QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
ĐẠI TẠNG KINH CHỮ HÁN
Định Huệ
Đại Tạng Kinh chữ Hán là một bộ tổng vựng các kinh sách
Phật Giáo, nhưng
bao gồm rất nhiều lĩnh vực như :
triết học,
lịch sử,
ngôn ngữ,
văn học, nghệ thuật, lịch toán, y dược,
thiên văn... Đây là một kết tinh của
văn hóa Trung Quốc và
văn hóa nước ngoài có
ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển của
văn hóa thế giới.
Đại Tạng Kinh là một tư liệu không thể thiếu nếu
chúng ta ngày nay muốn
nghiên cứu về
văn hóa thế giới.
Đại Tạng Kinh chữ Hán,
lúc đầu được gọi là "Chúng Kinh", "Nhất Thiết Kinh", về sau được gọi là "Kinh Tạng", "Tạng Kinh" hoặc "Đại Tạng", gọi tắt là "Tạng". Danh từ
Đại Tạng Kinh chính thức xuất hiện vào cuối đời
Nam Bắc triều hoặc đầu đời Tùy (581).
Đại Tạng Kinh chữ Hán gồm 2 bộ phận lớn là Kinh-Luật-Luận
Phật Giáo được
phiên dịch sang Hán văn và các
tác phẩm do người
Trung Quốc trứ tác. Nguyên ngữ của phần
phiên dịch rất
phức tạp,
bao gồm các
kinh điển phiên dịch từ Phạn văn, Tạng văn,
Pali ngữ, các
ngữ ngôn cả một dải đất vùng Trung Á. Về nội dung rất
phong phú,
Đại Tạng Kinh bao quát cả
Đại Thừa,
Tiểu Thừa và
Mật Giáo. Phần soạn thuật đều là các trứ tác
Trung Quốc, nội dung
rộng rãi gồm
các loại chương sớ giải thích Kinh Luật Luận, Sử truyện,
các loại luận trứ,
địa chí,
mục lục... Đây là tư liệu quý giá để
nghiên cứu Phật Giáo Trung Quốc cho đến lịch sử,
triết học,
văn hóa,
xã hội Trung Quốc.
Một bộ
Đại Tạng Kinh, do ba
yếu tố cơ bản cấu thành :
1.
Tiêu chuẩn chọn lựa, tức là tuyển chọn kinh sách theo
tiêu chuẩn nào để đưa vào Tạng.
2. Thể hệ kết cấu, tức là dùng
hình thức nào để tổ chức một cách hữu cơ
các loại kinh sách để chúng
trở thành một chỉnh thể.
3.
Tiêu chuẩn ngoại bộ, tức là chọn dùng phương thức nào để phản ánh được thể hệ kết cấu
Đại Tạng Kinh một cách
thuận tiện nhất. Nhờ đó, người đọc có thể
tra cứu,
quản lý dễ dàng bộ
Đại Tạng Kinh.
Vận dụng
quan điểm kể trên khảo sát
Đại Tạng Kinh chữ Hán, có thể phát triển
Đại Tạng Kinh chữ Hán
trải qua thời gian dài gần một nghìn năm từ đời Lưỡng Hán (65-220) đến cuối đời Đường,
Ngũ Đại (895-960) mới dần hình thành và
hoàn thiện.
Về
hình thức,
Đại Tạng Kinh chữ Hán
trải qua hai giai đoạn lớn là tả bản (bản chép tay) và khắc bản, mà
lịch sử hình thành của
Đại Tạng Kinh chữ Hán có
liên quan chặt chẽ với giai đoạn tả bản của nó.
Lịch sử hình thành của
Đại Tạng Kinh chữ Hán (cũng tức là giai đoạn tả bản của nó) có thể chia ra làm bốn
thời kỳ :
1. Thời kỳ phôi thaiThời kỳ này bắt đầu từ lúc
Phật Giáo mới truyền vào
Trung Quốc (năm 67) đến đời Đông Tấn, ngài Thích
Đạo An (312-385) soạn Tổng Lý
Chúng Kinh Mục Lục.
Nhìn từ tổng thể, trong lĩnh vực hình thái
ý thức,
thời kỳ này
Phật Giáo bị xem đồng với
phương thuật thần tiên, về sau
trở thành một bộ phận
phụ thuộc Huyền học, chưa
đủ sức để hình thành một giáo thuyết
độc lập.
Kinh sách
Phật Giáo Hán dịch
lúc ấy còn trong
thời kỳ hỗn độn. Về số lượng, kinh sách nhà Phật được
phiên dịch cũng khá nhiều, nhưng nhìn chung, vẫn còn trong
tình trạng gặp kinh nào
dịch kinh ấy, gặp bộ đầy đủ thì dịch đầy đủ, thiếu thì dịch thiếu, điều này được thấy trong Tổng Lý
Chúng Kinh Mục Lục. Người
Trung Quốc đương thời chưa biết hoặc chưa
cảm thấy đến tính tất yếu
cần phải dùng
Đại Thừa,
Tiểu Thừa để phân loại kinh Phật. Kinh Phật
lưu truyền ở các địa phương thời bấy giờ có tính hạn cuộc trong từng khu vực
nhất định, chưa có
xuất hiện một bộ
Tạng kinh mang
tiêu chuẩn mẫu mực cho cả nước. Tình huống này xảy ra cũng do cục diện chính trị 16 nước thời Đông Tấn ở
Trung Quốc phân lập
nhất trí với
trình độ phát triển của
Phật Giáo đương thời.
Điều đáng chú ý, tại
Trung Quốc, ngài
Đạo An là người đầu tiên nêu ra
vấn đề "Kinh nghi ngụy", cho thấy rằng ngài đã
tiếp xúc được với
vấn đề "Tiêu chuẩn chọn lựa", là
yếu tố cơ bản thứ nhất của sự hình thành
Đại Tạng Kinh.
2. Thời kỳ hình thànhThời kỳ này bắt đầu từ khi
ngài Cưu Ma La Thập (344-413) vào
Trung Quốc đến lúc
Phí Trường Phòng soạn
Lịch Đại Tam Bảo Kỳ (597).
Ngài Cưu Ma La Thập đến
Trung Quốc truyền dịch học tiếng
Trung Quán của Tổ
Long Thọ một cách có
hệ thống, mở ra
trước mắt các Tăng sĩ
Phật Giáo Trung Quốc một thế giới mới, khiến họ hiểu
đúng đắn được
Phật Giáo Ấn Độ.
Phật Giáo Trung Quốc bắt đầu tự
ý thức trên bước đường phát tiển
độc lập. Từ đó, cũng bắt đầu phát sinh sự cọ xát và
xung đột với
tư tưởng Nho, Đạo của
văn hóa truyền thống Trung Quốc.
Từ
nhận thức sâu sắc đối với
Phật Giáo, ngài
Huệ Quán (
đệ tử ngài
La Thập)
đề xuất thuyết "Ngũ thời phán giáo" (1). Từ đó về sau, các
học thuyết về
phán giáo đua nhau nổi dậy,
mục đích đều muốn đem
tư tưởng của các phái
Phật Giáo Ấn Độ truyền nhập vào
Trung Quốc chỉnh lý thành một chỉnh thể hữu cơ
bao dung lẫn nhau, cốt
tiện lợi cho việc
truyền bá Phật Giáo tại
Trung Quốc. Sự
phán giáo có
năng lực thúc đẩy sự
thâm nhập và phát triển của
Phật Giáo Trung Quốc, và sự
xuất hiện của các
học phái thời
Nam Bắc triều (386-581) có quan
hệ trọng đại với sự hình thành các
tông phái Phật Giáo thời Tùy (681-617), Đường (618-907). Vì thế
phán giáo là một
sự kiện lớn trên
lịch sử Phật Giáo Trung Quốc,
đồng thời thuyết
phán giáo cũng quan hệ
mật thiết đến
vấn đề kết cấu thể hệ,
yếu tố cơ bản thứ hai của sự hình thành
Đại Tạng Kinh chữ Hán.
Tác phẩm đầu tiên
sử dụng tư tưởng phán giáo để chỉnh lý kinh Phật là Chúng Kinh Biệt Lục. Sách này
hấp thụ tư tưởng "Ngũ thời phán giáo" của
Huệ Quán,
thiết lập các điều mục phân
Tam Thừa Thông Giáo Lục,
Tam Thừa Trung
Đại Thừa Lục,
Tiểu Thừa Kinh Lục, Đại
Tiểu Thừa Bất Phán Lục, làm
bước đầu hữu ích đối với việc nên dùng loại thể hệ kết cấu nào chỉnh
lý Phật điển. Về sau, có nhiều loại kinh lục cùng mang một nhan đề
Chúng Kinh Mục Lục của nhiều
tác giả khác nhau
biên soạn như : Lý Quách (soạn năm 511),
Bảo Xướng (soạn năm 18),
Pháp Thượng (495-580),
Pháp Kinh (đời Tùy 581-617) phản ánh
nỗ lực của các vị
sư tăng Trung Quốc không ngừng tiến hành chỉnh lý, giám biệt, an bài, tổ chức kết cấu
Đại Tạng Kinh từ các
phương tiện khác nhau. Từ
nỗ lực này, cho thấy
trình độ phát triển tổng thể của
Phật Giáo Trung Quốc bao quát
phán giáo ở bên trong,
hình thức tổ chức của
Tạng Kinh Phật Ấn Độ
cho đến ảnh hưởng của khoa
Mục Lục học
truyền thống của
Trung Quốc. Chính
nỗ lực kiên trì từ đời này sang đời khác khiến cho
Đại Tạng Kinh chữ Hán
rốt cuộc được hình thành.
Trong
thời kỳ này còn có một nhân tố
trọng yếu nữa
thúc đẩy quá trình hình thành
Đại Tạng Kinh, đó là
ảnh hưởng của tư trào "Tam Bảo".
Phật Giáo truyền thống cho rằng
Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) là nhân tố ắt có và đủ tạo nên
Phật Giáo, do đó
Tam Bảo trở thành đối tượng
sùng bái của
tín đồ Phật Giáo. Kinh Phật là
thể hiện của
Pháp bảo, đương nhiên cũng được
sùng bái.
Quần chúng tín ngưỡng Phật Giáo lấy việc
sám hối, tạo
công đức làm chính, sao chép,
đọc tụng,
cúng dường kinh Phật cũng là nội dung
trọng yếu của
hoạt động tôn giáo hằng ngày của họ. Trong các
kinh điển không ít có nội dung
tuyên dương công đức đạt được do sao chép,
đọc tụng,
cúng dường kinh điển hẳn có
tác dụng đối với
hoạt động sùng bái kinh Phật mang tính
quần chúng này. Ngụy kinh "Cao Vương
Quán Thế Âm Kinh",
Đôn Hoàng di thư "Đại Phật Danh Kinh" là tư liệu
chứng minh hoạt động sùng bái kinh điển. Một tư trào
xã hội xuất hiện tất nhiên có
ảnh hưởng lớn đến các
hiện tượng xã hội, điều đó hầu như là một
quy luật. Do đó, tư trào
Tam Bảo lưu hành tất nhiên đã
thúc đẩy quá trình hình thành
Đại Tạng Kinh chữ Hán.
Một
nguyên nhân trọng yếu khác
đưa tới việc hình thành
Đại Tạng Kinh chữ Hán là
truyền thống văn hóa Trung Quốc xem trọng cả vô công lẫn văn trị. Từ xưa
đến nay đều chú trọng đến sự
thừa kế văn hóa và chỉnh lý sách vở của thời trước, mà sự hình thành
Đại Tạng Kinh chữ Hán chính là phản ánh
ý thức văn hóa dân tộc; đây là điểm trái ngược vớ
Phật Giáo Ấn Độ. Dân tộc Ấn tuy có
lý tưởng Chuyển Luân Thánh Vương, nhưng đất nước
Ấn Độ chưa từng có
một lần thống nhất,
ý thức tôn giáo của dân tộc
Ấn Độ tuy trên ký luận có thuyết
Thanh Văn Tạng,
Bồ Tát Tạng, nhưng trên
thực tế không có
xuất hiện một tổng vựng kinh sách mang tính chuẩn mực là
Đại Tạng Kinh, mà chỉ là
kinh điển của mỗi
tông phái tự truyền cho nhau.
Cột mốc
kết thúc thời kỳ này là
tác phẩm Lịch Đại Tam Bảo Kỷ (
Phí Trường Phòng soạn vào đời Tùy). Quan nhan đề của sách này, cho thấy
tác phẩm đã chịu
ảnh hưởng trực tiếp tư trào "Tam Bảo". Có người
phê bình tác phẩm này không hợp với
thể lệ kinh lục, thậm chí còn
xem xét kỳ đến bối cảnh
xã hội lịch sử khi
biên soạn tác phẩm này. Đây là
tác phẩm đầu tiên khai sáng "nhập tạng lục", vì thế bất luận về mặt
thực tế hay
lý luận,
Đại Tạng Kinh chữ Hán
lúc ấy hiển nhiên đã được hình thành, và danh từ
Đại Tạng Kinh xuất hiện vào đời Tùy
hoàn toàn không phải là chuyện
ngẫu nhiên.
3. Thời kỳ thể hệ kết cấuThời kỳ này bắt đầu từ sau
Lịch Đại Tam Bảo (597) đến Khai Nguyên
Thích Giáo Dục (730) do ngài
Trí Thăng soạn.
Thời kỳ này các vị
sư tăng nối tiếp nhau
biên tập các kinh lục, từ các gốc độ khác nhau, các ngài
tìm cách xếp đặt thể hệ kết cấu
Đại Tạng Kinh. Nhưng
nổi bật nhất là Khai Nguyên Lục, ngài
Trí Thăng trên
phương diện thể hệ kết cấu nhất của
văn hiến Phật Giáo Trung Quốc cổ đại.
Theo sự phát triển không ngừng của
Đại Tạng Kinh, do có
yêu cầu tập hợp thành pho, nên
vấn đề "ngoại bột tiêu chí" được đưa ra bàn bạc.
Thời kỳ trước đã
xuất hiện phương pháp "Kinh dannh tiêu chí",
thời kỳ này diễn hoá thành
phương pháp "Kinh danh trật liệu". Hai
phương pháp này cùng với
phương pháp "Định cách trữ tồn"
phối hợp với nhau thành ra
phương pháp chủ yếu
quản lý Đại Tạng Kinh của
thời kỳ này.
Thời kỳ này,
cao tăng Trung Quốc tiến sâu vào công tác
nghiên cứu kinh điển Hán dịch và
tư tưởng Phật học, các ngài
biên soạn nhiều
tác phẩm làm nền tảng cho các
tông phái Phật Giáo Trung Quốc ra đời.
Ngoài ra, còn
xuất hiện một số lớn các
tác phẩm như sử truyện,
lễ sám,
mục lục,
âm nghĩa, sao tập và các
tác phẩm phản ánh
tín ngưỡng Phật Giáo bình dân. Các trứ tác do
Trung Quốc biên soạn này, có một số được đưa vào
Đại Tạng Kinh, nhưng phần nhiều lại bị các
sư tăng biên tập kinh
lục Đại Tạng Kinh loại bỏ ra ngoài, mặc cho chúng tự
mai một.
Thời kỳ này,
Đại Tạng Kinh chữ Hán chủ yếu
thu nạp các kinh sách
phiên dịch. Do đó, nếu nói trong hai giai đoạn trước,
trình độ phát triển của
Đại Tạng Kinh chữ Hán ngang tâm với
trình độ phát triển của
Phật Giáo Trung Quốc, thì bắt đầu tư giai đoạn này,
Đại Tạng Kinh chữ Hán
chính thống (Chính Tạng) có
xu hướng xơ cứng, chưa phản ánh thực sự tiến trình phát triển của
Phật Giáo Trung Quốc. Để bổ túc cho sự
thiếu sót này,
thời kỳ này có "Biệt Tạng" chuyên tập hợp các trứ
tác Phật Giáo
Trung Quốc, như
Luật Tông Tự
Biên Tập Tỳ Ni Tạng.
4. Thời kỳ toàn quốc thống nhất hoá Thời kỳ này bắt đầu từ Khai Nguyên Lục (730) đến đời
Ngũ Đại (895-960).
Lịch sử Phật Giáo Trung Quốc thời kỳ này có một
sự kiện trong đại là "Hội Xương phế Phật" (846-847). Lấy "Hội Xương phế Phật" làm bản lề, trước sau có thể chia làm hai giai đoạn. Trước "Hội Xương phế Phật", về cơ bản,
Đại Tạng Kinh phát triển trong
trạng thái bình ổn, quy mô của Chính Tạng và Biệt Tạng đều không ngừng
mở rộng. Nhìn từ tổng thể, hình thái của
Đại Tạng Kinh chữ Hán
thời kỳ này đã nhân sự bất đồng về địa khu,
tự viện,
tông phái mà có sự sai khác và không thống nhất.
Ngoài ra, cũng do sự phát triển của các
tông phái mà có sự sai khác và không thống nhất.
Ngoài ra, cũng do sự phát triển của các thư tịch mang
tính tông phái như : Tỳ Ni Tạng, Thiền Tạng,
Thiên Thai Giáo Điển...
Thời "Hội Xương phế Phật",
Phật Giáo bị đã kích nặng nề, kinh sách của hầu hết các địa khu trong toàn quốc đều bị
thiêu hủy. Sau cơn sóng dữ "phế Phật" qua đi,
Phật Giáo dần dần khôi phục,
tự viện mình. Trên mặt khách quan, điều này khiến cho
Đại Tạng Kinh ở các nơi trong toàn quốc
dần dần có
xu hướng thống nhất.
Về
phương diện "Ngoại bộ tiêu chí",
thời kỳ này
tuần tự xuất hiện các loại "Vận văn trật hiệu"
lưu truyền ở vùng
Đôn Hoàng, và "Thiên tự văn trật hiệu". Do
ưu điểm của phương pháp" Thiên tự văn trật hiệu" mà nó được dùng thay thế các
phương pháp tiêu chí trước kia là "Kinh
Đại Tạng Kinh thống nhất mang tính toàn quốc mà
truyền bá rộng rãi. Từ "Khai Bảo Tạng" về sau, các bản
Đại Tạng Kinh Trung Quốc khắc bản đều theo
phương pháp tiêu chí này.
Từ thời Bắc Thống về sau, các bản khắc
Đại Tạng Kinh chữ Hán : Khai
Bảo Tạng, Khiết Đan Tạng, Tỳ Lô Tạng, Sùng Ninh Tạng
lần lượt ra đời.
Ưu thế của
Đại Tạng Kinh khắc bản thay thế tả bản và
trở thành bản
lưu thông chủ yếu. Từ đây,
Đại Tạng Kinh chữ Hán cũng tiến vào một giai đoạn
lịch sử mới.
Lịch sử hình thành
Đại Tạng Kinh chữ Hán là một
thành phần trọng yếu kết thành
lịch sử Phật Giáo Trung Quốc Hán, Ngụy, Lưỡng Tấn,
Nam Bắc triều, Tùy, Đường,
Ngũ Đại. Mỗi
thời kỳ trong quá trình hình thành
Đại Tạng Kinh từng
giai đoạn phát triển Phật Giáo Trung Quốc. Do đó, muốn
tìm hiểu về
Phật Giáo Trung Quốc, không thể bỏ qua công tác
nghiên cứu lịch sử hình thành
Đại Tạng Kinh chữ Hán. (Soạn dịch từ
Phật Giáo Điển Tịch Bách Vấn của
Phương Quảng Xương)