Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991
1. Kinh Phạm Võng
(Brahmajàla sutta)
Tụng phẩm thứ nhất
1.
Như vầy tôi nghe. Một thời,
Thế Tôn đang đi trên
con đường giữa Ràjagaha (
Vương Xá) và Nalandà, cùng với
đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Lúc bấy giờ có Suppiya du sĩ
ngoại đạo cũng đi trên
con đường giữa Ràjagaha và Nalandà cùng với
đệ tử, thanh niên Brahmadatta. Suppiya, du sĩ
ngoại đạo dùng
vô số phương tiện hủy
báng Phật, hủy
báng Pháp, hủy báng Tăng, còn
đệ tử của du sĩ
ngoại đạo Suppiya, thanh niên Brahmadatta, lại dùng
vô số phương tiện tán thán Phật,
tán thán Pháp,
tán thán Tăng. Như vậy cả hai thầy trò nói những lời
hoàn toàn tương phản nhau trong khi đi sau lưng
đức Phật và chúng Tỷ-kheo.
2. Rồi
Thế Tôn đến nghỉ một đêm tại Ambalatthikà, nhà nghỉ mát của vua, cùng với chúng Tỷ-kheo. Suppiya, du sĩ
ngoại đạo cũng đến nghỉ một đêm tại Ambalatthikà, nhà nghỉ mát của vua, cùng với
đệ tử, thanh niên Brahmadatta. Tại đây, du sĩ
ngoại đạo Suppiya cũng dùng
vô số phương tiện hủy
báng Phật, hủy
báng Pháp, hủy báng Tăng, còn người
đệ tử của du sĩ
ngoại đạo Suppiya, thanh niên Brahmadatta, lại dùng
vô số phương tiện tán thán Phật,
tán thán Pháp,
tán thán Tăng. Như vậy cả hai thầy trò nói những lời tương phản nhau trong khi đi sau lưng
Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
3. Và khi đêm vừa mới tàn, một số lớn
chư Tăng, sau khi
thức dậy, đã ngồi họp tại một gian nhà hình tròn và
câu chuyện sau đây được bàn đến giữa
chư Tăng.
- Này các
Hiền giả, thật
kỳ diệu thay! Này các
Hiền giả, thật
hy hữu thay!
Thế Tôn, đấng
Toàn Tri, Toàn Kiến, đấng A-la-hán, bậc
Chánh Đẳng Giác, đã thấu hiểu sự
xu hướng sai khác của
chúng sanh. Suppiya, kẻ du sĩ
ngoại đạo này dùng
vô số phương tiện hủy
báng Phật, hủy
báng Pháp, hủy báng Tăng. Còn
đệ tử du sĩ
ngoại đạo Suppiya, thanh niên Brahmadatta lại dùng
vô số phương tiện,
tán thán Phật,
tán thán Pháp,
tán thán Tăng. Như vậy cả hai thầy trò đã nói những lời
hoàn toàn tương phản trong khi đi sau lưng
Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
4. Lúc bấy giờ
Thế Tôn được biết
câu chuyện đang bàn giữa
chư Tăng, liền đến tại gian nhà hình tròn và ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi xuống,
Thế Tôn nói với các vị Tỷ-Kheo :
- Này các Tỷ-kheo,
câu chuyện gì được bàn đến trong khi các ngươi ngồi họp tại chỗ này?
Vấn đề gì đã được bỏ dở chưa nói xong?
Nghe nói như vậy, các Tỷ-kheo bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn! Tại đây, khi đêm vừa mới tàn, chúng con sau khi dậy, ngồi họp tại nơi gian nhà hình tròn và giữa chúng con,
câu chuyện sau đây được bàn đến: "Này các
Hiền giả, thật
kỳ diệu thay! Này các
Hiền giả, thật
hy hữu thay!
Thế Tôn, đấng
Toàn Tri, Toàn Kiến, đấng A-la-hán, bậc
Chánh Đẳng Giác, đã thấu hiểu sự
xu hướng sai khác của
chúng sanh. Suppiya, kẻ du sĩ
ngoại đạo này dùng
vô số phương tiện hủy
báng Phật, hủy
báng Pháp, hủy báng Tăng. Còn
đệ tử du sĩ
ngoại đạo Suppiya, thanh niên Brahmadatta lại dùng
vô số phương tiện,
tán thán Phật,
tán thán Pháp,
tán thán Tăng. Như vậy cả hai thầy trò đã nói những lời
hoàn toàn tương phản trong khi đi sau lưng
Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo". Bạch
Thế Tôn, đó là
câu chuyện đang bàn đến nửa chừng của chúng con khi
Thế Tôn đến!
5. - Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy
báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi chớ có
vì vậy sanh lòng
công phẫn, tức tối, tâm sanh
phiền muộn. Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy
báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi sanh lòng
công phẫn, tức tối, tâm sanh
phiền muộn, thời như vậy sẽ có hại cho các ngươi. Nếu có người hủy báng Ta, hủy
báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi
công phẫn và
phiền muộn, thời các ngươi có thể biết được
lời nói của những kẻ ấy là đúng hay
sai lạc chăng?
- Bạch
Thế Tôn, không thể được!
- Này các Tỷ-kheo, khi có người hủy báng Ta, hủy
báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi phải nói rõ những điểm không đúng
sự thật là không đúng
sự thật: - "Như thế này, điểm này không đúng
sự thật; như thế này, điểm này không
chính xác; việc này không có giữa
chúng tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi".
6. Này các Tỷ-kheo, nếu có người
tán thán Ta,
tán thán Pháp, hay
tán thán Tăng, thời các ngươi không nên
hoan hỷ,
vui mừng,
tâm không nên
thích thú. Này các Tỷ-kheo, nếu có người
tán thán ta,
tán thán Pháp hay
tán thán Tăng, mà nếu các ngươi
hoan hỷ,
vui mừng và
thích thú thời sẽ có hại cho các ngươi. Này các Tỷ-kheo, nếu có người
tán thán Ta,
tán thán Pháp hay
tán thán Tăng, thời các ngươi hãy
công nhận những gì đúng
sự thật là đúng
sự thật: "Như thế này, điểm này đúng
sự thật, như thế này, điểm này
chính xác, việc này có giữa
chúng tôi, việc này đã xảy ra giữa chúng tôi".
7. Này các Tỷ-kheo, thật chỉ thuộc các
vấn đề không quan trọng, nhỏ nhặt, chỉ thuộc
giới luật mà kẻ
phàm phu tán thán Như Lai. Này các Tỷ-kheo, thế nào là những
vấn đề không quan trọng, nhỏ nhặt, chỉ thuộc
giới luật mà kẻ
phàm phu tán thán Như Lai?
(
Tiểu Giới)
8. Sa-môn Gotama
từ bỏ sát sanh, tránh xa
sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết
tàm quý, có
lòng từ, sống
thương xót đến
hạnh phúc của tất cả
chúng sanh và loài
hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời
tán thán Như Lai của kẻ
phàm phu.
Sa-môn Gotama
từ bỏ lấy của không cho, tránh xa sự lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống
thanh tịnh không có trộm cướp. - Này các Tỷ-kheo, đó là những lời
tán thán Như Lai của kẻ
phàm phu.
Sa-môn Gotama
từ bỏ tà hạnh, tịnh tu
phạm hạnh, sống
giải thoát,
từ bỏ dâm dục hèn hạ. Này các Tỷ-kheo, đó là những lời
tán thán Như Lai của kẻ
phàm phu.
9. Sa-môn Gotama
từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời
chân thật,
y chỉ nơi
sự thật,
chắc chắn,
đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại
lời hứa đối với đời. Này các Tỷ-kheo, đó là những lời
tán thán Như Lai của kẻ
phàm phu.
Sa-môn Gotama
từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi; nghe điều gì ở chỗ này, không đi nói đến chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người nầy; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy Sa-môn Gotama sống
hòa hợp những kẻ
ly gián,
tăng trưởng những kẻ đã
hòa hợp,
hoan hỷ trong
hòa hợp, nói những lời đưa đến
hòa hợp. Này các Tỷ-kheo, đó là những lời
tán thán Như Lai của kẻ
phàm phu.
Này các Tỷ-kheo, Sa-môn Gotama
từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa
lời nói độc ác, những
lời nói không
lỗi lầm, đẹp tai,
dễ thương,
thông cảm đến tâm, tao nhã,
đẹp lòng nhiều người,
vui lòng nhiều người, Sa-môn Gotama nói những lời như vậy. Này các Tỷ-kheo, đó là những lời
tán thán Như Lai của kẻ
phàm phu.
Này các Tỷ-kheo, Sa-môn Gotama
từ bỏ lời nói ỷ ngữ, tránh xa
lời nói ỷ ngữ,
nói đúng thời, nói những lời
chân thật, nói những lời có
ý nghĩa, nói những lời về
Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được
gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc
hệ thống, có
ích lợi. - Này các Tỷ-kheo, đó là những lời
tán thán Như Lai của kẻ
phàm phu.
10. Sa-môn Gotama không làm hại đến các
hạt giống và
các loại cây cỏ; Sa-môn Gotama dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm,
từ bỏ không ăn ban đêm,
từ bỏ không ăn
phi thời. Sa-môn Gotama
từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, diễn kịch. Sa-môn Gotama
từ bỏ không trang sức bằng
vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Sa-môn Gotama
từ bỏ không dùng giường cao và giường lớn. Sa-môn Gotama
từ bỏ không nhận vàng và bạc. Sa-môn Gotama
từ bỏ không nhận các
hạt giống. Sa-môn Gotama
từ bỏ không nhận thịt sống. Sa-môn Gotama
từ bỏ không nhận đàn bà, con gái. Sa-môn Gotama
từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai. Sa-môn Gotama
từ bỏ không nhận cừu và dê. Sa-môn Gotama
từ bỏ không nhận
gia cầm và heo. Sa-môn Gotama
từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái. Sa-môn Gotama
từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai. Sa-môn Gotama
từ bỏ không phái người
môi giới hoặc tự mình làm
môi giới. Sa-môn Gotama
từ bỏ không buôn bán. Sa-môn Gotama
từ bỏ các sự
gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường. Sa-môn Gotama
từ bỏ các
tà hạnh, như hối lộ,
gian trá,
lừa đảo. Sa-môn Gotama
từ bỏ không làm
thương tổn,
sát hại,
câu thúc, bức đoạt,
trộm cắp, cướp phá. - Này các Tỷ-kheo, đó là những lời
tán thán Như Lai của kẻ
phàm phu.
(Trung Giới)
11. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn sống làm hại các
hạt giống và cây cối. Như các
hạt giống từ rễ sanh,
hạt giống từ ngành cây sanh,
hạt giống từ đất sanh,
hạt giống từ chiết cây sanh và thứ năm là
hạt giống từ
hạt giống sanh. Còn Sa-môn Gotama thì không làm hại hột giống hay cây cối nào. - Này các Tỷ-kheo, như vậy người
phàm phu tán thán Như Lai.
12. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn sống cất chứa và
thọ hưởng các đồ vật. Như cất chứa các món ăn, cất chứa các đồ uống, cất chứa vải, cất chứa xe cộ, cất chứa các đồ nằm, cất chứa các hương liệu, cất chứa các mỹ vị. Còn Sa-môn Gotama thì
từ bỏ không cất chứa các vật trên. - Này các Tỷ-kheo, như vậy người
phàm phu tán thán Như Lai.
13. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn sống theo các du hí không chân chánh như múa, hát, nhạc, kịch,
ngâm vịnh, nhịp tay,
tụng chú, đánh trống, diễn các tuồng
thần tiên, mãi võ, đấu voi, đấu ngựa, đấu trâu, đấu bò đực, đấu dê, đấu cừu, đấu gà, đấu chim cun cút, đấu gậy, đấu quyền, đấu vật, đánh
giặc giả, dàn trận,
thao dượt, diễn binh. Còn Sa-môn Gotama thì
từ bỏ các loại du hí không chân chánh như trên. - Này các Tỷ-kheo, như vậy người
phàm phu tán thán Như Lai.
14. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn sống đánh bài và theo các trò
giải trí như cờ tám hình vuông, cờ mười hình vuông, cờ trên không, trò chơi trên đất, chỉ bước vào những ô có quyền bước, trò chơi quăng thẻ rồi chụp nhưng không cho sụp đống thẻ, chơi súc sắc, chơi khăng, lấy tay làm viết, chơi banh, chơi thổi kèn bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ, chơi đoán
chữ viết thiếu trên không hay trên lưng, chơi đoán
tư tưởng, chơi bắt chước bộ điệu. Còn Sa-môn Gotama thì
từ bỏ đánh bài và
các loại giải trí như trên. - Này các Tỷ-kheo, như vậy người
phàm phu tán thán Như Lai.
15. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, cũng vẫn sống dùng các giường cao và giường lớn như ghế bành, ghế dài, nệm trải giường bằng len, vải trải giường nhiều tấm nhiều màu, chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm bông, nệm thêu hình các con thú, mền bằng lông thú cả hai phía, mền bằng lông thú một phía, mền có đính ngọc, mền bằng lụa, tấm thảm lớn có thể chứa mười sáu người múa, nệm voi, nệm ngựa, nệm xe, nệm bằng da sơn dương khâu lại
với nhau, nệm bằng da con sơn dương gọi là kadali, tấm khảm với lầu che phía trên, ghế dài có đầu gối chân màu đỏ. Còn Sa-môn Gotama thì
từ bỏ không dùng các giường cao và giường lớn như trên. - Này các Tỷ-kheo, như vậy người
phàm phu tán thán Như Lai.
16. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, cũng vẫn sống dùng các đồ trang sức và mỹ phẩm. Như thoa dầu, đấm bóp, tắm, đập tay chân cho
mềm dẻo, gương, kem đánh mặt,
vòng hoa và phấn son, phấn mặt, sáp mặt, vòng tay, tóc giả trên đầu, gậy cầm tay, ống thuốc, gươm, lọng, dép thêu, khăn đầu, ngọc,
phất trần, vải trắng có viền tua dài. Còn Sa-môn Gotama thì
từ bỏ không dùng
các loại trang sức và mỹ phẩm như trên. Này các Tỷ-kheo, như vậy người
phàm phu tán thán Như Lai.
17. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn sống nói những
câu chuyện vô ích, tầm thường như
câu chuyện về vua chúa,
câu chuyện về
ăn trộm,
câu chuyện về đại thần,
câu chuyện về binh lính, các
câu chuyện hãi hùng,
câu chuyện về chiến tranh,
câu chuyện về đồ ăn,
câu chuyện về đồ uống,
câu chuyện về vải mặc,
câu chuyện về giường nằm,
câu chuyện về
vòng hoa,
câu chuyện về hương liệu,
câu chuyện về
bà con,
câu chuyện về xe cộ,
câu chuyện về làng xóm,
câu chuyện về thị tứ,
câu chuyện về thành phố,
câu chuyện về
quốc độ,
câu chuyện về đàn bà,
câu chuyện về đàn ông,
câu chuyện về vị
anh hùng,
câu chuyện bên lề đường,
câu chuyện tại chỗ lấy nước,
câu chuyện về người đã chết, các
câu chuyện tạp thoại,
câu chuyện về
hiện trạng của
thế giới,
hiện trạng của
đại dương,
câu chuyện về sự
hiện hữu và sự không
hiện hữu. Còn Sa-môn Gotama
từ bỏ không nói những
câu chuyện vô ích, tầm thường kể trên. - Này các Tỷ-kheo, như vậy người
phàm phu tán thán Như Lai.
18. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn sống
bàn luận tranh chấp, như nói: "Ngươi không biết pháp và luật này, tôi biết pháp và luật này. Sao ngươi có thể biết pháp và luật này? Ngươi đã phạm vào
tà kiến, tôi mới thật đúng
chánh kiến;
lời nói của tôi mới
tương ưng,
lời nói của ngươi không
tương ưng;
lời nói của ngươi không
tương ưng, những điều đáng
nói trước ngươi lại nói sau, những điều đáng nói sau ngươi lại
nói trước, chủ kiến của ngươi đã bị
bài bác; câu nói của ngươi đã bị thách đấu; ngươi đã bị thuyết bại. Hãy đến mà giải vây
lời nói ấy;
nếu có thể được, gắng thoát ra khỏi lối bí". Còn Sa-môn Gotama thì
từ bỏ những cuộc
biện luận tranh chấp đã kể trên. - Này các Tỷ-kheo, như vậy người
phàm phu tán thán Như Lai.
19. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn sống cho đưa các
tin tức, hoặc tự đứng làm
môi giới, như cho các vua, cho các đại thần của vua, cho các vị Sát-đế-lỵ, cho các vị Bà-la-môn, cho các
gia chủ, cho các thanh niên và nói rằng: "Hãy đi đến chỗ ấy, hãy đi lại chỗ kia; mang cái này lại, đem cái này đến chỗ kia". Còn Sa-môn Gotama thì
từ bỏ không cho đưa các
tin tức và tự đứng làm
môi giới. Như vậy kẻ
phàm phu tán thán Như Lai.
20. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn sống
lừa đảo, nói lời siểm nịnh, gợi ý, dèm pha, lấy lợi
cầu lợi. Còn Sa-môn Gotama thì
từ bỏ không
lừa đảo và siểm nịnh như trên. Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ
phàm phu tán thán Như Lai.
(
Đại Giới)
21. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những
tà hạnh như xem tướng tay chân, chiêm tướng, triệu tướng,
mộng tướng,
thân tướng, dấu chuột cắn, tế lửa, tế muỗng, dùng miệng phun hột cải v.v... vào lửa, tế vỏ lúa, tế tấm, tế gạo, tế thục tô, tế dầu, tế máu, khoa xem
chi tiết, khoa xem địa lý, khoa xem mộng, khoa cầu thần
ban phước, khoa cầu
ma quỷ, khoa dùng bùa chú khi ở trong nhà bằng đất, khoa rắn, khoa thuốc độc, khoa bọ cạp, khoa chim, khoa chim quạ, khoa đoán số mạng, khoa ngừa tên bắn, khoa biết tiếng nói của chim. Còn Sa-môn Gotama thì tránh xa những
tà hạnh kể trên. - Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ
phàm phu tán thán Như Lai.
22. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn nuôi sống mình bằng những
tà mạng như
xem tướng các hòn ngọc, tướng que gậy, tướng áo quần, tướng gươm kiếm, tướng mũi tên, tướng cây cung, tướng võ khí, tướng đàn bà, tướng đàn ông, tướng
thiếu niên, tướng
thiếu nữ, tướng đầy tớ nam, tường đầy tớ nữ, tướng voi, tướng ngựa, tướng trâu, tướng bò đực, tướng bò cái, tướng dê, tướng cừu, tướng
gia cầm, tướng chim cun cút, tướng con cắc kè, tướng vật tai dài, tướng ma, tướng
thú vật. Còn Sa-môn Gotama thì
từ bỏ những
tà mạng kể trên.
- Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ
phàm phu tán thán Như Lai.
23. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những
tà mạng như
đoán trước: Vua sẽ tiến quân, vua sẽ lui quân; vua bản xứ sẽ tấn công, vua ngoại bang sẽ triệt thối; vua ngoại bang sẽ tấn công, vua bản xứ sẽ triệt thối; vua bản xứ sẽ thắng trận, vua ngoại bang sẽ bại trận; vua ngoại bang sẽ thắng trận, vua bản xứ sẽ bại trận. Như vậy sẽ có sự thắng trận cho phe bên này, sẽ có sự thất bại cho phe bên kia. Còn Sa-môn Gotama thì
từ bỏ những
tà mạng kể trên.
- Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ
phàm phu tán thán Như Lai.
24. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những
tà mạng như
đoán trước sẽ có nguyệt thực, sẽ có nhựt thực, sẽ có tinh thực;
mặt trăng,
mặt trời sẽ đi đúng
chánh đạo,
mặt trăng,
mặt trời sẽ đi ngoài
chánh đạo, các
tinh tú sẽ đi đúng
chánh đạo, các
tinh tú sẽ đi ngoài
chánh đạo, sẽ có
sao băng, sẽ có lửa cháy các
phương hướng, sẽ có động đất, sẽ có sấm trời,
mặt trăng,
mặt trời, các sao sẽ mọc, sẽ lặn, sẽ mờ, sẽ sáng, nguyệt thực sẽ có kết quả như thế này, nhựt thực sẽ có kết quả như thế này, tinh thực sẽ có kết quả như thế này,
mặt trăng mặt trời đi đúng
chánh đạo sẽ có kết quả như thế này,
mặt trăng mặt trời đi ngoài
chánh đạo sẽ có kết quả như thế này, các
tinh tú đi đúng
chánh đạo sẽ có kết quả như thế này,
sao băng sẽ có kết quả như thế này, lửa cháy các
phương hướng sẽ có kết quả như thế này, động đất sẽ có những kết quả như thế này, sấm trời sẽ có kết quả như thế này,
mặt trăng,
mặt trời, các sao mọc, lặn, mờ, sáng, sẽ có kết quả như thế này. Còn Sa-môn Gotama thì tránh xa, không tự nuôi sống bằng những
tà mạng kể trên. - Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ
phàm phu tán thán Như Lai.
25. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những
tà mạng như
đoán trước sẽ có nhiều mưa, sẽ có
đại hạn, sẽ được mùa, sẽ
mất mùa, sẽ được
an ổn, sẽ có hiểm họa, sẽ có bịnh, sẽ không có bịnh, hay làm các nghề như đếm trên ngón tay, kế toán, cộng số lớn, làm thư, làm theo thế tình. Còn Sa-môn Gotama tránh xa các
tà hạnh kể trên. - Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ
phàm phu tán thán Như Lai.
26. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn
tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những
tà mạng. Như
sắp đặt ngày lành để rước dâu hay rể, lựa ngày giờ tốt để
hòa giải, lựa ngày giờ tốt để chia rẽ, lựa ngày giờ tốt để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt để mượn hay tiêu tiền, dùng bùa chú để giúp người được
may mắn, dùng bùa chú để khiến người bị
rủi ro, dùng bùa chú để
phá thai, dùng bùa chú làm cóng lưỡi, dùng bùa chú khiến quai hàm không
cử động, dùng bùa chú khiến cho người phải bỏ tay xuống, dùng bùa chú khiến cho tai bị điếc, hỏi gương soi, hỏi phù đồng,
thiếu nữ, hỏi
thiên thần để biết
họa phước, thờ
mặt trời, thờ
đại địa, phun ra lửa, cầu Siri
thần tài. Còn Sa-môn Gotama tránh xa các
tà mạng kể trên. - Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ
phàm phu tán thán Như Lai.
27. Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn, dầu đã dùng các món ăn do
tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những
tà mạng như dùng các
ảo thuật để được
yên ổn, để khỏi làm các điều đã hứa, để được
che chở khi ở trong nhà đất, để dương được thịnh, để làm người liệt dương, để tìm đất tốt làm nhà, để cầu phước cho nhà mới, lễ rửa miệng, lễ
hy sinh, làm cho mửa, làm cho xổ, bài tiết các nhơ bẩn về phía trên, bài tiết các nhơ bẩn về phía dưới, tẩy tịnh trong đầu, thoa dầu trong tai, nhỏ thuốc mắt, cho thuốc qua lỗ mũi, xức thuốc mắt, thoa dầu cho mắt, chữa bịnh đau mắt, làm thầy thuốc mổ xẻ, chữa bịnh cho con nít, cho uống thuốc làm bằng
các loại rễ cây,
ngăn ngừa công hiệu của thuốc. Còn Sa-môn Gotama tránh xa các
tà mạng kể trên. - Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ
phàm phu tán thán Như Lai.
Này các Tỷ-kheo, đấy là những
vấn đề không quan trọng, nhỏ nhặt, chỉ thuộc
giới luật mà kẻ
phàm phu dùng để
tán thán Như Lai.
28. Này các Tỷ-kheo, lại có những pháp khác, sâu kín, khó thấu, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị chỉ những người trí mới nhận hiểu. Những pháp ấy
Như Lai đã
tự chứng tri,
giác ngộ và
tuyên thuyết. Và chính những pháp ấy những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, không thể nhận hiểu bởi luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người trí mới có thể nhận hiểu. Những pháp ấy
Như Lai đã
tự chứng tri,
giác ngộ và
tuyên thuyết, và chính những pháp ấy những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến?
(62 loại
Tà kiến)
29. Này các Tỷ-kheo có những Sa-môn, Bà-la-môn,
luận bàn về
quá khứ tối sơ,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ,
y cứ về
quá khứ tối sơ,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác, với mười tám luận chấp. Và
y chỉ theo gì, căn
cứ theo gì, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy
luận bàn về phía
quá khứ tối sơ,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ,
y cứ về
quá khứ tối sơ,
đề xướng ra nhiều
sở kiến sai khác với mười tám luận chấp?
30. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp rằng: "Bản ngã về
thế giới là thường còn" với bốn luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn với bốn luận chấp?
31. Này các Tỷ-kheo, nhờ nhiệt tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định; khi tâm
nhập định, vị ấy nhớ được nhiều
đời sống quá khứ, như
một đời, hai đời,
ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời,
vô số trăm đời,
vô số ngàn đời,
vô số trăm ngàn đời, nhớ rằng: Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này,
lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại được sanh đến chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống tên như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này,
lạc thọ,
khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ kia chết đi tôi được sanh tại chỗ này". Như vậy người ấy nhớ nhiều đời
quá khứ, với những
đặc điểm và những
chi tiết. Người ấy nói rằng: "Bản ngã và
thế giới là thường trú,
bất sanh,
vững chắc như đảnh núi, như trụ đá; còn những loại
hữu tình kia thời
lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú. Tại sao vậy? Vì rằng tôi do nhờ nhiệt tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm... còn những loại
hữu tình kia thì
lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú".
Này các Tỷ-kheo đó là
lập trường thứ nhất,
y chỉ theo đó, căn
cứ theo đó, một số những vị Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, và chấp rằng
bản ngã và
thế giới là thường còn.
32.
Trường hợp thứ hai, có những Sa-môn, Bà-la-môn
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và chấp rằng
bản ngã và
thế giới là thường còn?
Này các Tỷ-kheo, ở đời này có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định, khi tâm
nhập định, vị ấy nhớ được nhiều
đời sống quá khứ, như một
thành kiếp hoại kiếp, hai
thành kiếp hoại kiếp, ba
thành kiếp hoại kiếp, mười
thành kiếp hoại kiếp; nhớ rằng: "Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này,
lạc thọ khổ thọ như thế này... còn những loại
hữu tình kia
lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú".
Này các Tỷ-kheo, đó là
lập trường thứ hai,
y chỉ theo đó, căn
cứ theo đó, một số những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận và chấp rằng,
bản ngã và
thế giới thường còn.
33.
Trường hợp thứ ba, những Sa-môn hay Bà-la-môn,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và cho rừng
bản ngã và
thế giới là thường còn?
Này các Tỷ-kheo, ở đời này có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, vị ấy nhớ được nhiều
đời sống quá khứ, như mười
thành kiếp hoại kiếp, hai mươi
thành kiếp hoại kiếp, ba mươi
thành kiếp hoại kiếp, bốn mươi
thành kiếp hoại kiếp, năm mươi
thành kiếp hoại kiếp; nhớ rằng: "Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy, chết đi, tôi lại được sanh đến chỗ kia. Từ chỗ ấy, chết đi, tôi lại được sanh đến chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,
giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này,
lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ kia chết đi, tôi được sanh tại chỗ này". Như vậy người ấy nhớ nhiều đời
quá khứ với những
đặc điểm và những
chi tiết. Người ấy nói: "Bản ngã và
thế giới là thường trú,
bất sanh,
vững chắc như đảnh núi, như trụ đá; còn những loại
hữu tình kia thì
lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy, chúng vẫn thường trú. Tại sao vậy? Vì rằng tôi nhờ nhiệt tâm... nên tâm
nhập định như vậy. Khi tâm
nhập định như vậy, tôi nhớ được nhiều
đời sống quá khứ, như mười
thành kiếp,
hoại kiếp... bốn mươi
thành kiếp hoại kiếp". Nhớ rằng: "Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi sống với tên như thế này... tôi được sanh tại chỗ này". Như vậy người ấy nhớ nhiều đời
quá khứ với những với những
đặc điểm và những
chi tiết. Người ấy nói: "Bản ngã và
thế giới là thường trú,
bất sanh,
vững chắc như đảnh núi, trụ đá... còn những loại
hữu tình kia thì
lưu chuyển,
luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú".
Này các Tỷ-kheo, đó là
lập trường thứ ba,
y chỉ theo đó, căn
cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp
bản ngã và
thế giới thường còn.
34.
Trường hợp thứ tư, những Sa-môn, Bà-la-môn
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và chấp
bản ngã và
thế giới thường còn?
Này các Tỷ-kheo, ở đời có Sa-môn hay Bà-la-môn, là nhà
suy luận, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ của
suy luận, và sự
tùy thuận theo thẩm sát, vị này
tuyên bố như thế này: "Bản ngã và
thế giới là thường trú,
bất sanh,
vững chắc như đảnh núi, như trụ đá, còn những loại
hữu tình kia thời
lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường còn".
Này các Tỷ-kheo, đó là
lập trường thứ tư,
y chỉ theo đó, căn
cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn.
35. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này, chủ trương Thường trú luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn, với bốn luận chấp. Nếu có những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương Thường trú luận, chấp rằng: "Bản ngã và
thế giới là thường còn", chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,
ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
36. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai tuệ tri như thế này: "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy,
chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những định mạng như vậy".
Như Lai biết như vậy, Ngài lại biết hơn thế nữa, và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp trước
sở tri ấy,
nội tâm chứng được
tịch tịnh. Ngài
như thật biết sự
tập khởi, sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ biết vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có
chấp thủ.
37. Những
chấp pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể
phân biệt. Những pháp ấy,
Như Lai đã thắng tri,
giác ngộ và
tuyên thuyết; và chính những pháp ấy, những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
Tụng phẩm thứ hai
1. Này các Tỷ-kheo, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn đối với một hạng
hữu tình và
vô thường đối với một hạng
hữu tình khác, với bốn luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn ấy,
y chỉ gì, căn cứ gì chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn đối với một hạng
hữu tình và
vô thường đối với một hạng
hữu tình khác, với bốn luận chấp?
2. Này các Tỷ-kheo, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một
thời hạn rất lâu,
thế giới này chuyển hoại. Trong khi
thế giới chuyển hoại,
các loại hữu tình phần lớn sanh qua cõi Abhassara (
Quang Âm thiên). Ở tại đấy, những loại
chúng sanh này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu
hào quang,
phi hành trên
hư không, sống trong sự
quang vinh, và sống như vậy một
thời gian khá dài.
3. Này các Tỷ-kheo, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một
thời hạn rất lâu,
thế giới này chuyển thành. Trong khi
thế giới này chuyển thành,
Phạm cung được
hiện ra, nhưng trống không. Lúc bấy giờ, một
hữu tình, hoặc
thọ mạng đã tận, hay
phước báo đã tận,
mạng chung từ Quang Âm thiên, sanh qua
Phạm cung trống rỗng ấy. Vị ấy ở tại đấy, do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu
hào quang,
phi hành trên
hư không, sống trong sự
quang vinh, và sống như vậy trong một
thời gian khá dài.
4. Vị này, tại chỗ ấy, sau khi sống lâu
một mình như vậy, khởi ý chán nản, không
hoan hỷ và có kỳ vọng: "Mong sao có các loài
hữu tình khác, cũng đến tại chỗ này!" Lúc bấy giờ, các loài
hữu tình khác, hoặc
thọ mạng đã tận, hay
phước báo đã tận, bị
mệnh chung và từ
thân Quang Âm thiên, sanh qua
Phạm cung để làm bạn với
vị hữu tình kia. Những loại
hữu tình ở đấy cũng do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu
hào quang,
phi hành trên
hư không, sống trong sự
quang vinh, và sống như vậy, trong một
thời gian khá dài.
5. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo,
vị hữu tình đầu tiên sanh qua nghĩ rằng: "Ta là
Phạm thiên,
Đại Phạm thiên,
Toàn năng,
Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn,
Thượng đế,
Sáng tạo chủ,
Hóa sanh chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng
Tự tại,
Tổ phụ các
chúng sanh đã và sẽ sanh. Những loài
hữu tình ấy do chính ta sanh ra. Tại sao vậy? Vì chính do ta khởi niệm: Mong sao các loài
hữu tình khác cũng đến tại chỗ này - Chính do
sở nguyện của ta mà những loài
hữu tình ấy đến tại chỗ này". Các loài
hữu tình đến sau cũng nghĩ như thế này: "Vị ấy là
Phạm thiên,
Đại Phạm thiên, đấng
Toàn năng,
Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn,
Thượng đế,
Sáng tạo chủ,
Hóa sanh chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng
Tự tại,
Tổ phụ các
chúng sanh đã và sẽ sanh.
Chúng ta do vị
Phạm thiên này
hóa sanh. Vì sao vậy? Vì ta đã thấy vị này sanh trước ở đây rồi. Còn
chúng ta thì sanh sau"
6. Này các Tỷ-kheo,
vị hữu tình sanh ra đầu tiên ấy sống được lâu hơn,
sắc tướng tốt đẹp hơn và được nhiều
uy quyền hơn. Còn các loài
hữu tình sanh sau thì sống ngắn hơn,
sắc tướng ít
tốt đẹp hơn và được ít quyền hơn. Này các Tỷ-kheo,
sự tình này xảy ra. Một trong các loài
hữu tình ấy, sau khi
từ bỏ thân kia lại
thác sanh đến cõi này. Khi đến cõi này, vị ấy
xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Sau khi
xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, vị ấy, nhờ nhiệt tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, vị ấy nhớ tới
đời sống quá khứ ấy, chớ không nhớ
xa hơn đời sống ấy. Vị ấy nói rằng: "Vị kia là
Phạm thiên,
Đại Phạm thiên, đấng
Toàn năng,
Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn,
Thượng đế,
Sáng tạo chủ,
Hóa sanh chủ, Đại tôn, Chúa tể mị định mạng, đấng
Tự Tại,
Tổ phụ các
chúng sanh đã và sẽ sanh.
Chúng ta do vị
Phạm thiên ấy
hóa sanh. Vị ấy là
thường hằng,
kiên cố, thường trú, không bị
chuyển biến, thường trú như vậy
mãi mãi. Còn
chúng ta do vị
Phạm thiên ấy
hóa sanh đến tại chỗ này.
Chúng ta là
vô thường, không
kiên cố, yểu thọ và chịu sự biến dịch".
Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ nhất,
y chỉ theo đó, căn
cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn đối với một hạng
hữu tình và
vô thường đối với một hạng
hữu tình khác.
7.
Trường hợp thứ hai, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn đối với một hạng
hữu tình và
vô thường đối với một hạng
hữu tình khác?
Này các Tỷ-kheo, có những hạng
chư Thiên gọi là Khiddàpadosikà (bị nhiễm hoặc bởi
dục lạc). Những vị này sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu
dục lạc. Vì sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu
dục lạc, nên bị
thất niệm. Do
thất niệm, các
chư Thiên ấy
thác sanh,
từ bỏ thân thể chúng.
8. Này các Tỷ-kheo,
sự tình này xảy ra. Một trong các loài
hữu tình kia khi
thác sanh từ bỏ thân thể ấy, lại sanh đến chỗ này. Khi đến tại chỗ này, vị ấy
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Sau khi
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, vị ấy nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, vị ấy nhớ đến
đời sống quá khứ ấy, chớ không nhớ
xa hơn đời sống ấy.
9. Vị ấy nói rằng: "Những
chư Thiên không bị nhiễm hoặc bởi
dục lạc, chúng sống lâu ngày không mê say trong hý tiếu
dục lạc. Vì sống lâu ngày không mê say trong hý tiếu
dục lạc, nên không bị
thất niệm. Nhờ không
thất niệm, nên những
chư Thiên ấy không
thác sanh từ bỏ thân thể của chúng, sống
thường hằng,
kiên cố, thường trú, không bị
chuyển biến, thường trú như vậy
mãi mãi. Còn
chúng ta đã bị nhiễm hoặc bởi
dục lạc, sống lâu ngày mê say trong hý tiếu
dục lạc. Vì
chúng ta sống lâu ngày mê say trong hý tiếu
dục lạc, nên bị
thất niệm. Do
thất niệm,
chúng ta từ bỏ thân thể này, sống
vô thường, không
kiên cố, yểu thọ, chịu sự
biến dịch và
thác sanh đến tại chỗ này".
Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ hai,
y chỉ theo đó, căn
cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn đối với một hạng
hữu tình, và
vô thường đối với một hạng
hữu tình khác.
10.
Trường hợp thứ ba, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn với một hạng
hữu tình, và
vô thường đối với một hạng
hữu tình khác?
Này các Tỷ-kheo, có những hạng
chư Thiên gọi là Manopadosikà (bị nhiễm hoặc bởi
tâm trí). Chúng sống lâu ngày nung nấu bởi sự
đố kỵ lẫn nhau. Vì sống lâu ngày nung nấu bởi sự
đố kỵ lẫn nhau,
tâm trí của chúng oán ghét lẫn nhau. Vì
tâm trí oán ghét lẫn nhau, nên thân chúng
mệt mỏi, tâm chúng
mệt mỏi. Các hạng
chư Thiên ấy
thác sanh từ bỏ thân thể này của chúng.
11. Này các Tỷ-kheo,
sự tình này xảy ra. Một trong các
vị hữu tình kia, khi
thác sanh từ bỏ thân thể ấy, lại sanh đến cõi này. Khi đến tại chỗ này, vị ấy
xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Sau khi
xuất gia từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, vị ấy nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, vị ấy nhớ đến
đời sống quá khứ ấy, nhưng không nhớ
xa hơn đời sống ấy.
12. Vị ấy nói rằng: "Những vị
chư Thiên không bị nhiễm hoặc bởi
tâm trí, chúng sống lâu ngày không nung nấu bởi sự
đố kỵ lẫn nhau. Vì sống lâu ngày không nung nấu bởi sự
đố kỵ lẫn nhau,
tâm trí của chúng không oán ghét nhau. Vì
tâm trí chúng không oán ghét nhau, nên thân chúng không
mệt mỏi, tâm chúng không
mệt mỏi. Những hàng
chư Thiên ấy không
thác sanh từ bỏ thân thể của chúng, sống
thường hằng kiên cố, thường trú, không bị
chuyển biến, thường trú như vậy mãi mãi". Còn
chúng ta bị nhiễm hoặc bởi
tâm trí, sống lâu ngày nung nấu bởi sự
đố kỵ lẫn nhau, nên
tâm trí chúng ta oán ghét lẫn nhau. Vì
tâm trí chúng ta oán ghét lẫn nhau, nên thân
mệt mỏi và tâm
mệt mỏi.
Chúng ta thác sanh,
từ bỏ thân này, sống
vô thường không
kiên cố, yểu thọ, chịu sự
biến dịch và
thác sanh đến tại chỗ này".
Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ ba,
y chỉ theo đó, căn
cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn đối với một hạng
hữu tình và
vô thường đối với một hạng
hữu tình khác.
13.
Trường hợp thứ tư, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,
y chỉ gì, căn cứ gì chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn đối với một hạng
hữu tình và
vô thường đối với một hạng
hữu tình khác.
Này các Tỷ-kheo, có Sa-môn, hay Bà-la-môn là nhà
suy luận, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ
biện bác của
suy luận và sự
tùy thuộc theo thẩm sát, vị này
tuyên bố như thế này: "Cái gọi là mắt, là tai, là mũi, là lưỡi, là thân, cái
bản ngã ấy
vô thường, không
kiên cố, không thường trú, bị
chuyển biến. Cái gọi là tâm, là ý, là thức, cái
bản ngã ấy là thường còn,
bất biến, thường trú, không bị
chuyển biến,
thường hằng như vậy mãi mãi".
Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ tư,
y chỉ theo đó, căn
cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn đối với một hạng
hữu tình, và
vô thường đối với một hạng
hữu tình khác.
14. Này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn với bốn luận chấp. Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn chủ trương Thường trú luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn, chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,
ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
15. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai biết rằng: "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy,
chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những định mạng như vậy".
Như Lai tuệ tri như vậy, Ngài lại
tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp sở tri ấy,
nội tâm được
tịch tịnh. Ngài
như thật biết sự
tập khởi, sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ biết vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có
chấp thủ.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể
nhận biết. Những pháp ấy, những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
16. Này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hữu biên Vô biên luận, chấp
thế giới là
Hữu biên Vô biên với bốn luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương
Hữu biên Vô biên luận, chấp
thế giới là
hữu biên vô biên với bốn luận chấp?
17. Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, vị ấy sống ở
trong đời với
tư tưởng thế giới là
hữu biên. Vị ấy nói rằng: "Thế giới này là
hữu biên, có một đường vòng chung quanh. Vì sao vậy? Vì tôi, nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, tôi sống với
tư tưởng thế giới là
hữu biên. Do đó tôi biết rằng
thế giới này là
hữu biên, có một đường vòng chung quanh".
Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ nhất,
y chỉ theo đó, căn
cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hữu biên Vô biên luận, chấp
thế giới là
hữu biên và
vô biên.
18.
Trường hợp thứ hai, có những Sa-môn, Bà-la-môn,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương
Hữu biên Vô biên luận, chấp
thế giới là
hữu biên và vô biên?
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn, Bà-la-môn, nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, vị ấy sống ở
trong đời với
tư tưởng thế giới là
vô biên. Vị ấy nói: "Thế giới này là
vô biên, không có giới hạn". Những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Thế giới này là
hữu biên, có một đường vòng xung quanh", những vị ấy nói không đúng
sự thật.
Thế giới này là
vô biên, không có
giới hạn. Tại sao vậy? Vì tôi nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, tôi sống với
tư tưởng thế giới là
vô biên. Do đó tôi biết: "Thế giới này là
vô biên, không có giới hạn".
Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ hai,
y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hữu biên Vô biên luận, chấp
thế giới là
hữu biên vô biên.
19.
Trường hợp thứ ba, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương
Hữu biên Vô biên luận, chấp
thế giới là
hữu biên vô biên?
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, vị ấy sống ở
trong đời với
tư tưởng thế giới là
hữu biên về phía trên, phía dưới và
thế giới là
Vô biên về phía bề ngang. Vị ấy nói: "Thế giới này là
hữu biên và vô biên". Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Thế giới này là
hữu biên, có một đường vòng
xung quanh, thì những vị ấy nói không đúng sự thật". Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Thế giới này là
vô biên không có
giới hạn thì những vị ấy nói không đúng
sự thật.
Thế giới này vừa là
hữu biên, vừa là
vô biên. Tại sao vậy? Vì rằng, tôi nhờ
nhất tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Khi tâm
nhập định, tôi sống ở
trong đời với
tư tưởng,
thế giới là
hữu biên về phía trên, phía dưới, và
thế giới là
vô biên về phía bề ngang. Do vậy tôi biết: "Thế giới này vừa là
hữu biên vừa là vô biên".
Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ ba,
y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hữu biên Vô biên luận, chấp
thế giới là
hữu biên vô biên.
20.
Trường hợp thứ tư, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương
Hữu biên Vô biên luận, chấp
thế giới là
hữu biên vô biên?
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn là nhà
suy luận, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ
biện bác của
suy luận và sự
tùy thuận theo thẩm sát, vị này
tuyên bố như sau: "Thế giới này không phải là
hữu biên, cũng không phải là
vô biên. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Thế giới này là
hữu biên có
giới hạn xung quanh", những vị ấy nói không đúng
sự thật. Lại những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Thế giới này là
vô biên không có giới hạn" những vị ấy cũng nói không đúng
sự thật. Lại những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Thế giới này vừa là
hữu biên vừa là vô biên", những vị ấy cũng nói không đúng
sự thật.
Thế giới này cũng không phải là
hữu biên, cũng không phải là
vô biên.
21. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương
Hữu biên Vô biên luận với bốn luận chấp. Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương
Hữu biên Vô biên luận, chấp
thế giới là
hữu biên vô biên, chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,
ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
22. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai tuệ tri như thế này: "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy,
chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những định mạng như vậy".
Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài lại
tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp trước
sở tri ấy,
nội tâm được
tịch tịnh. Ngài
như thật tuệ tri sự
tập khởi, sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ
tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có
chấp thủ.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người trí mới có thể
nhận biết. Những pháp ấy
Như Lai tự chứng tri,
giác ngộ và
truyền thuyết; và chính những pháp ấy những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
23. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Ngụy biện luận. Khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn ấy,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương
ngụy biện luận, khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp?
24. Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn không
như thật biết "Đây là thiện" không
như thật biết "Đây là bất thiện". Vị ấy nghĩ: Tôi không
như thật biết: "Đây là thiện", không
như thật biết: "Đây là bất thiện" và nếu tôi
trả lời: "Đây là thiện" hoặc tôi
trả lời: "Đây là bất thiện", thời dục, tham, sân hoặc hận, khởi lên nơi tôi . Nếu dục, tham, sân hoặc hận, khởi lên nơi tôi, như vậy tôi có thể bị
sai lầm. Nếu tôi
sai lầm thì tôi bị
phiền muộn. Nếu tôi bị
phiền muộn sẽ thành một
chướng ngại cho tôi - Như vậy, vì sợ
sai lầm, vì
chán ghét sai lầm, nên vị ấy không
trả lời: "Đây là thiện", cũng không
trả lời: "Đây là bất thiện". Khi hỏi đến
vấn đề này hay
vấn đề khác, vị ấy dùng lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn: "Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là
không không phải như thế".
Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ nhất,
y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Ngụy biện luận, khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn.
25.
Trường hợp thứ hai, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,
y chỉ gì, căn cứ gì chủ trương
Ngụy biện luận, khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn?
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, không
như thật biết "Đây là thiện", không
như thật biết "Đây là bất thiện". Vị ấy nghĩ: Tôi không
như thật biết: "Đây là thiện", không
như thật biết: "Đây là bất thiện". Vì tôi không
như thật biết: "Đây là thiện", không
như thật biết "Đây là bất thiện". Và nếu tôi
trả lời: "Đây là thiện" hoặc tôi
trả lời: "Đây là bất thiện", thời dục, tham, sân hoặc hận, khởi lên nơi tôi. Nếu dục, tham, sân hoặc hận khởi lên nơi tôi, như vậy tôi có thể
chấp thủ. Nếu tôi
chấp thủ, thì tôi bị
phiền muộn. Nếu tôi bị
phiền muộn, thời thành một
chướng ngại cho tôi
Như vậy, vì sợ
chấp thủ, vì
chán ghét chấp thủ, nên vị ấy không
trả lời: "Đây là thiện", cũng không
trả lời: "Đây là bất thiện". Khi bị hỏi đến
vấn đề này hay
vấn đề khác, vị ấy dùng lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn: "Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là
không không phải như thế". Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ hai,
y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Ngụy biện luận, khi bị hỏi đến
vấn đề này hay
vấn đề khác, dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn.
26.
Trường hợp thứ ba, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,
y chỉ gì, căn cứ gì chủ trương
ngụy biện luận, khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn?
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn không
như thật biết "Đây là thiện", không
như thật biết "Đây là bất thiện". Vị ấy nghĩ: Tôi không
như thật biết: "Đây là thiện", không
như thật biết: "Đây là bất thiện". Vì tôi không
như thật biết "Đây là thiện", không
như thật biết "Đây là bất thiện" và nếu tôi
trả lời: "Đây là thiện" hoặc
trả lời: "Đây là bất thiện", có những Sa-môn, Bà-la-môn,
bác học,
tế nhị, nghị luận
biện tài,
biện bác như chia chẻ sợi tóc, những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đả phá các
tà kiến với
trí tuệ của chúng, chúng có thể đọ tài, chất vấn và cật nạn tôi. Nếu chúng đọ tài, chất vấn, cật nạn tôi, tôi có
thể không giải đáp được cho chúng. Nếu tôi
không giải đáp được cho chúng, thì tôi bị
phiền muộn. Nếu tôi bị
phiền muộn thời thành một
chướng ngại cho tôi - Như vậy, vì sợ bị
thử thách, vì
chán ghét thử thách, nên vị ấy không
trả lời: "Đây là thiện", cũng không
trả lời. "Đây là bất thiện". Khi bị hỏi đến
vấn đề này hay
vấn đề khác, vị ấy dùng lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn: "Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là
không không phải như thế". - Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ ba,
y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, chủ trương
ngụy biện luận, khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn.
27.
Trường hợp thứ tư, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,
y chỉ gì, căn cứ gì chủ trương
Ngụy biện luận, khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn?
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn, Bà-la-môn
đần độn ngu si. Vị này, vì
đần độn ngu si, khi bị hỏi
vấn đề nay hay
vấn đề khác, liền dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn: "Anh hỏi tôi có
một thế giới khác hay không?" Nếu tôi nghĩ "Có
một thế giới khác", tôi có thể
trả lời với anh: "Có
một thế giới khác". Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là
không không phải như thế. Nếu anh hỏi tôi: "Không có
một thế giới khác phải không?" Nếu tôi nghĩ: "Không có
một thế giới khác", tôi có thể
trả lời với anh: "Không có
một thế giới khác". Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là
không không phải như thế. Nếu anh hỏi tôi "Không có
một thế giới khác phải không?" (... như trên... ) "Cũng có và cũng không có
một thế giới khác?" "Cũng không có và cũng
không không có
một thế giới khác?", "Có loại
hữu tình hóa sanh?", "Không có loại
hữu tình hóa sanh?" "Cũng có và cũng không có loại
hữu tình hóa sanh?" "Cũng không có và cũng
không không có loại
hữu tình hóa sanh?", "Có kết quả
dị thục của các nghiệp thiện và ác?", "Không có kết quả
dị thục của những nghiệp thiện và ác?", "Cũng có và cũng không có kết quả
dị thục của những nghiệp thiện và ác?", "Cũng không có và cũng
không không có kết quả
dị thục của những nghiệp thiện và ác?", "Như Lai có
tồn tại sau khi chết?", "Như Lai không có
tồn tại sau khi chết?", "Như Lai có và không có
tồn tại sau khi chết?", "Như Lai không có và cũng
không không có
tồn tại sau khi chết?". Anh hỏi tôi như vậy. Nếu tôi nghĩ : "Như Lai không có và cũng
không không có
tồn tại sau khi chết". Tôi có thể
trả lời : "Như Lai không có và cũng
không không có
tồn tại sau khi chết". Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là
không không phải như thế.
Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ tư,
y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Ngụy biện luận, khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn.
28. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Ngụy biện luận. Khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác, dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương
Ngụy biện luận, khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn, chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên hay một trong những luận chấp trên,
ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
29. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai tuệ tri như thế này : "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy,
chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những định mạng như vậy".
Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài lại
tuệ tri hơn thế nữa. Và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp trước
sở tri ấy,
nội tâm được
tịch tịnh. Ngài
như thật tuệ tri sự
tập khởi, sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ
tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có
chấp thủ.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể
phân biệt. Những pháp ấy
Như Lai đã
tự chứng tri,
giác ngộ và
truyền thuyết. Và chính những pháp ấy những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
30. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Vô nhân luận, chấp
bản ngã và
thế giới do
vô nhân sanh với hai luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn ấy,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương
Vô nhân luận, chấp
bản ngã và
thế giới do
vô nhân sanh?
31. Này các Tỷ-kheo, có những
chư Thiên gọi là
Vô tưởng hữu tình. Khi một tưởng niệm khởi lên, thời
chư Thiên ấy
thác sanh,
từ bỏ thân
chư Thiên của mình. Này các Tỷ-kheo,
sự tình này xẩy ra. Một trong loài
hữu tình ấy, khi
thác sanh từ bỏ thân
chư Thiên ấy của mình, lại sanh đến cõi này. Khi đến tại chỗ này, vị ấy
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Sau khi
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, vị ấy nhờ nhiệt tâm, nhờ
tinh tấn, nhờ
cần mẫn, nhờ không
phóng dật, nhờ chánh
ức niệm, nên tâm
nhập định. Vị ấy nhớ đến khi tưởng niệm phát sanh, chớ không nhớ
xa hơn nữa. Vị ấy nói : "Bản ngã và
thế giới do
vô nhân sanh. Tại sao vậy? Vì rằng tôi trước kia không có, nay tôi có. Từ nơi
trạng thái không có, tôi
trở thành loài hữu tình".
Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ nhất,
y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Vô nhân luận, chấp
bản ngã và
thế giới do
vô nhân sanh.
32.
Trường hợp thứ hai, những Sa-môn, Bà-la-môn,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương
Vô nhân luận, chấp
bản ngã và
thế giới do
vô nhân sanh?
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn là nhà
biện luận, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ
biện bác của
suy luận và sự
tùy thuận theo thẩm sát, vị ấy
tuyên bố : "Bản ngã và
thế giới vô nhân sanh".
Này các Tỷ-kheo, đó là
trường hợp thứ hai,
y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Vô nhân luận, chấp
bản ngã và
thế giới do
vô nhân sanh.
33. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Vô nhân luận, chấp
bản ngã và
thế giới do
vô nhân sanh với hai luận chấp. Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương
Vô nhân luận, chấp
bản ngã và
thế giới do
vô nhân sanh, chúng sẽ chấp cả hai luận chấp trên hay một trong những luận chấp trên,
ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
34. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai tuệ tri như thế này : "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy,
chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những định mạng như vậy".
Như Lai tuệ tri như vậy, Ngài lại
tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp trước
sở tri ấy,
nội tâm được
tịch tịnh. Ngài
như thật tuệ tri sự
tập khởi, sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ
tuệ tri như vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có
chấp thủ. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể
phân biệt. Những pháp ấy
Như Lai đã
tự chứng tri,
giác ngộ và
tuyên thuyết. Và chính những pháp ấy những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
35. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn
luận bàn về
quá khứ tối sơ,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ,
y cứ về
quá khứ tối sơ,
đề xướng nhiều
ý kiến sai khác với mười tám luận chấp trên. Này các Tỷ-kheo, nếu có những Sa-môn hoặc Bà-la-môn
luận bàn về
quá khứ tối sơ,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ,
y cứ về
quá khứ tối sơ,
đề xướng nhiều
ý kiến sai khác, chúng sẽ chấp cả mười tám luận chấp trên hay một trong những luận chấp trên,
ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
36. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai tuệ tri như thế này : "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy,
chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những định mạng như vậy".
Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài lại
tuệ tri hơn thế nữa. Và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp trước
sở tri ấy,
nội tâm được
tịch tịnh. Ngài
như thật tuệ tri sự
tập khởi, sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ
tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có
chấp thủ.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể
phân biệt. Những pháp ấy
Như Lai đã
tự chứng tri,
giác ngộ và
truyền thuyết. Và chính những pháp ấy, những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
37. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn
luận bàn về tương lai,
chấp kiến về tương lai,
y cứ về tương lai,
đề xướng nhiều
ý kiến sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Và những vị Sa-môn, Bà-la-môn này,
y chỉ gì, căn cứ gì,
luận bàn về tương lai,
chấp kiến về tương lai,
y cứ về tương lai
đề xướng nhiều
ý kiến sai khác với bốn mươi bốn luận chấp?
38. Này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
hữu tưởng sau khi chết, chấp
bản ngã có tưởng
sau khi chết với mười sáu luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương
Hữu tưởng luận sau khi chết, với mười sáu luận chấp?
Những vị này chủ trương : "Bản ngã có sắc, không có bệnh,
sau khi chết có tưởng". Chúng chủ trương : "Bản ngã có sắc và cũng không có sắc ...", "Bản ngã cũng không có sắc và cũng
không không có sắc ...", "Bản ngã là
hữu biên...", "Bản ngã là
vô biên ...", "Bản ngã là
hữu biên và vô biên", "Bản ngã cũng
không hữu biên và cũng
không vô biên ...", "Bản ngã là nhất tưởng ...", "Bản ngã là dị tưởng ...". "Bản ngã là thiểu tưởng ...", "Bản ngã là
vô lượng tưởng ...", "Bản ngã là thuần lạc ...", "Bản ngã là thuần khổ ...", "Bản ngã là khổ lạc". Chúng chủ trương : "Bản ngã là không
khổ không lạc, không có bệnh,
sau khi chết có tưởng".
39. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương
hữu tưởng sau khi chết, chấp
bản ngã có tưởng
sau khi chết với mười sáu luận chấp. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn này chủ trương
Hữu tưởng luận sau khi chết, chúng sẽ chấp cả mười sáu luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,
ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
40. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai tuệ tri như thế này : "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những định mạng như vậy".
Như Lai tuệ tri như vậy, Ngài lại
tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp trước
sơ tri ấy,
nội tâm được
tịch tịnh. Ngài
như thật tuệ tri sự
tập khởi, sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ
tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có
chấp thủ. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể
phân biệt. Những pháp ấy
Như Lai đã
tự chứng tri,
giác ngộ và
truyền thuyết. Và chính những pháp ấy, những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
Tụng phẩm thứ ba
1. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương
Vô tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã không có tưởng
sau khi chết với tám luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương
Vô tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã không có tưởng
sau khi chết với tám luận chấp?
2. Những vị này chủ trương : "Bản ngã có sắc, không có bệnh,
sau khi chết không có tưởng", "Bản
ngã không có sắc ...", "Bản ngã có sắc và cũng không có sắc ...", "Bản
ngã không có sắc và cũng
không không có sắc ...", "Là
hữu biên ...", "Là
vô biên ...", "Là
hữu biên và
vô biên ...". Các vị này chấp
bản ngã là
phi hữu biên và phi
vô biên, không có bệnh,
sau khi chết không có tưởng.
3. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương
Vô tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã không có tưởng
sau khi chết với tám luận chấp. - Này các Tỷ-kheo, nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương
Vô tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã không có tưởng
sau khi chết, chúng sẽ chấp cả tám luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,
ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
4. Này các Tỷ-kheo.
Như Lai tuệ tri như thế này : "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy,
chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những định mạng như vậy".
Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài lại
tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp trước
sở tri ấy,
nội tâm được
tịch tịnh. Ngài
như thật tuệ tri sự
tập khởi, sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ
tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có
chấp thủ.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể
nhận biết. Những pháp ấy
Như Lai tự chứng tri,
giác ngộ và
truyền thuyết; và chính những pháp ấy những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
5. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Phi Hữu tưởng Phi Vô tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã phi hữu tưởng phi
vô tưởng với tám luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương
Phi Hữu tưởng Phi Vô tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã phi hữu tưởng phi
vô tưởng với tám luận chấp?
6. Những vị này chấp: "Bản ngã có sắc, không có bệnh,
sau khi chết phi hữu tưởng phi
vô tưởng... ", "Bản ngã là
vô sắc... ", "Bản ngã có sắc và cũng không có sắc... ", "Bản ngã là
phi hữu sắc và cũng phi
vô sắc... ", "Bản ngã là
hữu biên... ", "Bản ngã là
vô biên... ", "Bản ngã là
hữu biên và
vô biên... ".
7. Những vị này chấp rằng.
Bản ngã là
phi hữu biên và cũng phi
vô biên, không có bệnh,
sau khi chết phi hữu tưởng phi
vô tưởng, với tám luận chấp. Này các Tỷ-kheo, nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào, chủ trương
phi hữu tưởng phi
vô tưởng, chúng sẽ chấp cả tám luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,
ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
8. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai tuệ tri như thế này: "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những định mạng như vậy".
Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài
tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp trước
sở tri ấy,
nội tâm được
tịch tịnh. Ngài
như thật tuệ tri sự
tập khởi, sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ
tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có
chấp thủ. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể
nhận biết. Những pháp ấy
Như Lai tự chứng tri,
giác ngộ và
truyền thuyết; và chính những pháp ấy những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
9. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương
Đoạn diệt luận,
chấp trước sự
đoạn diệt, sự tiêu thất, sự hủy hoại của loài
hữu tình với bảy luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,
y chỉ gì, căn cứ gì,
chấp trước sự
đoạn diệt, sự tiêu thất, sự hủy hoại của loài
hữu tình với bảy luận chấp?
10. Này các Tỷ-kheo, có Sa-môn hoặc Bà-la-môn chủ trương
lý thuyết và
ý kiến: "Vì
bản ngã này có sắc, do
bốn đại hợp thành, do
cha mẹ sanh ra, khi thân hoại bị hủy nát
tiêu diệt,
sau khi chết không còn nữa, nên
bản ngã này như thế
hoàn toàn đoạn diệt". Như vậy một số người chủ trương sự
đoạn diệt, sự tiêu thất và sự hủy hoại của loài
hữu tình.
11. Một vị khác lại nói: "Này ông, thật có
bản ngã như ông nói. Tôi không nói
bản ngã ấy không có, nhưng
bản ngã ấy như thế không bị
hoàn toàn đoạn diệt. Lại còn một
bản ngã khác có thiên tánh, có sắc, thuộc
dục giới, ăn các đồ ăn
đoàn thực.
Bản ngã ấy ông không biết, ông không thấy.
Bản ngã ấy tôi biết, tôi thấy.
Bản ngã ấy khi thân hoại, bị hủy nát
tiêu diệt,
sau khi chết không còn nữa, nên
bản ngã ấy như thế
hoàn toàn đoạn diệt". Như vậy có một số người chủ trương sự
đoạn diệt, tiêu thất và hủy hoại của loài
hữu tình.
12. Một vị khác lại nói: "Này ông, thật có
bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói
bản ngã ấy không có. Nhưng
bản ngã ấy như thế không bị
hoàn toàn đoạn diệt. Lại còn một
bản ngã khác có thiên tánh, có sắc, do ý tạo thành, mọi
chi tiết tay chân lớn nhỏ đều đầy đủ, không khuyết một căn nào.
Bản ngã ấy ông không biết, ông không thấy.
Bản ngã ấy tôi biết, tôi thấy.
Bản ngã ấy khi thân hoại bị hủy nát,
tiêu diệt,
sau khi chết không còn nữa, nên
bản ngã ấy như thế
hoàn toàn đoạn diệt". Như vậy có một số người chủ trương sự
đoạn diệt, tiêu thất và hủy hoại của loài
hữu tình.
13. Một vị khác lại nói: "Này ông, thật có
bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói
bản ngã ấy không có. Nhưng
bản ngã ấy như thế không bị
hoàn toàn đoạn diệt. Lại còn một
bản ngã khác vượt ngoài tất cả sắc tưởng,
diệt trừ các tưởng chống đối, không
ức niệm các dị tưởng, nhận hiểu
hư không là
vô biên.
Đạt đến không vô biên xứ.
Bản ngã ấy ông không biết, ông không thấy.
Bản ngã ấy tôi biết, tôi thấy.
Bản ngã ấy khi thân hoại, bị hủy nát
tiêu diệt,
sau khi chết không còn nữa, nên
bản ngã ấy như thế
hoàn toàn đoạn diệt". Như vậy có một số người chủ trương sự
đoạn diệt, tiêu thất và hủy hoại của loài
hữu tình.
14. Một vị khác lại nói: "Này ông, thật có
bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói
bản ngã ấy không có. Nhưng
bản ngã ấy như thế không bị
hoàn toàn đoạn diệt. Lại còn một
bản ngã khác vượt ngoài tất cả
không vô biên xứ, nhận hiểu: Thức là
vô biên.
Đạt đến Thức vô biên xứ.
Bản ngã ấy ông không biết, ông không thấy.
Bản ngã ấy tôi biết, tôi thấy.
Bản ngã ấy khi thân hoại, bị hủy nát,
tiêu diệt,
sau khi chết không còn nữa, nên
bản ngã ấy như thế
hoàn toàn đoạn diệt". Như vậy có một số người chủ trương sự
đoạn diệt, tiêu thất và hủy hoại của loài
hữu tình.
15. Một vị khác lại nói: "Này ông, thật có
bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói
bản ngã ấy không có. Nhưng
bản ngã ấy như thế không bị
hoàn toàn đoạn diệt. Lại còn một
bản ngã khác vượt ngoài tất cả
Thức vô biên xứ, nhận hiểu: không có
sở hữu.
Đạt đến Vô sở hữu xứ.
Bản ngã ấy ông không biết, ông không thấy.
Bản ngã ấy tôi biết, tôi thấy.
Bản ngã ấy khi thân hoại bị hủy nát,
tiêu diệt,
sau khi chết không còn nữa, nên
bản ngã ấy như thế
hoàn toàn đoạn diệt". Như vậy có một số người chủ trương sự
đoạn diệt, tiêu thất và hủy hoại của loài
hữu tình.
16. Một vị khác lại nói: "Này ông, thật có
bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói
bản ngã ấy không có. Nhưng
bản ngã ấy như thế không bị
hoàn toàn đoạn diệt. Lại còn một
bản ngã khác vượt ngoài tất cả
Vô sở hữu xứ, nhận hiểu: Đây là
tịch tịnh, đây là mỹ diệu.
Đạt đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.
Bản ngã ấy ông không biết, ông không thấy.
Bản ngã ấy tôi biết, tôi thấy.
Bản ngã ấy khi thân hoại, bị hủy nát
tiêu diệt,
sau khi chết không còn nữa, nên
bản ngã ấy như thế
hoàn toàn đoạn diệt". Như vậy có một số người chủ trương sự
đoạn diệt, tiêu thất và hủy hoại của loài
hữu tình.
17. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy, chủ trương
Đoạn diệt luận,
chấp trước sự
đoạn diệt, tiêu thất, hủy hoại của loài
hữu tình với bảy luận chấp. Này các Tỷ-kheo, nếu có những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương
Đoạn diệt luận,
chấp trước sự
đoạn diệt, tiêu thất, hủy hoại của loài
hữu tình, chúng chấp cả bảy luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,
ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
18. Này các Tỷ-kheo.
Như Lai tuệ tri như thế này: "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những định mạng như vậy".
Như Lai tuệ tri. Như vậy, Ngài tuệ ti hơn thế nữa, và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp trước
sở tri ấy,
nội tâm được
tịch tịnh. Ngài
như thật tuệ tri sự
tập khởi, sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ
tuệ tri như vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có
chấp thủ. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể
nhận biết. Những pháp ấy
Như Lai tự chứng tri,
giác ngộ và
truyền thuyết: và chính những pháp ấy những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
19. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hiện tại Niết Bàn luận,
chấp trước sự
tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài
hữu tình với năm luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,
y chỉ gì, căn cứ gì, chủ trương
Hiện tại Niết bàn luận,
chấp sự tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài
hữu tình với năm luận chấp?
20. Này các Tỷ-kheo, có Sa-môn hay Bà-la-môn chủ trương và
quan niệm: "Khi nào
bản ngã này tận hưởng,
sung mãn năm món
dục lạc, như thế
bản ngã ấy
đạt đến tối thượng Niết Bàn của loài hữu tình".
21. Một vị khác lại nói: "Này ông, thật có
bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói
bản ngã ấy không có. Nhưng
bản ngã ấy như thế, không phải
hoàn toàn đạt đến tối thượng Niết Bàn. Vì cớ sao? Vì rằng tính của
dục lạc và
vô thường, khổ,
biến dịch. Vì tánh của chúng là
biến dịch,
chuyển hóa, nên ưu, bi, khổ, muộn, não phát sanh. Khi nào
bản ngã ấy ly các
dục lạc, ly các
ác pháp,
đạt đến và
an trú vào
đệ nhất thiền;
thiền định này có tầm, có tứ, có hỷ và có lạc, do
ly dục sanh. Như thế,
bản ngã ấy
đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn". Như vậy có người chủ trương
tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài
hữu tình.
22. Một vị khác lại nói: "Này ông, thật có
bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói
bản ngã ấy không có. Nhưng
bản ngã ấy như thế, không phải
hoàn toàn đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn. Vì cớ sao? Vì ở đây
thiền định ấy có tầm, có tứ nên gọi là thô tháo. Khi nào
bản ngã ấy có tầm và tứ,
đạt đến và
an trú đệ nhị thiền.
Thiền định này
nội tâm yên tỉnh, trí
chuyên nhất cảnh, không tầm, không tứ,
hỷ lạc do định sanh. Như thế,
bản ngã ấy
đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn". Như vậy có người chủ trương
tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài
hữu tình.
23. Một vị khác lại nói: "Này ông, thật có
bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói
bản ngã ấy không có. Nhưng
bản ngã ấy như thế, không phải
hoàn toàn đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn. Vì cớ sao? Vì ở đây
tâm trí có hỷ và bị kích động nên gọi là thô tháo. Khi nào
bản ngã ấy không tham hỷ, trú xã,
chánh niệm,
chánh trí, thân hưởng lạc mà các bậc thánh gọi là Hỷ niệm lạc trú -
đạt đến và
an trú đệ tam thiền. Như thế,
bản ngã ấy
đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn". Như vậy, có người chủ trương
tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài
hữu tình.
24. Một vị khác lại nói: "Này ông, thật có
bản ngã ấy như ông nói. Tôi không nói
bản ngã ấy không có. Nhưng
bản ngã ấy như thế, không phải
hoàn toàn đạt đến tối thượng hiện tại Niết bàn. Vì cớ sao? Vì ở đây tâm
thọ lạc nên gọi là thô tháo. Khi nào
bản ngã ấy xả lạc và xả khổ,
diệt trừ hỷ và ưu về trước,
đạt đến và
an trú vào
đệ tứ thiền. Thiền này không khổ, không lạc, xả niệm
thanh tịnh. Như thế,
bản ngã ấy
đạt đến tối thượng hiện tại Niết Bàn". Như vậy có người chủ trương
tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài
hữu tình.
25. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương
Hiện tại Niết-bàn luận,
chấp trước sự
tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài
hữu tình với năm luận chấp. Này các Tỷ-kheo, nếu có những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương
Hiện tại Niết-bàn luận,
chấp sự tối thượng hiện tại Niết Bàn của loài
hữu tình, những vị này sẽ chấp cả năm luận chấp trên, hay một trong năm luận chấp trên,
ngoài ra không còn một luận chấp nào khác nữa.
26. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai tuệ tri như thế này: "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những định mạng như vậy".
Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài
tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp trước
sở tri ấy,
nội tâm được
tịch tịnh. Ngài
như thật tuệ tri sự
tập khởi, sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ
tuệ tri như vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có
chấp thủ. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể
nhận biết. Những pháp ấy
Như Lai tự chứng tri,
giác ngộ và
truyền thuyết; và chính những pháp ấy những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
27. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy
luận bàn về tương lai,
chấp kiến về tương lai,
y cứ về tương lai, sẽ
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào,
luận bàn về tương lai,
chấp kiến về tương lai,
y cứ về tương lai,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác. Chúng sẽ chấp bốn mươi bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,
ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
28. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai tuệ tri như thế này: "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những định mạng như vậy".
Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài
tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp trước
sở tri ấy,
nội tâm được
tịch tịnh. Ngài
như thật tuệ tri sư
tập khởi, sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ
tuệ tri như vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có
chấp thủ.
29. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy
luận bàn về
quá khứ tối sơ và
luận bàn về tương lai,
luận bàn về
quá khứ tối sơ và tương lai,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ và tương lai,
y cứ về
quá khứ tối sơ và tương lai,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác với sáu mươi hai luận chấp. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào,
luận bàn về
quá khứ tối sơ,
luận bàn về tương lai,
luận bàn về
quá khứ tối sơ và tương lai,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ và tương lai,
y cứ về
quá khứ tối sơ và tương lai,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác. Những vị ấy sẽ chấp sáu mươi hai luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,
ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa.
30. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai tuệ tri như thế này: "Những
sở kiến ấy,
chấp trước như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ
tác thành những
định mệnh như vậy".
Như Lai tuệ tri như vậy. Ngài
tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài
không chấp sở tri ấy. Nhờ
không chấp trước
sở tri ấy,
nội tâm được
tịch tịnh. Ngài
như thật tuệ tri sự
tập khởi sự
diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự
xuất ly của chúng. Nhờ
tuệ tri như vậy, này các Tỷ-kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có
chấp thủ.
31. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,
tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể
nhận biết. Những pháp ấy
Như Lai tự chứng tri,
giác ngộ và
tuyên thuyết, và chính những pháp ấy những ai
như thật chân chánh
tán thán Như Lai mới nói đến.
Kết luận32. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Thường trú luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường trú với bốn luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích,
dao động,
xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
33. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn đối với một hạng
hữu tình và
vô thường đối với một hạng
hữu tình khác với bốn luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích,
dao động,
xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
34. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hữu biên Vô biên luận, chấp
thế giới là
hữu biên vô biên với bốn luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích dao động,
xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
35. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Ngụy biện luận. Khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích,
dao động,
xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
36. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương
Vô nhân luận, chấp
bản ngã và
thế giới do
vô nhân sanh với hai luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích,
dao động,
xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
37. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,
luận bàn về
quá khứ tối sơ,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ,
y cứ về
quá khứ tối sơ,
đề xướng nhiều
ý kiến sai khác với mười tám luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích,
dao động,
xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
38. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hữu tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã có tưởng
sau khi chết với mười sáu luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích,
dao động xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
39. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Vô tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã không có tưởng
sau khi chết với tám luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích,
dao động,
xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
40. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Phi Hữu tưởng Phi
Vô tưởng sau khi chết, chấp
bản ngã phi hữu tưởng phi
vô tưởng sau khi chết với tám luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích,
dao động,
xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
41. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Đoạn diệt luận,
chấp trước sự
đoạn diệt, tiêu mất, hủy hoại của loài
hữu tình với bảy luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích,
dao động,
xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
42. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hiện tại Niết Bàn luận,
chấp trước sự
hiện tại Niết Bàn của loài
hữu tình với năm luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích,
dao động,
xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
43. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,
luận bàn về tương lai,
chấp kiến về tương lai,
y cứ về tương lai,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích,
dao động,
xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
44. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,
luận bàn về
quá khứ tối sơ,
luận bàn về tương lai,
luận bàn về
quá khứ tối sơ và tương lai,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ và tương lai,
y cứ về
quá khứ tối sơ và tương lai,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác với sáu mươi hai luận chấp. Chủ trương ấy là
kinh nghiệm cá nhân, là sự không biết, không thấy, sự
cảm thọ của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự
kích thích,
dao động,
xuyên tạc của những vị bị
tham ái chi phối.
45. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường trú với bốn luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
46. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn đối với một hạng
hữu tình và
vô thường đối với một hạng
hữu tình khác với bốn luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
47. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hữu biên Vô biên luận, chấp
thế giới là
hữu biên vô biên với bốn luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
48. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Ngụy biện luận. Khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi là do sự xúc chạm (của các căn).
49. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương
Vô nhân luận, chấp
bản ngã và
thế giới do
vô nhân sanh với hai luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
50. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,
luận bàn về
quá khứ tối sơ,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ,
y chỉ về
quá khứ tối sơ,
đề xướng nhiều
ý kiến sai khác với mười tám luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
51. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hữu tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã có tưởng
sau khi chết với mười sáu luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
52. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Vô tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã không có tưởng
sau khi chết với tám luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
53. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Phi Hữu tưởng Phi Vô tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã phi hữu tưởng phi
vô tưởng sau khi chết với tám luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
54. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Đoạn diệt luận,
chấp trước sự
đoạn diệt, tiêu mất, hủy hoại của loài
hữu tình với bảy luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
55. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hiện tại Niết bàn luận,
chấp trước sự
hiện tại Niết Bàn của loài
hữu tình với năm luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
56. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,
luận bàn về tương lai,
chấp kiến về tương lai,
y cứ về tương lai,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
57. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,
luận bàn về
quá khứ tối sơ,
luận bàn về tương lai,
luận bàn về
quá khứ tối sơ và tương lai,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ và tương lai,
y cứ về
quá khứ tối sơ và tương lai,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác với sáu mươi hai luận chấp. Chủ trương ấy
phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
58. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn với bốn luận chấp. Những vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương trên,
nếu không có
cảm xúc.
59. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận, chấp
bản ngã và
thế giới, là thường còn đối với một hạng
hữu tình và
vô thường đối với một hạng
hữu tình khác với bốn luận chấp. Những vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương trên,
nếu không có
cảm xúc.
60. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hữu biên Vô biên luận, chấp
thế giới là
hữu biên vô biên với bốn luận chấp. Những vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương trên,
nếu không có
cảm xúc.
61. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Ngụy biện luận. Khi bị hỏi
vấn đề này hay
vấn đề khác dùng những lời
ngụy biện trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Những vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương trên,
nếu không có
cảm xúc.
62. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương
Vô nhân luận, chấp
bản ngã và
thế giới do
vô nhân sanh với hai luận chấp. Các vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương trên,
nếu không có
cảm xúc.
63. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,
luận bàn về
quá khứ tối sơ,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ,
y chỉ về
quá khứ tối sơ,
đề xướng nhiều
ý kiến sai khác với mười tám luận chấp. Những vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương trên,
nếu không có
cảm xúc.
64. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hữu tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã có tưởng
sau khi chết với mười sáu luận chấp. Các vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương trên,
nếu không có
cảm xúc.
65. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Vô tưởng luận sau khi chết, chấp
bản ngã không có tưởng
sau khi chết với tám luận chấp. Các vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương trên,
nếu không có
cảm xúc.
66. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Phi Hữu tưởng Phi
Vô tưởng sau khi chết, chấp
bản ngã phi hữu tưởng phi
vô tưởng sau khi chết với tám luận chấp. Các vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương trên,
nếu không có
cảm xúc.
67. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Đoạn diệt luận,
chấp trước sự
đoạn diệt, tiêu mất, hủy hoại của loài
hữu tình với bảy luận chấp. Các vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương, trên,
nếu không có
cảm xúc.
68. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hiện tại Niết Bàn luận,
chấp trước hiên tại
Niết Bàn của loài
hữu tình với năm luận chấp. Các vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương trên,
nếu không có
cảm xúc.
69. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,
luận bàn về tương lai,
chấp kiến về tương lai,
y cứ về tương lai,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Các vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương trên,
nếu không có
cảm xúc.
70. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,
luận bàn về
quá khứ tối sơ,
luận bàn về tương lai,
luận bàn về
quá khứ tối sơ và tương lai,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ và tương lai,
y cứ về
quá khứ tối sơ và tương lai,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác với sáu mươi hai luận chấp. Những vị này không có thể
cảm thọ những chủ trương trên,
nếu không có
cảm xúc.
71. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp
bản ngã và
thế giới là thường còn với bốn luận chấp; những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần
Vô thường luận; những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương
Ngụy biện luận; những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương
Vô nhân luận; những Sa-môn, Bà-la-môn,
luận bàn về
quá khứ tối sơ, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Hữu tưởng luận sau khi chết, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Vô tưởng luận sau khi chết; những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Phi Hữu tưởng Phi
Vô tưởng sau khi chết; những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
Đoạn diệt luận; những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
hiện tại Niết Bàn luận; những Sa-môn, Bà-la-môn
luận bàn về
quá khứ tối sơ; những Sa-môn, Bà-la-môn
luận bàn về tương lai,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ và tương lai,
y cứ vào
quá khứ tối sơ và tương lai,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác với sáu mươi hai luận chấp. Tất cả những vị này có những
cảm thọ (những chủ trương trên) do sự xúc chạm qua
sáu xúc xứ. Do duyên với những
cảm thọ mà
tham ái phát khởi; do duyên
tham ái, thủ
phát khởi; do duyên thủ, hữu
phát khởi; do duyên hữu, sanh
phát khởi, do
duyên sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não
phát khởi. Này các Tỷ-kheo, khi Tỷ-kheo
như thật biết sự
tập khởi, sự
diệt trừ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của
sáu chỗ xuất xứ, vị ấy sẽ có một sự
hiểu biết vượt ra ngoài những điều trên.
72. Này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn nào
luận bàn về
quá khứ tối sơ, hay
luận bàn về tương lai, hay
luận bàn về
quá khứ tối sơ và tương lai,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ và tương lai,
y cứ vào
quá khứ tối sơ và tương lai,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác tất cả những vị này đều bị bao trùm bởi lưới của sáu mươi hai luận chấp này, dầu chúng nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây.
Này các Tỷ-kheo, cũng
ví như người đánh cá lành nghề hay người học đánh cá vung lưới trên mặt hồ nước nhỏ có mắt sít sao. Người ấy nghĩ: "Những con cá lớn ở trong hồ nước nhỏ này, tất cả chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới này, dầu chúng có nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây". Cũng như vậy này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào,
luận bàn về
quá khứ tối sơ, hay
luận bàn về tương lai, hay
luận bàn về
quá khứ tối sơ và tương lai,
chấp kiến về
quá khứ tối sơ và tương lai,
đề xướng nhiều
sở kiến sai khác, tất cả những vị này đều bị bao phủ trong lưới của sáu mươi hai luận chấp này; dầu có nhảy vọt lên, những vị này vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây.
73. Này các Tỷ-kheo, thân của
Như Lai còn
tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến
đời sống khác đã bị
chấm dứt. Khi thân của vị này còn
tồn tại thời
chư Thiên và
loài Người còn có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại
mạng chung, thời
chư Thiên và
loài Người không thể thấy được.
Này các Tỷ-kheo, như nhánh có một chùm, xoài bị chặt đứt, tất cả trái xoài dính với nhánh ấy đều bị chung một số phận với nhánh kia. Cũng như vậy này các Tỷ-kheo, thân của
Như Lai còn
tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến
một đời sống khác đã bị chặt đứt. Khi thân của vị này còn
tồn tại thời
chư Thiên và
loài Người có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại
mạng chung thời
chư Thiên và
loài Người không thể thấy được.
74. Khi nghe nói vậy,
đại đức Ananda
bạch đức Thế Tôn:
-
Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn!
Hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
Pháp môn này gọi là gì, bạch Thế Tôn?
- Này Ananda,
pháp môn này gọi là "Lợi Võng", hãy như
vậy mà phụng trì; gọi là "Pháp Võng", hãy như
vậy mà phụng trì; gọi là "Phạm Võng", hãy như
vậy mà phụng trì; gọi là "Kiếm Võng", hãy như
vậy mà phụng trì; gọi là "Vô thượng Chiến thắng", hãy như
vậy mà phụng trì.
Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy
hoan hỷ tín thọ lời
Thế Tôn dạy. Trong khi kinh này được
truyền thuyết, một ngàn
thế giới đều
rung động.
Hòa thượng Thích
Minh Châu dịch Việt