát đến giai đoạn bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt. Và với những chữ "nhàm chán..." tóm lược tiến trình phát triển vipassanā ñāṇa,
tuệ minh sát, từ bhaṅga, ādinava, và nibbidā (diệt, thấy hiểm họa, và chán nản) chí đến vuṭṭhānagāminī, tuệ đưa vượt lên, được
mô tả một cách
chính xác. Như vậy trong
Chú Giải kinh Mūlapaṇṇāsa có đoạn:
Nibbindatīti ukkanthati. Ettha ca nibbindāti vuṭṭhānagāminī vipassanā adhippeta.
Ṅibbindati ... cảm nghe
nhàm chán mệt mỏi, có nghĩa là
buồn chán,
bất mãn, không bằng lòng. Nghĩa rộng của danh từ 'Nibbindati ... là
tuệ minh sát
đạt đến Thánh Đạo, được gọi là vuṭṭhāna, đưa vượt lên'."
Trong sách Paṭisambhidāmagga và Visuddhimagga, tuệ chán nản, nibbinda ñāṇa, được
liệt kê trong bảy
giai đoạn phát triển liên tiếp: bhaṅga, ādīnava, nibbidā, muñcitukamyatā, paṭisaṅkhāra, saṅkhārupekkhā, và vuṭṭhānagāminī vipassanā ñāṇa. (Tuệ diệt, tuệ thấy hiểm họa, tuệ chán nản, tuệ muốn
giải thoát, tuệ suy tư, tuệ xả hành, và tuệ đưa vượt lên). Đến đây
chúng ta đã
giải thích đến tầng tuệ chán nản, nibbidā. Giờ đây Sư sẽ
tiếp tục với phần còn lại.
Thật Sự Mong Muốn
Niết BànNhận thức rằng mỗi khi mình
quán niệm thì chỉ thấy có
tình trạng nhanh chóng tan rã,
hành giả nhàm chán và
bất mãn với
danh uẩn và
sắc uẩn phát hiện trong sự thấy, sự nghe v.v... Vị ấy muốn tách lìa không còn
dính líu đến các danh và
sắc pháp ấy nữa,
nhận định rằng muốn được
thanh bình an lạc chỉ có cách là
thoát ly hẳn ra khỏi
tình trạng không ngừng
sanh diệt của những
hiện tượng danh sắc. Đó là sự khởi sanh của tâm thật sự mong muốn
Niết Bàn. Trước kia còn tưởng tượng
Niết Bàn là một
trung tâm điểm quan trọng mà mình
hy vọng đến đó để
thọ hưởng tất cả những
lạc thú hằng
mong mỏi. Đó không phải là ước muốn cái thật sự là
Niết Bàn, mà chỉ là loại
hạnh phúc tại thế. Những ai chưa thật sự thấy hiểm họa và khuyết điểm của danh pháp và
sắc pháp còn
ham muốn những loại
hạnh phúc trần tục tại thế ấy. Họ không thể
chấp nhận ý niệm hoàn toàn chấm dứt mọi danh pháp và
sắc pháp,
bao gồm những loại
dục lạc.
Một hôm nọ
nhà sư trẻ tuổi tên Lāludāyi có nghe Đức Sārīputta (
Xá Lợi Phất)
thì thầm nói nhỏ, "Niết Bàn
quả thật hạnh phúc!
Niết Bàn quả thật hạnh phúc!" Vị sư trẻ bạch hỏi, "Bạch Ngài, trong
Niết Bàn không còn
cảm giác,
vậy thì không có gì để
kinh nghiệm, có phải vậy không? Như thế thì làm sao có
hạnh phúc trong
Niết Bàn, nơi mà không còn cảm giác?" Vị ấy nêu lên điểm thắc mắc nầy vì đã được dạy rằng
Niết Bàn không còn danh pháp và
sắc pháp, tức không có
cảm giác. Nhưng vì tự mình chưa có
kinh nghiệm về
Niết Bàn nên vị ấy không thấy được ở
Niết Bàn có thể có
hạnh phúc gì. Câu
trả lời của Ngài Sārīputa là, "Chính vì
sự kiện không có
cảm giác mà đó là
hạnh phúc."
Đúng thật vậy,
trạng thái thanh bình an lạc là
hạnh phúc hơn tất cả những
cảm giác hoan hỷ thỏa thích. Đó là
chân hạnh phúc. Một
cảm giác được nghĩ là
hạnh phúc hay
thỏa thích bởi vì ta khát khao
thèm muốn nó. Không
thèm muốn, không khát vọng, ắt không có
cảm giác nào có thể được xem là
thỏa thích. Hãy bình tâm suy tư trong giây lát, ta sẽ thấy rõ điểm nầy. Một món ăn thơm ngon xem hình như đem lại
thích thú và khoái lạc trong khi ta
ưa thích hay thèm nó. Nhưng khi
bệnh hoạn ốm đau hay lúc bụng no, cũng món ăn thơm ngon ấy, ta không còn thấy nó
hấp dẫn nữa. Nếu
bị bắt buộc phải ăn, ta sẽ không cảm nghe
thích thú, không thấy nó là
ngon lành, mà còn thấy đó là một nguồn
đau khổ. Hãy lấy một
thí dụ khác, trong
thời gian bao lâu ta có thể
thưởng thức liên tục nhìn một cảnh đẹp, hay nghe một
âm thanh êm dịu? Mấy tiếng đồng hồ, mấy ngày, mấy tháng, hay mấy năm? Dầu chỉ trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ ta cũng không thể giữ
tâm liên tục
thích thú trước khi
nhàm chán,
mệt mỏi. Nếu còn phải
tiếp tục nhìn
quang cảnh ấy, hay phải nghe
âm thanh ấy ta sẽ thấy đó là một
kinh nghiệm khủng khiếp, một
cực hình. Do vậy,
rõ ràng không
ưa thích, không
tham vọng, không
cảm giác là
hạnh phúc. Một bài viết với đầy đủ
chi tiết về
vấn đề nầy đã được trình bày trong quyển sách của
chúng tôi tựa đề "Concerning Nibbāna" [Sách được
ấn hành dưới tựa đề: "Nibbānapaṭisaṁyutta Kathā: On The Nature of Nibbāna", tại Yangon, Myanmar, May 1995, do Hội Buddha Sasana Nuggaha Foundation xuất bản].
Ức Đoán Niết BànVị
hành giả đã phát triển tuệ chán nản nibbinda ñāṇa thật sự
nhận thấy sắc thái
độc hại của danh pháp và
sắc pháp và trở nên chán nản. Vị ấy hiểu rằng ở
Niết Bàn không có danh pháp và
sắc pháp, không
cảm giác, thật sự là
thanh bình an lạc, và
hết lòng ước muốn
thành đạt. Cũng tựa hồ như ở từ xa nhìn ngắm
mục tiêu để dò dẫm đường đi nước bước. Đó là nhìn đến
Niết Bàn bằng tuệ muốn
giải thoát, muñcitukamyatā ñãṇa. Vì
ý chí muốn
thành đạt Niết Bàn, Nibbāna, và
lòng ham muốn thoát ly ra khỏi những hiểm họa của danh và
sắc pháp ngày càng phát triển,
hành giả càng thêm
chuyên cần tinh tấn.
Với mức
tinh tấn ngày càng
tăng trưởng ấy
hành giả tiến
đạt đến tuệ suy tư, (paṭisaṅkhā ñāṇa, suy tư về những gì mình đã
quán chiếu), trong khi ấy
thông hiểu bản chất vô thường, khổ và
vô ngã thâm sâu hơn trước.
Đặc biệt là đặc tướng
đau khổ, được
hành giả thấu triệt rõ ràng hơn. Khi paṭisaṅkhā ñāṇa, tuệ suy tư,
tăng trưởng và
thuần thục,
hành giả đạt đến tuệ xả hành (saṅkhārupekkhā ñāṇa, tâm
hoàn toàn bình thản (xả) trước tất cả các vật được
cấu tạo hay các
pháp hữu vi (hành), tất cả danh pháp và
sắc pháp.
Đó là
mô tả một cách tổng quát như thế nào bắt đầu từ sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, một loạt những
tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa)
dần dần phát triển nơi một
cá nhân có thể
rèn luyện (neyya). Đối với một vị
thánh nhân, như bậc
Tu Đà Huờn, sau khi
ngồi thiền một lúc thì có thể đến tầng xả hành (saṅkhārupekkhā).
Chắc chắn rằng trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, khi vừa nghe kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng, thì tức khắc
đạt đến tuệ giác nầy.
Sáu
Đặc Điểm Của Tuệ Xả Hành (Saṅkhārupekkha ñāṇa)
1. Tâm
Thản Nhiên (Xả)
Saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, có sáu
đặc tính phân biệt rõ ràng. Đầu tiên là tâm
thản nhiên, không
rung động vì sợ hải hoặc
bất mãn, như được sách Visuddhimagga (
Thanh Tịnh Đạo)
mô tả: Bhayañca nandiñca vippahāya sabba saṅkhāresu udāsino. Tâm xả ấy phát sanh như thế nào?
Khi đến tuệ kinh sợ, bhaya ñāṇa,
hành giả quán chiếu trạng thái kinh sợ và phát triển
tuệ giác có
đặc điểm là
chán ghét. Đến tuệ xả hành, saṅkhārupekkhā ñāṇa, tất cả những dấu hiệu kinh sợ đều tan biến. Đến giai đoạn thấy hiểm họa, ādīnava,
hành giả nhìn thấy tất cả sự vật đều hiểm nguy
độc hại; đến tuệ chán nản, nibbidā, thấy tất cả đều đáng
nhàm chán và ghê tởm. Đến giai đoạn muốn
giải thoát, muñcitukamyatā,
hành giả phát tâm muốn tách rời
lìa bỏ,
thoát ly, vượt ra khỏi các uẩn. Khi tiến
đạt đến giai đoạn saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, thấy tất cả những
đặc tính của các tầng
tuệ minh sát (ñāṇa) thấp, tức thấy hiểm họa,
nhàm chán và ghê tởm, muốn
giải thoát, và muốn tận lực
chuyên cần tinh tấn đều tan biến. Trong sách Visuddhimagga, hai chữ bhayañca vippahāya --
từ bỏ kinh sợ -- hàm
xúc tiến bộ của
tuệ giác nầy. Đúng theo đoạn sách nầy ta phải thấy rằng với sự tan biến của
tâm kinh sợ, tất cả những
đặc tính khác, tức thấy hiểm họa,
chán ghét, muốn thoát ra khỏi các hành, và muốn tận lực
chuyên cần tinh tấn cũng biến tan.
Lại nữa, đến tầng udayabbaya ñāṇa, tuệ
sanh diệt,
hành giả phát triển phỉ lạc mạnh mẽ, và trở nên rất
hoan hỷ thỏa thích. Saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, là mức độ cao hơn udayabbaya ñāṇa, tuệ
sanh diệt;
tuy nhiên, đến tầng nầy tất cả những
cảm giác phỉ lạc đều không còn. Do đó trong sách Visuddhimagga,
Thanh Tịnh Đạo, có đoạn viết nandiñca vippahāya -- "từ bỏ thích thú".
Hành giả đã
từ bỏ mọi
thích thú và khoái lạc; sống trong
tình trạng chỉ quán chiếu tất cả các hành, saṅkhāra, phát hiện trong sự thấy, sự nghe v.v... với tâm
hoàn toàn bình thản. Không còn
hoan hỷ,
thích thú,
hạnh phúc hay khoái lạc như ở tầng udayabbaya ñāṇa, tuệ
sanh diệt.
Đó là
không kinh sợ hay
thỏa thích trong khi
thực hành Giáo Pháp, Dhamma. Đối với
thế sự cũng vậy, vị
hành giả đã đến tầng saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành,
rõ ràng không còn kinh sợ hay
thích thú với những sự việc trần gian. Khi nghe những
tin tức đáng sợ trong đời sống
trần tục hay
trong đời sống
cá nhân, vị ấy
thản nhiên không
xúc động, không băn khoăn,
rối loạn,
lo âu hay sợ sệt. Vị ấy cũng
thản nhiên khi gặp những diễn biến
vui vẻ, không
xúc động nhiều, cũng không
thích thú hoan hỷ khoái lạc. Đó là đã vượt thoát ra khỏi mọi kinh sợ và
thích thú trong đời sống
trần tục.
2. Tâm
Quân BìnhĐặc tính thứ nhì là
trạng thái tâm
quân bình,
cảm giác không quá
vui thích cũng không quá
sầu muộn, chán nản
ngã lòng, trước những
thăng trầm của
đời sống trần tục. Có thể nhìn cả hai, những diễn biến
vui vẻ và những sự việc
buồn phiền, một cách
vô tư với
tâm bình thản. Câu tiếng Pāli được trích ở đây là:
Cakkhunā rūpaṁ disvā neva sumano hoti na dummano, upekkhako viharati, sato sampajāno.
"Khi mắt nhìn thấy một
hình sắc, vị
hành giả giữ
tâm bình thản,
không vui không buồn. Dầu cảnh sắc có
đẹp đẽ xinh tươi hay
hấp dẫn như thế nào
hành giả không cảm nghe phấn khởi,
hân hoan; dầu cảnh vật có
xấu xí hay
đáng ghét,
hành giả vẫn
thản nhiên, giữ
thái độ quân bình, chú niệm và
hiểu biết rõ ràng."
Vô tư ghi nhận tất cả mọi cảnh vật đã thấy, dầu đáng
vui thích hay nghịch lòng, chỉ
thông hiểu bản chất vô thường, khổ và
vô ngã thật sự của nó mà không
phát tâm ưa thích hay ghét bỏ,
hành giả nhìn mọi
hiện tượng một cách bình thản,
quán sát với tâm
buông xả, không dính mắc, để
hiểu biết hiện tượng thấy, vốn nhanh chóng
hoại diệt trong mỗi khoảnh khắc. Vị
hành giả đã đến tầng saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, qua
kinh nghiệm bản thân,
thông hiểu công trình quán chiếu ấy
diễn tiến như thế nào. Đó là
phương cách phải nhìn thấy và
quán sát hiện tượng thấy với
thái độ tâm
quân bình.
Trong khi nghe, hửi, nếm, sờ đụng, và suy tư,
hành giả cũng phải làm như thế ấy,
quán chiếu một cách
vô tư, chỉ để thấu hiểu những
hiện tượng mỗi khi nó phát hiện. Khả năng
theo dõi những gì xảy diễn ở
lục căn với
tâm bình thản được gọi là chalaṅgupekkhā, một phẩm hạnh của chư vị
A La Hán. Nhưng một người thường
tại thế mà đã tiến
đạt đến giai đoạn saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, cũng có thể
thực hành được như thế. Theo Bản
Chú Giải bộ
Tăng Nhứt A Hàm, Aṅguttara Nikāya, một
hành giả đã tiến đến mức udayabbaya ñāṇa, tuệ
sanh diệt, có thể cũng có phẩm hạnh nầy giống như chư vị
A La Hán, nhưng ở một mức độ không
rõ ràng nổi bật lắm. Đến tầng bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt, phẩm hạnh ấy
rõ ràng hơn, và trở nên thật sự
rõ ràng ở tầng saṅkhārupekkhā, xả hành. Như vậy, người hành thiền đã tiến đến mức phát triển nầy, có được phẩm hạnh của chư vị
A La Hán, cũng đáng được
kính trọng và
mến phục. Dầu cho những người khác không ai biết, vị
hành giả tự mình
hiểu biết phẩm hạnh của chính mình có thể cũng lấy làm
vừa lòng và đẹp dạ với
công trình hoàn thành những
tiến bộ của mình.
3. Không
Cố GắngĐặc tính thứ ba của tuệ xả hành là
quán chiếu một cách
tự nhiên, không có
sự cố gắng. Saṅkhāra vicinane majjhattaṁ hutvā, sách Visuddhimagga,
Thanh Tịnh Đạo, dạy như vậy. "Giữ
thái độ vô tư đối với
công trình quán chiếu."
Trong Bản Phụ
Chú Giải, câu nầy được
giải thích rằng "cũng giống như giữ
trạng thái tâm
quân bình trong khi
quán chiếu các hành, saṅkhāra, cùng thế ấy phải
duy trì thái độ tâm
quân bình,
vô tư, trong
pháp hành quán chiếu công trình nầy." ở những mức độ phát triển thấp
hành giả phải
cố gắng nhiều để làm phát hiện
đề mục quán chiếu. Đến tầng saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, không
cần phải đặc biệt cố gắng để làm phát sanh
đề mục quán chiếu. Những đối tượng ấy tự động tự phát hiện, từng đối tượng một, và
hành giả tự nhiên theo dõi quán chiếu mà không cần
cố gắng.
Công trình quán chiếu trở thành một tiến trình dễ dàng suôn sẻ chảy trôi. Trên đây là ba
đặc tính thản nhiên và
quân bình của saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành.
Tiếp theo,
chúng ta sẽ đề cập đến ba
đặc tính kế.
4.
Bền Vững Lâu DàiỞ các tầng tuệ thấp, không dễ gì giữ tâm
vững chắc trên
đề mục trong một
thời gian chừng nửa tiếng hoặc một tiếng đồng hồ. Đến tầng saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, người hành thiền có thể giữ
tâm quán chiếu
đều đặn vững chắc trong một, hoặc hai, ba tiếng. Nhiều
thiền sinh chúng ta đã
kinh nghiệm điều nầy.
Vì lẽ ấy sách Paṭisambhidā-magga định nghĩa rằng tuệ xả hành là
tuệ giác có thể kéo dài
bền vững trong một
thời gian lâu. Và Bản Phụ
Chú Giải của sách Visuddhi-magga
giải thích rằng đó là "một tiến trình phát triển
liên tục,
lâu dài." Chỉ khi nào
tồn tại một
thời gian lâu mới có thể được nói là
bền vững lâu dài.
5. Ngày Càng Thêm
Vi TếĐặc tính thứ năm của tuệ xả hành là càng ngày càng trở nên
vi tế và
tế nhị hơn, như được dạy trong sách Visuddhimagga,
Thanh Tịnh Đạo, giống như bột mà người ta sàng sẩy qua một cái rây, càng lúc càng mịn màng hơn. Từ lúc phát sanh saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, vốn đã
vi tế, nhưng càng lúc càng trở nên
vi tế và
tế nhị hơn, và
hiện tượng nầy, nhiều
hành giả của
chúng ta đã
kinh nghiệm.
6.
Tâm Không Phóng DậtĐặc tính cuối cùng của tâm xả hành là không
phóng dật. ở các tầng thấp hơn,
trạng thái an trụ không đủ dõng mãnh, tâm phóng đến nhiều đối tượng khác nhau, nhưng đến tầng saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, tâm
vững vàng an trụ hầu
như không còn chao động hay
phóng dật. Dầu là những đối tượng nào mà không
thích hợp với
công phu quán chiếu tâm cũng
không chấp nhận, không nói đến những
vọng tưởng.
Đến tầng bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt, tâm hướng về nhiều phần khác nhau trong khắp châu thân, và như vậy
xúc giác được cảm nhận từ khắp
mọi nơi trong thân. Nhưng đến giai đoạn xả hành nầy, khó làm cho tâm phóng nhảy nơi nầy
nơi khác vì nó chỉ gom vào một vài điểm mà
hành giả thường dùng làm đối tượng để
quán chiếu. Như vậy,
tâm không hướng về khắp châu thân mà chỉ rút về bốn đối tượng -- chỉ hay biết từng giai đoạn phồng, xẹp, ngồi và đụng. Trong bốn đối tượng, thân ngồi có thể biến mất, chỉ còn lại ba đối tượng để niệm. Rồi
di động phồng xẹp cũng phai dần, chỉ còn lại
cảm giác đụng. Sự hay biết sờ đụng cũng biến mất luôn, chỉ còn lại cái tâm hay biết, và tâm nầy được
ghi nhận, "hay biết, hay biết."
Vào những lúc tương tợ, ta thấy rằng mỗi khi suy tư đến một
đề mục được
đặc biệt chú ý,
tâm không ở lâu nơi đó mà quay
trở về đề mục quán chiếu thông thường.
Vì lẽ ấy nói rằng
tâm không phóng dật. Sách Visuddhimagga,
Thanh Tịnh Đạo,
mô tả là patiliyati patikutati na sampasāriyati: "nó
tháo lui, co
rút lại, và giựt lùi; không trải rộng ra."
Đó là ba dấu hiệu hay ba
đặc tính của saṅkhār-upekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, mà người hành thiền phải tự
bản thân kinh nghiệm. Chưa
kinh nghiệm được ba
đặc tính --
bền vững lâu dài, càng lúc càng
vi tế hơn, và không
phóng dật -- có nghĩa là người hành thiền chưa phát triển tâm đến tầng tuệ nầy.
Phát Triển Tuệ Đưa Vượt Lên
Khi saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, với sáu
đặc tính, đã được
viên mãn thành tựu, có một loại
tuệ giác hình như phát sanh rất nhanh chóng.
Loại
tuệ giác nầy được gọi là vuṭṭhānagāminī vipassanā. Vuṭṭhāna có nghĩa là trổi dậy, vượt lên. Vipassanā ñāṇa là
tuệ minh sát nằm trong tiến trình
sanh diệt liên tục diễn tiến của các hành (tức tiến trình
danh sắc). Với mỗi chặp
tư tưởng quán sát sự
chú tâm rơi vào tiến trình
danh sắc liên tục diễn tiến nầy.
Tuy nhiên khi
tuệ minh sát hướng vào ariyamagga ñāṇa,
Thánh Đạo Tuệ, phát triển đối tượng của sự chú ý
trở thành sự
chấm dứt hiện tượng sanh diệt của
danh sắc. Điều nầy có nghĩa là tâm trổi dậy, hay "vượt lên" khỏi luồng
trôi chảy của
danh sắc và đối tượng của tâm
trở thành Nibbāna,
Niết Bàn.
Vì lẽ ấy ("vượt lên" tách rời ra khỏi luồng danh-sắc
trôi chảy liên tục)
Thánh Đạo được gọi là vuṭṭhāna, vượt lên. Khi
tuệ minh sát nầy nhanh chóng
chấm dứt,
hành giả chứng ngộ Niết Bàn. Như vậy, trong
tuệ minh sát
đặc biệt nầy, tâm trổi dậy, vượt lên từ các hành (tức các
pháp hữu vi, hay tiến trình
danh sắc) vượt đến
Thánh Đạo, do đó có tên vuṭṭhānagāminī.
Vuṭṭhānagāminī vipassanā,
tuệ minh sát vượt lên, nầy phát sanh trong khi
hành giả ghi nhận một trong sáu thức,
như ý thức hay
thân thức chẳng hạn,
trở thành hiển nhiên nổi bật trong khoảnh khắc
đặc biệt nầy.
Quán chiếu các
hiện tượng nhanh chóng
hoại diệt hành giả nhận thấy bản chất vô thường, hoặc
nhận thấy bản chất đau khổ, hay bất
toại nguyện, hay
nhận thấy bản chất vô ngã. Tâm vuṭṭhānagāminī nầy phát sanh
tối thiểu hai hoặc ba lần; đôi khi có thể phát sanh bốn, năm, hay chí đến mười lần. Như được
mô tả trong
kinh điển, vào khoảnh khắc
cuối cùng của vuṭṭhānagāminī,
tuệ minh sát vượt lên, có ba chặp
tư tưởng của luồng javana (xung lực, hay
tốc hành) phát sanh -- parikamma (chặp
sơ khởi, hay chuẩn bị), upacāra (chặp kế cận) và anuloma (chặp
thuận thứ) --
theo sau đó là một chặp javana
đặc biệt thuộc
dục giới (kāmāvacara) chụp lấy Nibbāna,
Niết Bàn -- nơi mà tất cả danh pháp và
sắc pháp chấm dứt -- làm đối tượng. Sau chặp javana nầy
Thánh Đạo phát sanh, và tâm rơi vào đối tượng
Niết Bàn, không có danh và sắc,
chấm dứt tất cả mọi saṅkhāra, hành. Tức khắc sau chặp ariyamagga javana,
Thánh Đạo, ariyaphala javana,
Thánh Quả, liền phát sanh hai hoặc ba lần, có cùng một đối tượng với
Thánh Đạo. Cùng với sự phát sanh của
Thánh Đạo và
Thánh Quả, người
tại thế thông thường trở nên
Thánh Nhân,
dần dần đến bậc
Nhập Lưu,
Nhứt Lai,
Bất Lai và vị Thánh
Bất Lai cuối cùng trở nên bậc
A La Hán.
Chặp xung lực (javana) thiện thuộc
dục giới (kāmāvacara kusala javana) lấy
Niết Bàn làm đối tượng được gọi là gotrabhū, chuyển tánh, chặp
tư tưởng xung lực
vượt qua khỏi huyết thống của
thế gian trần tục. Sách Paṭisambhidā magga định nghĩa gotrabhū như sau: "Trổi dậy từ những đối tượng vốn là các
hiện tượng được
cấu tạo (hành), có
đặc tính trở thành, tâm có chiều hướng lao mình vào đối tượng
Niết Bàn, vốn không
trở thành, và do đó được gọi là gotrabhū, chuyển tánh." Hoặc "Phát sanh từ đối tượng của nó là tiến trình
danh sắc liên tục diễn tiến, tâm đâm đầu hướng về đối tượng
Niết Bàn, không có tiến trình
liên tục trở thành." Sách Milindapañhā, Mi-Lin-Đa
Vấn Đáp, nói: "Tâm của vị
hành giả quán chiếu và
ghi nhận từng
hiện tượng một, sau
hiện tượng nầy đến
hiện tượng khác, từng giai đoạn,
vượt qua khỏi luồng
danh sắc liên tục trôi chảy, và đâm vào
trạng thái mà luồng
danh sắc chấm dứt."
Trước tiên hành giả quán chiếu những
hiện tượng danh và
sắc không ngừng khởi sanh và phát hiện mỗi khi suy tư, sờ đụng, nghe, thấy v.v... Vị ấy chỉ
nhận thấy một luồng các
hiện tượng danh pháp và
sắc pháp liên tục trôi chảy hình như
vô tận. Trong khi
quán chiếu như thế ấy về những
hiện tượng danh sắc vô tận và suy tư về đặc tướng
vô thường, khổ và
trạng thái rỗng không của tự ngã, đến một lúc, tức khắc sau chặp tâm
cuối cùng (parikamma, upacāra và anuloma) của sự suy tư, tâm bỗng dưng hướng về và rơi xuống
trạng thái mà tất cả những đối tượng được
quán chiếu cùng với
tâm quán chiếu
hoàn toàn chấm dứt. Sự hướng về là hướng về chặp tâm gotrabhū, chuyển tánh, và sự rơi xuống là
chứng ngộ Niết Bàn, qua
Thánh Đạo và
Thánh Quả. "Tâu
Đại Vương, vị
hành giả đã hành thiền đúng và lao mình sâu vào nơi có sự
chấm dứt của những
hiện tượng tâm linh, được nói là
chứng ngộ Nibbāna,
Niết Bàn."
Đây là đoạn kinh
mô tả vuṭṭhānagāminī vipassanā,
tuệ minh sát vượt lên,
Thánh Đạo và
Thánh Quả được
chứng ngộ như thế nào. Người hành thiền sẽ thấy cách trình bày nầy
trùng hợp với những gì mà tự
cá nhân mình
chứng nghiệm.
Kinh điển và
kinh nghiệm cá nhân trùng hợp nhau như thế nào:
Thông
thường hành giả bắt đầu
quán sát thân thức và
ý thức hoặc sự nghe, sự thấy v.v... ;
tóm lại, đó là
quán chiếu bản chất của năm nhóm bám níu,
ngũ uẩn thủ. Như đã
nói trước đây, vào giai đoạn bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt,
hành giả luôn luôn
ghi nhận sự tan biến nhanh chóng của những
hiện tượng danh sắc và thấy đó là đáng
kinh hoàng khủng khiếp. Điều nầy đưa
hành giả đến
tình trạng nhàm chán và ghê tởm. Muốn thoát ra khỏi những
tình trạng nầy,
hành giả tận lực
cố gắng cho đến khi tiến
đạt đến giai đoạn saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, vào lúc mà mình có thể nhìn tất cả mọi sự vật một cách
thản nhiên với tâm
quân bình. Khi saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, được
viên mãn thành tựu, liền phát sanh một cách rất nhanh chóng và
rõ ràng vuṭṭhānagāminī và anuloma ñāṇa, (tuệ đưa vượt lên và tuệ
thuận thứ), và
hành giả rơi vào
trạng thái hoàn toàn rỗng không, nơi mà tất cả mọi đối tượng và mọi
hoạt động quán chiếu đều
chấm dứt. Đó là
chứng ngộ Nibbāna,
Niết Bàn, qua
Thánh Đạo và
Thánh Quả, đưa người
phàm tục tại thế vào
trạng thái Nhập Lưu, đưa vị
Nhập Lưu vào
trạng thái Nhứt Lai, vị
Nhứt Lai vào
trạng thái Bất Lai và sau cùng đưa vị Thánh
Bất Lai vào
trạng thái A La Hán. Kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng,
mô tả như sau những
biến đổi ấy:
Từ
Nhàm Chán Tiến Đến
Thánh Đạo Và
Thánh QuảNibbindaṁ virajjati virāgā vimuccati
"Vì
nhàm chán hành giả không còn khát khao
ham muốn và phát triển
Thánh Đạo. Không còn khát khao
ham muốn và đã khai triển
Thánh Đạo,
hành giả vượt ra khỏi những hoặc lậu (āsava) và
ô nhiễm (kilesa)."
Từ sammasana ñāṇa, tuệ thấu
đạt đến bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt,
hành giả phát triển sự
hiểu biết về
bản chất vô thường, khổ,
vô ngã của các
hiện tượng. Trong đoạn trên
Đức Thế Tôn hàm xúc sự phát triển nầy trong cụm từ Evaṁ passaṁ -- "Thấy như thế". Giai đoạn từ bhaṅga (diệt) đến saṅkhārupekkhā (xả hành) và anuloma (
thuận thứ) được
mô tả là "nibbindati",
nhàm chán và
mệt mỏi. Rồi đến đoạn nibbindaṁ virajjati, virāgā vimuccati: "Khi
chán ghét,
hành giả càng
mệt mỏi nhàm chán; khi
nhàm chán mệt mỏi,
hành giả càng không khát khao
ham muốn; không khát khao
ham muốn,
hành giả càng
giải thoát," để
mô tả sự phát triển Đạo Tuệ và Quả Tuệ. Một cách
mô tả thật
chính xác, rất đúng với
kinh nghiệm thực hành của người hành thiền.
Sự
Mô Tả Trùng Hợp Với Thực Nghiệm Của
Hành Giả Như Thế Nào?
Saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, càng
tăng trưởng vững chắc và mạnh mẽ,
trí tuệ khác thường nhanh chóng phát sanh đến
hành giả. Nếu
tình trạng phát triển
cảm giác nhàm chán chưa đủ dõng mãnh để
từ bỏ danh pháp và
sắc pháp hành giả có thể còn bị
lo âu khuấy động: "Rồi việc gì sắp xảy đến đây? Có phải ta sắp lìa đời chăng?" Nếu bị
lo âu dày xéo như thế đó ắt không thể gom
tâm an trụ, và
tâm định sẽ
suy giảm. Nhưng khi
cảm giác chán chê
mệt mỏi đủ mạnh,
lo âu không phát hiện và
hành giả tiếp tục quán chiếu một cách suôn sẻ dễ dàng, không cần
cố gắng.
Hành giả sẽ sớm sủa rơi vào
trạng thái thoát ly ra khỏi mọi khát vọng và
luyến ái, và
hoàn toàn chấm dứt tất cả danh pháp và
sắc pháp. Đó là
giải thoát ra khỏi mọi
ô nhiễm và hoặc lậu (āsava).
Khi rơi vào
trạng thái chấm dứt mà không
luyến ái, qua
Thánh Đạo đầu tiên (sotāpattimagga,
Tu Đà Huờn Đạo),
hành giả thoát ra khỏi những hoặc lậu
tà kiến (diṭṭhāsava,
tà kiến lậu), thoát ra khỏi
si mê liên hợp với
hoài nghi và
ngờ vực, và thoát ra khỏi mọi
hình thức dục lạc thô kịch có thể đưa đến
khổ cảnh. Đó là
giải thoát qua
Tu Đà Huờn Quả, vốn là
thành quả của
Tu Đà Huờn Đạo. Khi đến giai đoạn
chấm dứt qua
Thánh Đạo thứ nhì,
Nhứt Lai, có sự giảm suy
dục lạc. Đến giai đoạn
chấm dứt Thánh Đạo thứ ba,
Bất Lai, thoát ra khỏi mọi
hình thức dục lạc vi tế cũng như mọi
hình thức si mê. Với giai đoạn
chứng ngộ A La Hán Đạo (arahattamagga ñāṇa,
A La Hán Đạo Tuệ)
hoàn toàn giải thoát ra khỏi mọi
hình thức ô nhiễm và hoặc lậu. Đó là đúng theo lời dạy virāgā vimuccati. Khi đã thoát hẳn ra khỏi mọi khát vọng và rơi vào
tình trạng chấm dứt, phát sanh
sự giải thoát qua
Thánh Quả, vốn là
thành quả của
Thánh Đạo.
Sự giải thoát nầy được
nhận thấy rõ ràng qua một tiến trình suy tư.
Suy Tư Của Vị
A La HánTiến trình suy tư của một vị
A La Hán được
mô tả trong
đoạn kết luận của
bài kinh Anattalakkhana Sutta,
Vô Ngã Tướng, như sau:
Vimuttasmiṁ vimuttamīti ñāṇaṁ hoti "khīnā jāti vusitaṁ brahmacariyaṁ kataṁ karaṇīyaṁ nāparaṁ ittattāyā'ti pajānātīti".
"Khi đã
giải thoát,
hành giả suy tư và
hiểu biết rằng
tình trạng giải thoát ra khỏi mọi
ô nhiễm đã
viên mãn thành tựu, và
hành giả hiểu biết, 'Sự sanh đã cạn nguồn (không còn sanh
trở lại),
Đời Sống Thánh Thiện đã được
trải qua, những gì phải làm đã được
hoàn tất, không còn gì phải làm.'
Hành giả suy tư và
hiểu biết như thế."
Đó là như thế nào vị
A La Hán suy tư
trở lại thành tựu của Ngài. Nơi đây ta có thể thắc mắc, "Làm sao Ngài hiểu được rằng sự sanh đã cạn nguồn. Ngài không còn
tái sanh nữa?" Ngày nào còn
tà kiến và ảo kiến
liên quan đến danh uẩn và
sắc uẩn, và còn
luyến ái dính mắc vào đó, xem
danh sắc là thường còn, lạc, và tự ngã thì sẽ còn
trở thành, còn lặp lại đổi mới,
tái sanh trở lại trong vòng quanh những kiếp
sinh tồn. Khi ta không còn
si mê, đã thoát ra khỏi mọi
tà kiến và ảo kiến, ắt cũng không còn
luyến ái, không bám níu vào kiếp
sinh tồn. Vị
A La Hán suy tư và
hiểu biết tường tận rằng Ngài đã vượt hẳn ra khỏi mọi
tà kiến và ảo kiến
liên quan đến các uẩn và không còn bám níu vào đó nữa. Do đó Ngài
thông hiểu rằng đối với Ngài sự sanh đã cạn nguồn, không còn
trở lại. Đó là suy tư về những
ô nhiễm đã được
loại bỏ và tận diệt.
Nơi đây, "Đời Sống Thánh Thiện", hay
đời sống phạm hạnh (brahmacariya), có nghĩa là
thực hành giới, định, tuệ (sīla, samādhi, paññā).
Tuy nhiên,
nghiêm chỉnh trì giới hoặc trau giồi
thiền định tự nó không giúp
thành đạt mục tiêu cao
siêu nhất.
Mục tiêu tối thượng chỉ có thể
thành tựu bằng cách
ghi nhận những
hiện tượng danh sắc mỗi khi nó phát hiện, chí đến lúc
thành đạt Đạo và Quả. Do vậy, phải hiểu rằng "cuộc Sống
Thánh Thiện đã được sống" có nghĩa là
thiền tập đã được
thực hành chí đến khi
thành đạt mục tiêu tối thượng.
"Những gì phải làm" có nghĩa là
thực hành thiền tập để thấu hiểu đầy đủ
Tứ Diệu Đế.
Nhiệm vụ nầy được
viên mãn hoàn tất với sự
chứng đắc arahattamagga,
A La Hán Đạo. Dầu sau khi tự mình đã thấy
bản chất của sự
chấm dứt qua ba Đạo thấp hơn (
Tu Đà Huờn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm) và đã
hiểu biết bản chất vô thường, khổ và
vô ngã, nhưng còn vài ảo kiến về
tưởng uẩn và
thức uẩn vẫn còn chưa được tận diệt. Bởi vì những ảo kiến ấy nên vẫn còn
thích thú,
tham ái, và
tin tưởng những
hiện tượng là
vui vẻ và
thích thú. Căn cội của
tham ái vẫn chưa được nhổ tận gốc rễ.
Vì lẽ ấy đối với vị Thánh
Bất Lai vẫn còn một vài khuyết điểm rất
tế nhị. Đến giai đoạn arahattamagga,
A La Hán Đạo,
Chân Lý về sự
Đau Khổ được
thấu triệt trọn vẹn. Tất cả mọi ảo kiến về
tưởng uẩn và
thức uẩn đều tận diệt. Bởi vì không còn ảo kiến, những khái niệm
sai lầm về
vui vẻ thích thú, không có cơ hội cho
nguyên nhân tham ái khởi phát vì nó đã
bị loại bỏ
hoàn toàn.
Nhiệm vụ hiểu biết Tứ Diệu Đế đã được
viên mãn thành tựu.
Vì lẽ ấy khi suy tư, vị
A La Hán thấy rằng không còn gì để làm, tất cả những gì phải làm đã
viên mãn hoàn tất.
Trong đoạn kinh về những suy tư của vị
A La Hán không có đoạn nào đề cập đến Đạo, Quả,
Niết Bàn và những
ô nhiễm. Nhưng phải hiểu rằng những điểm ấy đã được suy nghiệm đến trước hết, rồi mới nghĩ đến các
vấn đề khác. Như vậy phải hiểu rằng đoạn suy tư "Đời Sống
Thánh Thiện đã được
trải qua, những gì phải làm đã được hoàn tất"
theo sau suy tư về Đạo, Quả và
Niết Bàn. Đoạn "Tâm đã
được giải thoát, sự sanh đã cạn nguồn" chỉ được nghĩ đến sau khi suy tư về những
ô nhiễm đã được tận diệt. Những suy tư của các vị
Nhập Lưu,
Nhứt Lai và
Bất Lai đã được trình bày trong bài giảng của Sư (Ngài Mahasi) về kinh Sīlavanta Sutta.
Tóm lược
"Nhàm chán
mệt mỏi,
hành giả không còn
ham muốn,
thoát ly ra khỏi mọi khát vọng, và
Thánh Đạo phát sanh. Không khát vọng và
Thánh Đạo phát sanh đến mình,
hành giả vượt
thoát khỏi mọi
trói buộc của
ô nhiễm. Cùng đến với
trạng thái giải thoát hành giả suy tư rằng tâm mình đã
giải thoát và
hiểu biết: 'Sự sanh đã cạn nguồn;
Đời Sống Thánh Thiện đã được
trải qua, những gì phải làm đã được
hoàn tất, không còn
trở lại trạng thái trở thành nầy nữa."
Những vị
Trưởng Lão đọc tụng bài kinh nầy tại
Hội Nghị và ghi chép đoạn
cuối cùng như sau:
Idamavoca Bhagavā attamanā pañcavaggiyā bhikkhū Bhagavato bhāsitaṁ abhinanduṁ. Imasmiñca pana veyyā karaṇasmiṁ bhaññamāne pañc-avaggiyānaṁ bhikkhūnaṁ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṁsūti.
"Đức
Thế Tôn dạy như vậy.
Hoan hỷ, Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu lấy làm
thích thú lắng nghe những lời dạy của
Đức Thế Tôn. Lại nữa, trong lúc nghe
thuyết giảng (hoặc chỉ vào đoạn cuối của bài giảng) tâm của Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu
giải thoát ra khỏi mọi
luyến ái và
ô nhiễm."
Trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, Đức Koṇḍañña (
Kiều Trần Như) đã
đắc Quả Nhập Lưu vào canh đầu đêm trăng tròn tháng Bảy DL. trong khi nghe thời Pháp
Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana Sutta). Chắc Ngài vẫn
tiếp tục quán niệm, nhưng không tiến được đến mức
chứng ngộ Đạo Quả A La Hán, mãi
cho đến khi
nghe được thời
giảng bài kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng. Đức Vappa
đắc Quả Nhập Lưu trong ngày đầu,
hạ tuần tháng Bảy DL., Đức Bhaddiya trong ngày thứ nhì, Đức Mahānāma trong ngày thứ ba và Đức Assaji trong ngày thứ tư. Tất cả năm vị đều là bậc
Nhập Lưu khi nghe kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng, nầy đã
quán chiếu và
suy gẫm về
ngũ uẩn, thấy rằng "Đây không phải của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi"; rằng nó là
vô thường, khổ và
vô ngã. Các Ngài
tuần tự đắc ba tầng tuệ cao hơn, tuệ nầy rồi đến tuệ khác, và tất cả năm vị đều
trở thành A La Hán. Theo Bản
Chú Giải của sách Paṭisambhidā, các Ngài chỉ
đắc Đạo Quả
A La Hán vào lúc nghe phần
cuối cùng của bài giảng bằng cách suy niệm về lời dạy.
Lúc bấy giờ, cách nay 2,552 năm, tính
lui lại từ năm 1963. Năm ấy, vào ngày thứ năm
hạ tuần tháng Bảy D.L. sau thời giảng về kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng, trên
thế gian chỉ
xuất hiện sáu vị A La Hán, năm trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu và
Đức Thế Tôn. Đây
quả thật là một nguồn gợi cảm
vô cùng thích thú nếu ta
hình dung quang cảnh vườn Lộc Giả gần Vārānasī, nơi đó
Đức Thế Tôn mở lời
thuyết giảng kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng, trước Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đang chăm chú lắng tai nghe, và
thành tựu Đạo Quả A La Hán,
chấm dứt mọi
ô nhiễm.
Chúng ta hãy
hình dung quang cảnh nầy.
Hết Lòng Thành Kính Đảnh Lễ Sáu Vị A La HánHai ngàn năm trăm năm mươi hai năm trước, vào ngày thứ năm
hạ tuần tháng Bảy DL.
Đức Thế Tôn thuyết giảng thời Pháp về kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng, cho Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu. Lắng tai nghe thời Pháp và
suy gẫm về lời
giáo huấn, tất cả năm vị đều
giải thoát ra khỏi mọi
ô nhiễm,
chứng ngộ Đạo Quả A La Hán. Chúng con xin chắp hai tay lên trán,
thành tâm kỉnh mộ
đảnh lễ bậc
Toàn Giác và Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, là
sáu vị A La Hán đầu tiên vào thời
buổi sơ khai của
Phật Giáo,
hoàn toàn giải thoát khỏi mọi
ô nhiễm.
Kết LuậnƯớc mong tất cả quý vị
độc giả, do
tâm thành kính chăm chú lắng nghe bài giảng về kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng,
chuyên cần quán chiếu năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đúng theo lời dạy,
ghi nhận ngay khoảnh khắc mà nó khởi sanh,
nhận thức rằng "đây không phải của tôi, không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi," và
hiểu biết đúng rằng nó không ngừng
sanh diệt, rằng nó là
vô thường, khổ,
vô ngã, và do đó sớm sủa
thành tựu Niết Bàn,
chấm dứt mọi
đau khổ qua Đạo và Quả.
Lành thay! Lành thay! Lành thay!