* Nguồn gốc
– La Sát Đồ hay còn được biết đến với tên gọi Tu La Trường là một cảnh giới đầy nỗi thống khổ trong Tam Đồ Khổ.
– Ở đây, hầu hết chúng sinh tất cả các chủng loài đều ở dạng La Sát và A Tu La, vì thế mà có tên gọi là La Sát Đồ hay Tu La Trường. Là nơi được hình thành bởi các chấp niệm sâu dày mang tính sân hận, khát khao dùng vũ lực tiêu diệt kẻ khác, vui thú với việc sát mạng chúng sinh khác. Hoặc là những tư niệm quen với mùi máu tanh hôi, quen với việc nghe thấy tiếng kêu la thảm thiết của chúng sinh là nạn nhân của ác nghiệp.
* Tính chất đặc trưng
– Nơi đây gần giống với Hỏa Diệm Sơn, nhưng có khác chút ít. Ở Hỏa Diệm Sơn các chân hồn thường mang chấp niệm chiến đấu với nhau theo dạng tập hợp lại thành nhiều nhóm tính cách và ý tưởng tương đồng nhau. Tại La Sát Đồ này, chúng sinh thích sân si, dùng vũ lực giải quyết các vấn đề mang tính cá nhân hơn, hiếm khi thấy có hội nhóm.
– Cả cảnh giới này đều mang một màu đỏ sẫm vì bầu trời u tối, ánh sáng yếu ớt, không có những tia lửa như Hỏa Diệm Sơn. Màu đỏ sậm ấy cũng do hình ảnh những thi thể chúng sinh nằm chất chồng lên nhau khắp nơi trên đất máu chảy lênh láng. Đó là một bãi chiến trường rộng lớn, không có lấy cỏ cây hoa lá chi cả. Đao kiếm, khí giới sắt bén cũng nằm la liệt bên những thi thể.
– Hình ảnh xác người, xác động vật có mang những vết thương trên thân, hoặc là thân bị cắt rời thành nhiều mảnh vương vãi khắp nơi, phiêu bạt bềnh bồng trong không trung như lông hồng bay trong gió. Nào tay, chân, xương, đầu, mắt, răng, lông, cánh, đuôi… ngổn ngang. Mùi máu tanh hôi đến ngột ngạt chẳng thể thở nổi. Tiếng la hét, kêu gào đòi chém giết nhau cũng thường xuyên vang dội ở chốn này.
– Chúng sinh nơi đây điên cuồng, hỗn loạn trong việc kiềm nén cảm xúc tâm tình của bản thân. Thân ảnh họ hỏa khí bốc lên ngùn ngụt, đôi mắt đỏ ngầu, toàn thân đỏ sạm hay tím đen. Giết chóc để thỏa mãn tính hiếu chiến, thỏa mãn cái tôi tự tôn của bản thân về danh vị, quyền lực, lý tưởng. Giết hại kẻ khác hoặc bị kẻ khác giết hại. Rồi thì huyết nhục, xương cốt văng tung tóe tứ tán theo từng đợt đánh nhau kịch liệt. Hồn nào bị đau đớn quá thì nằm bất động, hôn trầm mê man.
– Các hồn chỉ có bất tỉnh chớ không có chết chóc gì ở đây cả.
– Đây là Trung Giới, là cõi giới của các linh thể không có xác thân, cái mà họ thị hiện chỉ là thân ảnh và vướng mắc chấp niệm của họ thôi.
– Họ chiến đấu rã rời, đến sức cùng lực kiệt rồi bất tỉnh. May mắn thay, mỗi canh giờ trôi qua, đều có những tiếng chuông U Minh, tiếng ca ngâm xướng vịnh những bài thi tiên, thần chú bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau phù hợp với văn hóa, tín ngưỡng của từng chúng sinh nơi ấy do chư Thiên Ca, Thiên Nhạc từ các cõi giới khác phát ra vang vọng đến đây. Nơi đây tuy thiếu ánh sáng, tối tăm mờ ảo, nhưng nhờ những âm thanh vi diệu của chuông, chú văn, thi kinh… khiến cho sự loạn động của cõi này được tĩnh lặng lại theo từng đợt pháp âm vang lên.
– Thân thể của chúng sinh đã nằm mê man bất tỉnh do chiến đấu mệt mỏi được vực dậy, các phần đã từng bị tổn thương cắt rời khỏi thân ảnh ấy cũng nhanh chóng biến hiện phục hồi trở lại. Thần thức chúng quỷ ấy dần tỉnh táo một chút.
– Chiến trường la liệt khí giới, huyết nhục, da lông xương… cũng dần tiêu biến theo từng đợt pháp âm vang lên.
– Đáng tiếc, các quỷ hồn nơi đây, với chấp niệm sâu dày vào việc sân hận, hiếu sát thì đâu dễ dàng gì tịnh yên chỉ sau vài lần đau đớn bất tỉnh rồi được phục hoạt trở lại. Họ chỉ tịnh yên được chốc lát, rồi tâm trí họ lại nhanh chóng bị những chấp niệm điên cuồng của mình lấn át. Họ lại tiếp tục lao vào những cuộc chiến vô nghĩa, tiếp tục la hét, tiếp tục phân tranh cao thấp, đúng sai, phải trái, sang hèn…
– Chỉ khi nào các quỷ hồn ấy bị bất tỉnh quá nhiều lần, rồi được phục hoạt trở lại, chiến đấu đến mệt mỏi chán chường, thật sự chán ngán việc sân si và tranh đấu đua chen, chán ngán mùi máu tanh hôi và những tiếng la thét kêu gào.
Họ khát khao bình yên
Khát khao được nghỉ ngơi lâu hơn, được ngủ sâu dài hơn.
Khát khao được thoát khỏi cảnh hỗn loạn kinh hoàng ấy.
Chỉ khi đó, họ mới thực sự tự nhiên được giải thoát, tự chuyển sinh thành dạng tồn tại khác trong Tam Giới, theo nguyện vọng, tâm tình mãnh liệt lúc ấy và nghiệp báo của họ.
– La Sát Đồ này, thuở xưa từ lúc mới hình thành bởi những sát niệm sâu dày của chúng sinh thì vô cùng hỗn loạn. Chúng sinh mãi tàn hại nhau, sát mạng nhau vì những sân si đố kị thường tình. Do vậy, các Quỷ Vương khắp nơi xem đây là một luyện ngục để chiêu mộ âm binh cho lực lượng của mình ngày thêm hùng mạnh. Họ thường xuyên đến đây dùng các thủ thuật dụ dỗ, hoặc là dùng chính uy quyền bạo lực bắt ép chúng quỷ La Sát, A Tu La nơi đây phục vụ cho tham vọng của mình.
Các Quỷ Vương thường lựa chọn những La Sát, A Tu La hiếu sát và có lực tinh thần mạnh, sát nghiệp và sát khí sâu dày đến nỗi có thể áp chế những ai tiếp cận, khiến cho kẻ khác phải run sợ, mất đi ý chí chiến đấu.
Hiếm có Quỷ Vương nào đi thu thập chúng quỷ mới chuyển sinh về đây mà chưa trải qua nhiều lần độ kiếp, chưa kinh qua tôi luyện bằng việc thực hành sát nghiệp ở chốn này.
* Hiển hóa pháp thân của Đức Phổ Hiền Bồ Tát phổ độ chúng quỷ ở La Sát Đồ
– Đức Phổ Hiền Bồ Tát quán chiếu thấu hiểu sự thống khổ cùng cực ở chốn này. Ngài đã phân tánh biến hóa pháp thân mình, trở thành một vị Minh Vương tôn danh Hàng Ma Phục Thiện Phổ Tịnh Minh Vương.
– Vị Minh Vương ấy, được hiểu như là một vị Giáo Chủ, một vị Chúa Quỷ hay Đức Bồ Tát giữa cõi ác đạo độ tận chúng sinh nơi ấy hồi hướng về điều thiện lành, sớm được giải thoát.
– Ngài thị hiện thân ảnh nam nhân dạng độ tuổi chừng hơn ba mươi, sắc thân màu vàng nhẹ như ánh bình minh, gương mặt thiện lành phúc hậu.
– Trên đỉnh đầu Ngài có một búi tóc quả đào, tóc dài xõa ra sau lưng, trên tóc ấy có giắt một đóa liên hoa xanh lục. Thân Ngài để ngực trần, quần dài rộng, quanh thân có mấy dải lụa màu trắng điểm xuyết ngũ sắc tường vân và mấy cành lá trúc thanh mảnh tung bay phấp phới. Toàn thân Ngài có hào quang xanh lục nhẹ nhàng lan tỏa, dưới chân là Liên Đài màu xanh lá mạ tươi xinh dịu mát.
– Ngài có sáu cánh tay. Một đôi tay kết Liên Hoa Ấn Mãn Khai, một tay cầm cành Lục Liên Hàm Tiếu, một tay cầm Trí Huệ Kiếm, một tay cầm Pháp Loa, một tay cầm Chiêu Hồn Phan.
– Thị giả theo Ngài thường có:
Lục Nha Bạch Tượng, Thiên Ca, Thiên Nhạc, Dạ Xoa, Kim Cang Hộ Pháp.
– Sự có xuất hiện của Đức Minh Vương giúp cho trật tự ở La Sát Đồ được thiết lập rõ ràng. Các Quỷ Vương khác không còn làm càng quấy như xưa. Thỉnh thoảng cũng có một vài Quỷ Vương ngông cuồng ngạo mạn ở các nơi khác dẫn quân đến đây, vừa muốn thử sức mình vừa muốn chiêu mộ thêm âm binh khoa trương lực lượng. Tất nhiên các Quỷ Vương ấy chẳng thể nào đạt được mục đích khi có Đức Minh Vương quyền hóa ở đây.
– Chúng quỷ hồn ở đây thường xuyên được nghe Đức Minh Vương thuyết pháp, kẻ nào ngông cuồng khởi niệm hiếu sát, muốn chiến đấu với Đức Minh Vương thì sẽ được xoa dịu sát khí ấy ngay khi tiếp cận với đức từ bi thanh tĩnh của Ngài.
– Nhờ vậy, vòng lẩn quẩn hiếu sát hiếu chiến của chúng quỷ ở đây cũng được rút ngắn hơn nhiều so với việc họ cứ tự nhiên thỏa mãn bản năng ấy. Khi họ phục thiện trước uy nghiêm thanh tĩnh của Đức Minh Vương, họ cũng chuyển sinh thành dạng tồn tại khác thiện lành hơn trong Tam Giới. Có khi họ tự nguyện xin được theo Ngài, tiếp tục hành thiện nguyện phổ hóa chúng quỷ nơi đây được thiện lành, tận độ chúng sinh thoát khỏi cảnh khổ này.
– Chúng sinh nào khởi tâm nguyện hồi hướng về Đức Phổ Hiền Bồ Tát, hay hiển hóa pháp thân của Ngài nơi La Sát Đồ này là Hàng Ma Phục Thiện Phổ Tịnh Minh Vương, liền được kết duyên với Ngài, dễ trở thành một thiện tín giả có tu dưỡng và hành thiện tinh tấn.
– Câu chân ngôn hồi hướng tôn danh Ngài:
“Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát năng trừ ma chướng quỷ tai, năng cứu khổ ách nghiệt chướng, năng độ chúng sanh quy ư Cực Lạc.”
“Nam mô Hàng Ma Phục Thiện Phổ Tịnh Minh Vương độ tận chúng sinh thoát ly khổ hải.”
– Chúng sinh nào thường xuyên thành tâm thiện niệm những câu chân ngôn như thế, thì tự mình gieo hạt giống lành. Đời này kiếp này cho đến nhiều đời nhiều kiếp về sau, họ thường có đủ duyên lành tu tập tinh tấn, xa lìa Tam Đồ Khổ vậy.
Nguồn: Tam Giới Toàn Thư