Hoa Vô Ưu

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện

Khenpo Sodargye Rinpoche
bình giảng


hinh phat


QUYỂN MỘT
Hồi hướng
Khenpo Sodargye Rinpoche với lòng biết ơn và tình yêu thương sâu sắc!
Cầu mong lòng bi mẫntrí tuệ của Ngài chiếu tỏa khắp nơi
giác ngộ mọi hữu tình chúng sinh.

CHƯƠNG THỨ NHẤT – THẦN THÔNG TRÊN CÕI TRỜI TAM THẬP TAM

Bởi [Bồ Tát] Địa Tạng sở hữu sức mạnh và những lời nguyện chẳng thể nghĩ bàn, nếu bất kỳ ai khi nghe được danh hiệu Ngài tôn kính Ngài theo bất kỳ cách nào, chẳng hạn tụng danh hiệu Ngài, tán thán Ngài, kính lễ Ngài, đỉnh lễ Ngài, dâng các cúng dường lên Ngài bằng hoa, hương và đèn, người này sẽ tái sinh trong cõi trời Tam Thập Tam một trăm lần và không bao giờ đọa vào ba cõi thấp, tức địa ngục, ngạ quỷsúc sinh.

Khenpo Sodargye


BÀI GIẢNG THỨ BA – 14/07/2020

Tôi muốn nhấn mạnh hai điểm trước bài giảng hôm nay về Kinh Địa Tạng. Tôi hoan hỷ khi biết rằng nhiều người có thể thọ nhận giáo lý này nhờ các nền tảng truyền thông khác nhau và cũng được truyền cảm hứng lớn lao bởi giáo lý này. Một điều mà tôi muốn nhắc nhở mọi người là khi bạn bắt đầu lắng nghe, bằng mọi giá, hãy cố gắng không bỏ lỡ bất kỳ thời khóa nào. Nếu vì vài lý do bạn phải bỏ lỡ một thời khóa, tốt nhất là lắng nghe bài giảng được ghi lại vào hôm sau. Khi làm vậy, bạn sẽ tạo ra hoàn cảnhcát tường để bản thân có thể thọ nhận Giáo Pháp một cách trọn vẹnthành công trong mọi đời tương lai. Nếu bạn có thể lắng nghe một giáo lý từ đầu đến cuối không gián đoạn, giáo lý đó sẽ đem đến cho bạn ảnh hưởng tích cực trong mọi đời tương lai. Vì vậy, điều quan trọng là tinh tấnthọ nhận bất kỳ Giáo Pháp nào và hoàn thành mọi thời khóa của giáo lý đó.

Thứ hai, trong khi nghiên cứu Kinh Địa Tạng, đừng chấp nhận sự hiểu giả tạo, mà thay vào đó, bạn cần thực sự dấn thân và cố gắng trở nên quen thuộc với mọi giáo lý trong Kinh này và nhờ đó, khiến cho bản thân nhận được lợi lạc bao la. Trong khi mọi người có thể dành cùng lượng thời gian để nghe giáo lý này, những vị thực sự dấn thân nghiên cứu sẽ được lợi lạc hơn rất nhiều so với những vị không làm vậy. Mặc dù một số người có thể từng học hỏi Kinh này trước kia, nhìn chung, người ta cần nghiên cứu một kinh văn lặp đi lặp lại để trở nên thông thạo nội dung, khiến họ có thể áp dụng trong thực tiễn. Đấy là lý do ở đây, tại Larung Gar, chúng ta có những vị thầy tu sĩ giảng dạy Lời Vàng Của Thầy TôiNhập Bồ Tát Hạnh hằng năm. Sau nhiều lần nghiên cứu, một đệ tử cuối cùng sẽ thấu triệt những giáo lý này vào dòng tâm và đưa chúng vào thực hành.

Bởi Kinh Địa Tạng có mười ba chương, chúng ta cần thực sự quen thuộc với nội dung của từng chương sau khi thọ nhận giáo lý. Ví dụ, nếu được hỏi chương Thần Thông Trên Cõi Trời Tam Thập Tam nói về điều gì và tại sao Đức Phật lại thuyết Pháp cho mẹ, chúng ta cần có câu trả lờirõ ràng. Trong chương mười hai, Những Lợi Lạc Từ Thấy Và Nghegiải thích những lợi lạcchẳng thể nghĩ bàn của Địa Tạng, bất cứ vị nào nghe được danh hiệu của Địa Tạng, thấy hình ảnh Địa Tạng, chạm vào tượng Địa Tạng hay thậm chí nhớ về Địa Tạng trong tâm sẽ đều có được công đức chẳng thể nghĩ bàn. Trong chương cuối cùngGiao Phó Nhân Thiên, Đức Phậtgiao phó những chúng sinh ngang bướngngoan cố trong thời suy đồi này cho Địa Tạng. Điều này cần khiến chúng ta tìm cách phát triển sự xác quyết mạnh mẽ về tầm quan trọng của việc người hiện đại chúng ta cầu nguyện đến vị Bồ Tát vĩ đại này, để chúng ta có thể được cứu khỏinhững cõi thấp.

Tôi cảm thấy phấn khởi và hoan hỷ khi dịch những giáo lý này. Thông thường, nhân viên làm việc trong một công ty cố gắng xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với lãnh đạo để mọi chuyện diễn ra thuận lợi hơn với họ. Điều tương tự cũng đúng với thực hành Pháp. Nếu chúng ta có thể thiết lậpmột kết nối tốt đẹp với Địa Tạng bằng cách học hỏi Kinh này, điều đó sẽ tạo ra những thuận duyên cho sự hành trì Giáo Pháp của chúng ta và nhờ đó, đem đến nhiều cát tường cho những khía cạnh khác trong cuộc sống.

CÂU CHUYỆN LINH ỨNG: HÌNH ĐỊA TẠNG TRÊN CÂY GẬY CHỐNG

Như đã nhắc đến trong bài giảng trước, tôi đã dịch một số câu chuyện linh ứng của Địa Tạngsang Tạng ngữ. Tôi tin rằng những bản Tạng ngữ sẽ hữu ích để chúng sinh tương lai phát khởiniềm tin với Địa Tạng Bồ Tát. Bây giờ, tôi muốn chia sẻ một câu chuyện như vậy từ Ghi Chép Ngắn Gọn Về Sự Linh Ứng Của Tam Bảo.

Dưới Triều Đường, người đàn ông họ Lưu đã tìm thấy một cây gậy chống trên đường sang nhà hàng xóm. Phía trên cây gậy có khắc một hình nhưng ông ấy chẳng biết hình đó là ai. Ông ấy mang cây gậy này về nhà, treo trên tường nhà và hầu như chẳng nghĩ đến trong suốt nhiều năm. Sau đấy, ông ấy qua đời vì một căn bệnh nhưng ngực vẫn còn ấm; vì thế, gia đình chưa chôn cất ngay. Sau một ngày và hai đêm, ông ấy tỉnh lại và bắt đầu khóc. Khi gia đình hỏi chuyện gì đã xảy ra, ông ấy kể cho họ điều mình đã trải qua trong Bardo.

Ông ấy nói rằng, sau khi chết, ông ấy được đưa đến gặp Thần Chết, vị rất dữ tợn và sẵn sàng tuyên án; rồi có một tu sĩ trông ngay thẳng, thậm chí có phần xấu xí. Thấy vị tu sĩ, Thần Chết xuống khỏi ngai, đỉnh lễ rồi hỏi rằng, “Bạch Đại Sư, điều gì đưa Ngài đến đây?”. Vị tu sĩ đáp, “Người đàn ông này là thí chủ của Ta, Ta đến cứu ông ấy”. Thần Chết nói với vị tu sĩ, “Cái chết của người này được nghiệp định sẵn và điều đấy là không thể đảo ngược; vậy làm sao Ngài có thể cứu ông ấy?”. Vị tu sĩ nói, “Khi Ta đang ở cõi trời Tam Thập Tam, Phật Thích Ca Mâu Ni đã giao phó mọi hữu tình chúng sinh, bao gồm cả những vị có nghiệp không thể thay đổi, cho Ta; vậy làm sao Ta có thể bỏ mặc ông Lưu và để ông ấy một mình?”.

Nghe vậy, Thần Chết nói, “Đấng tôn quý, quyết tâm của Ngài chẳng thể dao động như Núi Kim Cương, tôi sẽ thả ông ấy”. Sau đó, vị tu sĩ hài lòng, cầm tay và đưa ông Lưu đi. Vị tu sĩ đưa ông Lưu trở về thế giới trước kia và khi sắp rời đi, ông Lưu hỏi, “Này vị cao quý, Ngài là ai?”. “Ta là Địa Tạng. Ông đã đem một cây gậy chống có khắc hình Ta về nhà và treo trên tường nhà ông. Ta vẫn nhớ lòng từ ái mà ông dành cho Ta”. Vị tu sĩ đáp rồi bỗng nhiên biến mất.

Nhận ra rằng ông ấy đã được Địa Tạng cứu nhưng chưa bao giờ đối xử với hình Địa Tạng trên cây gậy bằng sự kính trọng thích đáng, ông Lưu vô cùng ân hận. Vì thế, ông ấy yêu cầu một thợ chạm phục hồi lại hình Địa Tạng phía trên cây gậy và trang nghiêm bằng màu sắc, đặt cây gậy trong nhà, nơi mà ông ấy đã xây dựng thành một ngôi chùa đặc biệt cho Đức Địa Tạng.

Theo quy tắc, định nghiệp không thể bị đẩy lùi và người ta phải chấp nhận những kết quả của nó. Nhưng bởi kết nối đặc biệt với Địa Tạng, hữu tình chúng sinh, đặc biệt là trong thời suy đồi, có thể thoát khỏi định nghiệp của họ và không phải chịu kết quả đau khổ. Trong Kinh Địa Tạng, Phật Thích Ca Mâu Ni đã ba lần giao phó hữu tình chúng sinh Nam Thiệm Bộ Châu cho Địa Tạng, yêu cầu Ngài cứu những chúng sinh với ác nghiệp này khỏi đọa vào cõi thấp. Như vậy, Đức Phật đã trao cho Địa Tạng sức mạnhgia trì đặc biệt, thứ cho phép Ngài đẩy lùi định nghiệp. Chân Ngôn Địa Tạng Trừ Định Nghiệp cũng rất mạnh mẽ trong việc đẩy lùi định nghiệp.

Chúng ta có thể rút ra ba nhận xét từ câu chuyện này. Đầu tiên, đừng phân biệt dựa trên vẻ ngoài của một bức tượng hay bức hình Địa Tạng, bởi thậm chí hình ảnh trông xấu xí cũng là đối tượng của sự tôn kínhcúng dường và cần được thờ phụng cung kính. Thứ hai, nương tựa sức mạnh của sự gia trì oai hùng từ Địa Tạng, một số trong những ác nghiệp nghiêm trọng của chúng ta, thứ không thể thay đổi, thực sự có thể được đẩy lùi và nhờ đó, chúng ta sẽ không đọa cõi thấp. Gần đây, một số đạo hữu, khi nghiên cứu Năm Mươi Đoạn Kệ Về Đi Theo Đạo Sư, đã nói với tôi rằng, “Tôi từng tranh cãi với đạo sư; vì thế, rất có thể là tôi sẽ tái sinh vào cõi thấp sau khi chết. Giờ đây, tôi vô vọng”. Thực sự, nhờ cầu nguyện đến Địa Tạng và nương tựa sự gia trìcủa Ngài, những lo lắng như vậy có thể được xoa dịu. Thứ ba, dẫu cho ông Lưu chỉ mang hình Địa Tạng về nhà và không dâng cúng dường nào hay bày tỏ lòng kính trọng, ông ấy vẫn được đối đãi như một thí chủ và được Địa Tạng cứu. Nếu chúng ta dâng cúng dườngcầu nguyệnđến Địa Tạng với lòng kính trọng và sùng mộ lớn lao, công đức tạo ra sẽ lớn hơn chẳng thể nghĩ bàn. Ba nhận xét này cần tăng cường thêm sự nhiệt thành và niềm tin của chúng ta với Kinh này và với thực hành Địa Tạng.

Phát triển niềm tin sâu sắc và có được sự sáng suốt về một số thực hành Pháp nhất định là điều rất quan trọng với mỗi một hành giả Phật giáo, tu sĩ cũng như cư sĩ. Dĩ nhiên, lý tưởng nhất là bạn có niềm tinkinh nghiệm cá nhân với mọi kiểu thực hành Pháp, dù đó là sự xả ly, Bồ đề tâm, vô thường, tính Không hay lòng bi mẫn. Tuy nhiên, điều này chỉ xảy ra với rất ít hành giả, những vị có căn cơ sắc sảo và công đức lớn lao. Thế nhưng, thậm chí nếu bạn không thể có kinh nghiệm cá nhân trong mọi thực hành, bạn ít nhất cần cố gắng phát triển niềm tin sâu sắc và không dao động với một hay hai thực hành nhất định. Niềm tin như vậy sẽ hỗ trợ sự dấn thân sâu hơn vào thực hànhcho phép bạn đạt được các thành tựu trong thực hành Pháp. Ví dụ, nếu bạn rất yêu thích giáo lý về vô thường và có sự xác quyết mạnh mẽ rằng giáo lý này có thể chuyển hóa tâm bạn thì sự tin tưởng và nhiệt thành đó sẽ cho phép bạn đi theo thực hành vô thường và có những tiến bộ rõ rệt.

Bởi căn cơ của mỗi người thì khác nhau rất nhiều, thực hành mà một người cộng hưởng hay cảm thấy yêu thích có thể không phù hợp với người khác. Một số hành giả thấy giáo lý về vô thường hữu ích; một số thấy sự xả ly lợi lạc; một số tin rằng cầu nguyện đến Địa Tạng thì oai hùng; trong khi số khác lại cho rằng giáo lý Dzogchen về bất nhị mới thật sâu sắc. Bất kể thực hành Pháp nào, chừng nào bạn thấy lợi lạc với bản thân, bạn cần tham gia với sự quán chiếu sâu sắc và thực hành theo để thực hành Pháp này chuyển hóa tâm thức bạn và đem đến cho bạn lợi lạc tuyệt vời, cả thế gian lẫn xuất thế gian.

Nếu bạn không có bất kỳ niềm tin với thực hành Pháp nào, bạn sẽ không đạt được bất kỳ kinh nghiệm cá nhân hay lợi lạc nào từ Giáo Pháp dẫu cho bạn có đang nghiên cứu chúng trong thời gian dài. Điều này tương tự với những học sinh trượt một môn học ở trường dù họ đã tham dựmọi lớp học về môn đó. Lý do chính là thiếu yêu thích và đam mê. Với những học sinh yêu thích một môn đặc biệt, chẳng hạn vật lý, toán hay hóa học, dù họ có thể không đạt điểm cao trong kỳ thi, họ vẫn sẽ có được những kiến thức giá trị nhất định nhờ học hỏi các môn.

Không có được bất kỳ kinh nghiệm cá nhân hay sự sáng suốt về bất kỳ thực hành Pháp nào, thậm chí những vị ở trong Tăng đoàn trong thời gian dài và học hỏi Giáo Pháp như mọi ngườikhác cũng sẽ thoái lui khỏi con đường Giáo Pháp khi những nghịch duyên xảy ra. Bởi vô thườngbản tính chân thật của mọi hiện tượng, bạn không thể mong chờ sẽ duy trì trong môi trường hiện tại mà nó không thay đổi. Vào lúc nào đó trong tương lai, rất có thể là bạn sẽ thấy bản thânsống ở môi trường hoàn toàn khác, nơi chẳng có những quan điểmhành vi Phật giáo và không có bất kỳ thuận duyên nào cho sự hành trì Giáo Pháp của bạn. Khi ấy, nếu bạn vẫn chưa có bất kỳ sự sáng suốt hay kinh nghiệm cá nhân về bất kỳ thực hành nào, có thể là bạn sẽ từ bỏviệc nghiên cứuthực hành Giáo Pháp, hay thậm chí tồi tệ hơn, còn phỉ báng Giáo Pháp.

Trong Cách mạng Văn hóa, những môn đồ Phật giáo, Tây Tạng cũng như Trung Quốc, đều bị buộc phải từ bỏ niềm tinphỉ báng giáo lý Phật một cách công khai, chẳng hạn thừa nhận rằng Tam Bảo không có sự gia trì, luân hồi không tồn tại và không có đời quá khứ hay tương lai. Trong quá trình đó, một số người rất kiên quyết trong việc giữ gìn niềm tin và không từ bỏ Tam Bảo trước những thử thách khắc nghiệt dù phải đánh đổi mạng sống; một số với thái độ trung lậpchẳng ủng hộ cũng chẳng phản đối tôn giáo của họ; trong khi một số sẵn sàng công khai từ bỏniềm tin và thậm chí còn tình nguyện nói trước đám đông rằng Phật giáo mê tín ra sao.

Tôi nhớ một buổi diễn thuyết công khai kiểu như vậy mà tôi từng tham gia tại quê nhà khi còn là cậu bé chăn Yak. Lần nọ, tôi được cha mẹ cho phép đến chơi và ngủ lại nhà dì. Đêm đó, cả nhà được yêu cầu đến một buổi gặp gỡ, trong đó, người diễn thuyết chính là một người đàn ông từng là tu sĩ. Ông ấy nói về các chủ đề như Tam Bảo không có giá trị ra sao và Phật giáo mê tín thế nào. Thành thật mà nói, tôi cảm thấy rất không thoải mái và muốn tranh luận với ông ấy nhưng dì véo tôi thật mạnh và ngăn tôi, “Đừng, nguy hiểm lắm!”. Như tôi được biết, ông ấy từng dạy người khác rằng “thiện giả thiện lai, ác giả ác báo” khi còn là tu sĩ. Nực cười thay, cũng chính từ miệng ông ấy, những lời phỉ báng nguyên tắc nhân quả lại tuôn ra. Ông ấy nói rất hùng hồn khi dạy người khác về quy luật nghiệp nhưng sâu trong tâm, chẳng có chút niềm tin chân thành nào.

Nhiều người các bạn ở đây không sinh ra với niềm tin Phật giáo hay lớn lên với Giáo Pháp. Thay vào đó, các bạn gặp được Giáo Pháp khi trưởng thành bởi những lý do khác nhau. Một số bước vào Giáo Pháp bởi khuynh hướng xả ly tiềm tàng từ những đời quá khứ thức tỉnh, và một số bởi họ tình cờ đánh nhau với kẻ khác và muốn thoát khỏi khổ đau. Với những người này, niềm tincủa họ còn yếu và có thể dễ dàng bị thỏa hiệp trước nghịch duyên. Tuy nhiên, khi họ đã có được sự sáng suốt sâu sắc và phát triển niềm tin mạnh mẽ với Giáo Pháp thì họ sẽ không dễ dàng từ bỏ con đường Giáo Pháp. Vì vậy, điều trọng yếu với mỗi một hành giả là phát triển tri kiến bám rễ sâu sắc trong Giáo Pháp như là nền tảng cho niềm tin của họ.

VÔ SỐ CHÚNG SINH ĐƯỢC ĐỊA TẠNG GIẢI THOÁT

Bấy giờ, Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát Ma Ha Tátrằng, “Hãy xem tất cả chư Phật, Bồ Tát, thiên, Long, quỷ và thần từ thế giới này cùng những thế giới khác, từ quốc độ này và những quốc độ khác – những vị bây giờ đã đến hội họp trong cõi trời Tam Thập Tam. Ông có biết số lượng bao nhiêu không?”.

Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Đức Phật rằng, “Bạch Đức Thế Tôn, thậm chí nếu con dùng thần lực tính đếm trong một nghìn kiếp cũng chẳng thể biết được”.

Ở đây, hai từ “thế giới” và “quốc độ” về cơ bản có cùng ý nghĩa. Trong các Kinh điển, dùng những từ khác nhau để diễn tả cùng ý nghĩa là điều khá phổ biến. Bởi hữu tình chúng sinh sở hữu căn cơsở thích khác nhau, một số hiểu rõ hơn khi dùng “thế giới” trong khi một số lại hiểu hơn nếu dùng “quốc độ”. Đây là lý do mà những từ tương tự sẽ xuất hiện cùng nhau trong Kinh điển để diễn tả cùng ý nghĩa.

Bởi rất nhiều chúng sinh đã đến cõi trời Tam Thập Tam, Đức Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi, vị Bồ Tátcủa trí tuệ, tổng số có bao nhiêu vị hiện diện. Thực sự là một vị toàn tri, Đức Phật biết chính xáccó bao nhiêu chúng sinh ở đó. Tuy nhiên, để khuyến khích những vị khác yêu thích Giáo Pháp, hoặc để xua tan nghi ngờ của hữu tình chúng sinh, chính Đức Phật đôi khi cũng chủ động đưa ra những câu hỏi.

Như tiểu sử của Văn Thù Sư Lợi hay nhiều Kinh điển Đại thừa như Trang Nghiêm Công Đức Cõi Phật Của Văn Thù Sư Lợi ghi chép, sức mạnh diệu kỳ và trí tuệ của vị Bồ Tát vĩ đại này thật chẳng thể nghĩ bàn và Ngài được xem là vị thù thắng nhất về trí tuệ. Ngài đã khuyến khích một nghìn vị Phật của Hiền Kiếp phát Bồ đề tâm. Nhưng thậm chí nếu Văn Thù Sư Lợi có tính đếm tổng số chúng sinh tham dự Pháp hội bằng trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn và sức mạnh diệu kỳ của Ngài trong một nghìn kiếp, Ngài cũng chẳng thể biết.

Thông thường, khi một Pháp hội lớn diễn ra, như chúng ta thấy ở Larung Gar, đám đông người dân sẽ tập hợp lại với nhau. Giống như vậy, khi Đức Phật sắp thuyết giảng trên cõi trời Tam Thập Tam, số lượng đám đông thậm chí còn chẳng thể nghĩ bàn hơn, giống như trường hợpđược miêu tả trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện, “Trong một vi trần, nguyện con thấy số Tịnh độnhiều như số vi trần trong vũ trụ và trong mỗi cõi, chư Phật vượt qua mọi tưởng tượng”. Như thế, trong một vi trần, có số cõi nhiều như số lượng vi trần trong vũ trụ và trong mỗi cõi như vậy lại có số lượng chư Phật, Bồ Tát và những vị khác chẳng thể tưởng tượng. Nếu bằng sức mạnh trí tuệbất nhị của Văn Thù Sư Lợi, thật khó để đếm số lượng thì thậm chí còn bất khả thi hơn để những chúng sinh bình phàm có giác quan bình phàm và ý nghĩ nhị nguyên tưởng tượng khung cảnh và đếm số lượng chúng sinh hội họp về đó.

Sự chứng ngộ của chư Phật và Bồ Tát thật chẳng thể nghĩ bàn và chẳng thể thăm dò; hoạt độnghoằng dương Giáo Pháp và làm lợi lạc hữu tình chúng sinh của nhiều đạo sư vĩ đại cũng vậy. Khi Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche đang tổ chức Đại Pháp Hội Cực Lạc tại lối vào thung lũng Larung Gar năm 1993, có hàng trăm nghìn người tham dự. Khi ấy, bất chấp sự thật rằng việc trao đổi [thông tin] không thuận tiện, việc đi lại còn khó khăn, và đặc biệt khó lan tỏa thông tin, vẫn có rất nhiều người đến tham dự Pháp hội Cực Lạc. Khi những nhân và duyên thích hợp hội tụ, những chuyện chẳng thể nghĩ bàn có thể tự nhiên xảy ra. Khi xem lại những bức hình được chụp về Pháp hội khi ấy, tôi vẫn sửng sốt trước đám đông dân chúng tập hợp về thung lũng hẻo lánh này hơn hai thập niên về trước.

Thực sự, khi một đạo sư vĩ đại hay Terton chuyển Pháp luân, ngoài con người, những vị mà chúng ta có thể thấy bằng mắt thường, cũng có những chúng sinh phi nhân khác nhau trong Pháp hội, những vị vô hình với chúng ta, chẳng hạn quỷ, thần, thiên, Long, Dạ XoaA Tu La. Có một phong tục là chư đạo sư vĩ đại thường đếm số lượng vị tham dự một Pháp hội nhiều hơn số lượng người thực sự có mặt. Ví dụ, nếu một trăm người tham dự thì tổng số những vị tham gia có thể được ghi chép là một nghìn, ám chỉ những chúng sinh phi nhân thêm vào, những vị cũng có mặt nhưng vô hình với chúng ta. Nếu chúng ta không làm thế, họ có thể không vui bởi không được xem xét đến trong Pháp hội.

Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng, “Khi Ta dùng Phật nhãn xem, số lượng vẫn còn chẳng thể đếm hết. Tất cả những vị này là chúng sinh đã được dẫn dắt, đang được dẫn dắt, sẽ được dẫn dắt đến [bờ bên kia], đã được đưa đến thành tựu, đang được đưa đến thành tựu hay sẽ được đưa đến thành tựu bởi Địa Tạng Bồ Tát trong nhiều kiếp lâu dài”.

Phật giáo nói về năm kiểu tầm nhìn hay năm [loại] mắt: mắt trần, mắt thiêng, mắt trí tuệ, mắt Pháp [Pháp nhãn] và mắt Phật [Phật nhãn]. Mắt Phật là trí tuệ nguyên sơ biết mọi khía cạnh – chân lý tương đốichân lý tuyệt đối – của mọi hiện tượng. Ở đây, Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng ngay cả khi nhìn tập hội bằng Phật nhãn, Ngài vẫn chẳng thể biết được số lượng chính xác tất cả những vị có mặt. Chúng ta có thể tưởng tượng khung cảnh khi ấy mới phi phàmtuyệt vời biết bao!

Dĩ nhiên, Phật Thích Ca Mâu Ni là vị đáng kính đã hoàn thiện sự xả ly và chứng ngộ, thế nhưng Ngài vẫn tuyên bố rằng Ngài không thể đếm hết. Đức Phật có lẽ dự định minh chứng và tán tháncông đức của Địa Tạng Bồ Tát bởi hầu hết chúng sinh hội họp trong cõi trời Tam Thập Tam đều có thiên hướng nghiệp sâu sắc với Địa Tạng: Một số đã được Ngài giải thoát, một số đang được giải thoát, một số sắp được giải thoát; và một số đã được đưa đến thành tựu, một số đang được và một số sắp được.

Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Đức Phật rằng, “Bạch Đức Thế Tôn, trong quá khứ, con đã trưởng dưỡng thiện căn lâu dàiđạt được trí tuệ vô ngại; vì thế, khi con nghe lời Đức Phật nói, con liền tin tưởngchấp nhận. Tuy nhiên, chư Thanh Văn thành tựu nhỏ, thiên, Long và những vị khác thuộc tám bộ chúng sinh, cũng như chúng sinh trong tương lai – mặc dù nghe được những lời chân thật của Như Lai, chắc chắn sẽ sinh lòng nghi ngờ. Thậm chí nếu họ đón nhận những lời này vô cùng cung kính, họ vẫn không thể tránh phỉ báng chúng. Bạch Đức Thế Tôn, xin hãy nói chi tiết về những thực hànhĐịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đã trưởng dưỡng và những lời nguyện mà Ngài đã phát trong trạng thái[trưởng dưỡng] nguyên nhân, điều cho phép Ngài hoàn thành được những hành động chẳng thể nghĩ bàn đến vậy”.

Như chúng ta vừa đề cập, Văn Thù Sư Lợi đã khuyến khích một nghìn vị Phật của Hiền Kiếpphát Bồ đề tâm; vì thế, chúng ta có thể mường tượng rằng Ngài đã trưởng dưỡng những thiện căn trong thực hành Đại thừa bao lâu. Kết quả là, Ngài đã đạt được trí tuệ mở rộngsâu xakhông chút chướng cản và nhờ đó, có thể hiểu và chấp nhận bất cứ điều gì mà Đức Phật nói. Không giống những vị Thanh Văn, thiên và Long cùng những vị khác trong tám bộ chúng sinh, cũng như chúng sinh trong tương lai, Ngài không có chút nghi ngờ nào về sự thậtĐức Phậttuyên thuyết, rằng vô số chúng sinh có kết nối sâu sắc như vậy với Địa Tạng.

Về các Giáo Pháp như nguyên tắc nhân quả hay sự thực chân chính của tính Không, một số người có thể tin tưởngchấp nhận ngay và có thể dễ dàng thấu triệt, trong khi số khác, với tà kiến mạnh mẽ, cực kỳ ngang bướng và bất kể họ được dạy giáo lý đó bao nhiêu lần, họ đơn giảnkhông chấp nhận chúng, hay thậm chí tệ hơn, họ có thể phỉ báng Đức PhậtGiáo Pháp bằng quan điểm thành kiếnthiên vị của bản thân. Tương tự, một số người có thể thấy trí tuệsức mạnh chẳng thể nghĩ bàn của Địa Tạng thực sự ấn tượng, cảm thấy được truyền cảm hứngmãnh liệt bởi giáo lý như vậy, trong khi số khác có thể từ chối như là điều gì đó nằm ngoài nhận thức thông thường của họ và xem nó là hoàn toàn không thể.

Điều gì tạo ra sự khác biệt đến mức một số người có thể trưởng dưỡng tri kiến đúng đắn và dễ dàng cộng hưởng với Giáo Pháp trong khi số khác cứ bám chặt lấy quan điểm sai lầm của họ và quay lưng lại với Giáo Pháp? Ở một mức độ nào đó, điều này là bởi lối sống hiện đại của chúng tasự giáo dục, thứ tập trung nhiều hơn vào chủ nghĩa duy vật và thuyết vị lợi, nhưng quan trọng hơn, nó liên quan rất nhiều đến thiên hướng nghiệp được vun bồi từ các đời quá khứ.

Tôi thường nghĩ rằng tôi chắc hẳn có kết nối thiện lành với Giáo Pháp trong các đời quá khứ bởi từ thời thơ ấu trong đời này, tôi vẫn luôn hài lòng khi thấy Kinh điểntượng Phật. Tôi cũng rất dễ tiếp nhận giáo lý Đại thừa và có thể dễ dàng thấu triệt chúng, dù đó là giáo lý về tính Khônghay lòng bi mẫnvị tha. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ về sự đáng tin cậy của chúng và tôi cũng chẳng có bất kỳ sự bác bỏ nào với chúng. Về việc kết nối như vậy chính xác là gì, có lẽ chỉ những vị có thần thông biết được đời quá khứ của bản thân và kẻ khác mới nói được.

Quay lại trường hợp Văn Thù Sư Lợi, bởi Ngài đã rèn luyện kỹ lưỡng trong Giáo Pháp trong vô số đời và đạt được trí tuệ thù thắng, Ngài có thể chấp nhận bất cứ điều gì mà Đức Phật nói ngay lập tức và không có chút nghi ngờ gì. Tuy nhiên, với những chúng sinh khác, đặc biệtchúng sinh bình phàm trong thời suy đồi này, sau khi nghe những lời chân thật của Đức Phật, mặc dù họ có thể tạm thời chấp nhận, bởi thiếu sự trưởng dưỡng trong Giáo Pháp sâu xa từ các đời quá khứ cũng như thiếu trí tuệ vun bồi nhờ lắng nghe, quán chiếuthiền định trong đời này, họ rất có thể vẫn nuôi dưỡng nghi ngờ về những lời kim cương của Đức Phật và có thể từ bỏ hay thậm chí phỉ báng chúng khi đối mặt với những thử thách nhất định. Ở đây, trong bản văn, thậm chí một số chúng sinh trong cõi trời Tam Thập Tam cũng vẫn thiếu năng lực hoàn toàn tin tưởngnhững phẩm tính của Địa Tạng, chứ đừng nói đến chúng sinh bình phàm trong thời suy đồi này, những vị chìm trong tà kiến của chủ nghĩa vĩnh cửuhư vô.

Để nói về nghi ngờ của những chúng sinh này, Văn Thù Sư Lợi thỉnh cầu Đức Phật nói về cách mà Địa Tạng đã hoàn thành những hoạt động chẳng thể nghĩ bàn như vậy, cách mà Ngài đã phát Bồ đề tâm thù thắngphát nguyện rằng “cho đến khi tất cả địa ngục chẳng còn hữu tìnhchúng sinh, tôi sẽ không thành Phật” và cách mà Ngài thực hành sáu ba la mật.

Phát khởi sự tin tưởng vững chắc với Đức Phật, nhận thức xác thực và giáo lý của Ngài, thứ phát lộ chân lý của mọi hiện tượng là chìa khóa để giải đáp rõ ràng những câu hỏi này. Điều này đòi hỏi tâm lý trí và thông minh mà nhờ đó, thậm chí nếu nghi ngờ hợp lý khởi lên với điều Đức Phật đã nói, sự tiến bộ vẫn có thể được tạo ra. Nhưng nếu chúng ta đơn giản phủ nhận điều Đức Phật đã nói bằng sự đánh giá mù quáng và thiếu lý trí của bản thân, chúng ta chỉ đang giữ tà kiến ngu dốt. Như trong Tứ Bách Kệ Tụng Trung Đạo có đề cập:

Bất cứ ai nghi ngờ điều Đức Phật đã nói

Về điều ẩn giấu

Cần nương tựa tính Không

Và đạt xác quyết với riêng Ngài.

Bất kể bạn có niềm tin với Giáo Pháp hay không, nếu bạn nghi ngờ giáo lý sâu xa, chẳng hạn đầu thaiquy luật nghiệp, trước tiên bạn cần cố gắng hiểu giáo lý của Đức Phật về tính Không. Điều này sẽ giúp đạt xác quyết với Đức Phật. Để xem xéttìm hiểu triết học tính Không, bạn có thể nương tựa bốn luận cứ lô-gích lớn của Trung Đạo, tức là (1) điều tra nguyên nhân: những Mảnh Vụn Kim Cương; (2) điều tra kết quả: bác bỏ những kết quả tồn tại hay không-tồn tại; (3) điều tra đặc điểm nhận dạng cốt yếu: không một cũng không nhiều; và (4) điều tra tất cả: Sự Phụ Thuộc Lẫn Nhau Vĩ Đại. Bạn cũng có thể phân tích giáo lý của Đức Phật bằng cách áp dụng kiến thức thế gian thích hợp. Nhờ nhận thức bao quát, bạn sẽ thấy giáo lý về tính Khôngchân thậtkhông thể phủ nhận và như thế, thuyết phục bản thân về tính đáng tin cậy của giáo lý Đức Phậtvà rằng chúng là nhận thức xác thực.

Mặc dù những nhà khoa học nổi tiếng như Einstein có đóng góp to lớn với nhân loại về sự phát triển khoa học, họ không bao giờ tiếp cận chân lý tuyệt đối của tính Không và họ trở nên yếu ớtvà dễ tổn thương khi đối mặt với lão, bệnh và tử. Nếu họ có cơ hội gặp được giáo lý về tính Không của Tổ Long Thọ, Nguyệt Xứng hay Thế Thân, trí tuệ của họ sẽ trở nên trọn vẹntriệt để. Ý tôi không phải là khuyến khích mọi nhà khoa học bước vào Giáo Pháp chỉ bởi vì tôi là Phật tử. Ý tôi là nếu ai đó, bất kể quốc tịch, địa vị xã hộiniềm tin tôn giáo, có thể tỉ mỉ phân tích và nghiên cứu giáo lý Phật về tính Không, họ sẽ khám phá ra chân lý của mọi thứ đằng sau vẻ ngoài của chúng. Khi ấy, họ sẽ bắt đầu hiểu và chấp nhận ý nghĩa sâu xa trong kim cương khẩucủa Đức Phật.

NHỮNG PHẨM TÍNH CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN CỦA ĐỊA TẠNG

Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng, “Ví như tất cả cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre, sậy, núi, đá, bụi bặm trong tam thiên đại thiên thế giới, mỗi thứ được tính là một đơn vị, và [với mỗi đơn vị], sẽ có một Sông Hằng; với mỗi hạt cát trong mỗi Sông Hằng trong những Sông Hằng này, có một thế giới; với mỗi hạt bụi trong mỗi thế giới này, sẽ có một kiếp; và với mỗi hạt bụi tích lũy trong mỗi kiếp trong những kiếp này, sẽ có một kiếp. Thời gian kể từ khi Địa Tạng Bồ Tát chứng Quả Thập Địa [của sự phát triển Bồ Tát] gấp hàng nghìn lần so với ví dụ kể trên. [Thời gian] từ khi Địa Tạng Bồ Tát ở trong các trạng thái của Thanh VănDuyên Giác Phật còn lớn hơn rất nhiều!

Ở đây, Đức Phật dùng một sự tương tự để miêu tả mức độ chẳng thể nghĩ bàn của những hành động vĩ đại mà Địa Tạng tiến hành từ vô thủy. Sự tương tự này có lẽ hơi khó nắm bắt bởi nó vượt khỏi sự hiểu thông thường của chúng ta. Những vị từng tìm hiểu A Tỳ Đạt Ma Câu Xá có thể biết rõ về một tam thiên đại thiên thế giới. Nó bao gồm một nghìn trung thiên thế giới, thứ lại bao gồm một nghìn tiểu thiên thế giới. [Mỗi tiểu thiên thế giới lại gồm một nghìn thế giới.] Mỗi thế giớiNúi Tu Ditrung tâm, được bao quanh bởi bảy đại dương và bảy dãy núi vàng chia tách chúng. Bên ngoài là bốn lục địa và tám tiểu lục địa. Toàn bộ thế giới này sau đó được bao quanh bởi những ngọn núi sắt bên ngoài. Như thế, một tam thiên đại thiên thế giới là một vũ trụ gồm một tỷ thế giới.

Số lượng của mọi thứ trong mỗi vũ trụ gồm một tỷ thế giới như vậy, bao gồm cỏ, cây, bụi rậm, lúa, mè, tre, sậy, núi, đá và thậm chí những hạt bụi rất nhỏ, chắc hẳn là vô số chẳng thể nghĩ bàn. Mỗi thứ trong số này được tính là một đơn vị; hãy tưởng tượng mỗi đơn vị đại diện cho một Sông Hằng, như thế, số lượng của tất cả những thứ này là số lượng của tất cả Sông Hằng. Trong mỗi Sông Hằngvô số hạt cát; mỗi hạt cát trong tất cả những Sông Hằng này đại diệncho một thế giới, như thế, chắc hẳn có vô số thế giới. Trong mỗi thế giới lại có vô số hạt bụi. Mỗi hạt bụi đại diện cho khoảng thời gian một kiếp, như thế, số lượng các kiếp bằng với số lượng hạt bụi trong tất cả vô số thế giới này; như vậy, chắc hẳn lại có vô số kiếp. Trong tất cả những kiếp này, mỗi hạt bụi tích lũy cũng đại diện cho khoảng thời gian của một kiếp. Theo cách tính này, chúng ta có thể tạm mường tượng mức độ chẳng thể tưởng tượng của số lượng tất cả những kiếp này!

Mặc dù khoảng thời gian như vậy dài chẳng thể tưởng tượng, nó ngắn hơn rất nhiều so với một phần nghìn thời gian kể từ khi Địa Tạng đạt được thập địa. Nếu chúng ta nói cụ thể hơn, lượng thời gian mà Ngài dùng để làm lợi lạc chúng sinh từ địa đầu tiên đến địa thứ chín, thời gian Ngài dùng để làm lợi lạc chúng sinh khi còn ở giai đoạn Thanh VănDuyên Giác Phật, và thời giankhi Ngài ở con đường của sự tích lũy và con đường của sự hợp nhất nhưchúng sinh bình phàm thậm chí còn lâu hơn. Vì vậy, thậm chí với một sự tương tự chẳng thể tưởng tượng như vậy, vẫn không thể hoàn toàn minh họa thời gianĐịa Tạng đã dùng để làm lợi lạc chúng sinhtrong quá khứ, cũng như số lượng chúng sinh bao la mà Ngài đã cứu độgiải thoát.

Chúng ta thực sự không phải làm toán về số kiếp trong phép tương đồng này; nó vốn đã bất khả thi ngay cả khi chúng ta chỉ phải đếm số hạt cát trên Sông Hằng. Vì vậy, lấy ví dụ, trong Nhập Trung Đạo của Tổ Nguyệt Xứng, khi những phẩm tính của Bồ Tát quá nhiều chẳng thể tính đếm, Nayuta [na do tha] và số lượng những hạt bụi nhỏ bé được dùng để miêu tả chúng. Để minh họa những phẩm tính của một Bồ Tát ở địa thứ chín, Tổ Nguyệt Xứng nói rằng:

Và bây giờ ở Thiện Huệ,

Mọi thiện hạnh được nhắc đến trước đó đều thuộc về chư vị,

Được nhân lên với tất cả hạt bụi tràn ngập

Mười lần một trăm nghìn vô số tỷ thế giới.

Về giáo lý Đại thừa sâu xa, có hai kiểu người có thể chấp nhận chúng: những vị không thông minh lắm, bởi họ thấy bản thân không thể nhận thức được giáo lý và cứ đơn giản chấp nhậnchúng, và những vị có căn cơ vô cùng thông tuệ sắc bén bởi họ có sự hiểu rõ ràng của giáo lýĐại thừa về sự thực chân chính. Những vị ở giữa là những vị thường khởi nghi ngờ. Tôi không chắc cách mà người ta chấp nhận một phép tương tự như vậy và khoảng thời gian mà nó truyền tải, nhưng những hoạt động bao la làm lợi lạc hữu tình chúng sinh của Địa Tạng trong vô số kiếp thực sự chẳng thể nghĩ bàn và chẳng thể miêu tảhoàn toàn vượt khỏi những ý nghĩ quan niệm của chúng ta.

Ở đây, tôi muốn làm sáng tỏ thêm về các đời quá khứ của Địa Tạng. Vài người các bạn có thể biết đến Địa Tạng như là một hoàng tử trước kia từ Silla tên là Kim Kiều Giác [Kim Gyo-gak], vị sinh năm 696 và mất năm 794. Ngài xuất gia và đến Núi Cửu Hoa để tu hành, nơi Ngài cuối cùngđạt chứng ngộ và cũng là nơi Ngài để lại nhục thân được giữ gìn tốt. Đây chỉ là một trong các truyền thuyết về những hóa hiện của Địa Tạng. Nếu người ta đơn giản xem đây là toàn bộ câu chuyện về các đời quá khứ của Địa Tạng thì đó là một sự hiểu rất hạn hẹp và một chiều về Ngài và trái với điều mà chúng ta sẽ học hỏi ở đây trong Kinh Địa Tạng.

Tôi không nói rằng Kim Kiều Giác không phải là một nhân vật lịch sử thật sự và câu chuyện cuộc đời Ngài không phải là lịch sử chân thật. Nhưng sự hiểu của chúng ta với Địa Tạng không nên bị hạn chế bởi điều này. Hãy nghĩ về số lượng hữu tình chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn mà Địa Tạng đã điều phục trong vô số đời, một hoạt động lớn lao như vậy thì thậm chí hàng vạn Kim Kiều Giác cũng chưa thể hoàn thành. Do vậy, cần phải rõ ràng là Kim Kiều Giác chỉ là một trong vô số hóa hiện của Địa Tạng.

Tôi cũng không nói rằng Núi Cửu Hoa không phải là đạo tràng giác ngộ của Địa Tạng. Khi Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche còn trụ thế, Ngài đã dự định viếng thăm Núi Cửu Hoa để hành hương chiêm bái Địa Tạng. Trong chuyến hành hương đầu tiên của Ngài đến vùng Trung Hoa vào năm 1987, Ngài chỉ thăm Ngũ Đài Sơn, nơi Văn Thù Sư Lợi cư ngụ và Núi Nga Mi, nơi Phổ Hiền cư ngụ. Trong chuyến hành hương thứ hai đến vùng Trung Hoa vào năm 1997, Ngài dự định viếng thăm Núi Kê Túc nơi Di Lặc nhập định, cũng như tất cả bốn ngọn núi thiêng của Phật giáo ở vùng Trung Hoa. Chuyến đi được lên kế hoạchtrước tiên đến Núi Nga Mi, sau đó Núi Kê Túc, Núi Phổ Đà, nơi Quán Thế Âm cư ngụ, Núi Cửu Hoa và cuối cùngNgũ Đài Sơn. Không may thay, sau khi Ngài viếng thăm ba ngọn núi đầu tiên và sắp đến Núi Cửu Hoa, Ngài không nhận được sự cho phép từ chính quyền và chuyến đi buộc phải hủy. Điểm chính yếu của tôi là Núi Cửu Hoa là đạo tràng giác ngộ của Địa Tạng, nhưng câu chuyện cuộc đời Ngài không dừng lại ở Kim Kiều Giác và hoạt động làm lợi hữu tình chúng sinh của Ngài cực kỳ bao la và sâu sắc.

Nhiều người nghĩ rằng Văn Thù Sư Lợi thù thắng về trí tuệ và Ngài là vị Bồ Tát vĩ đại bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng Địa Tạng chỉ là vị tu sĩ ở Núi Cửu Hoa mà chẳng có tiểu sử gì thêm. Đây không phải là một quan điểm có cơ sở về Địa Tạng. Tôi đã dịch Tiểu Sử Tám Đại Bồ Tát sang tiếng Trung và bản Anh ngữ cũng có sẵn. Người ta cần tìm hiểu thêm về những phẩm tính và hoạt động chẳng thể nghĩ bàn của những Bồ Tátđại từ cuốn sách này.

Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni nói về Địa Tạng như thế này với Văn Thù Sư Lợi:

“Này Văn Thù Sư Lợi, oai thầnthệ nguyện của Bồ Tát này thật chẳng thể nghĩ bàn. Trong tương lai, nếu có thiện namthiện nữ nghe được danh hiệu của Bồ Tát này và họ hát lên những lời tán thán, cung kính chiêm ngưỡng, bày tỏ lòng kính trọng, tụng danh hiệu, dâng các cúng dường hoặc nếu họ vẽ, khắc, đắp hay dùng sơn mài để làm hình Ngài, những người này sẽ tái sinh một trăm lần trong cõi trời Tam Thập Tam và sẽ chẳng bao giờ đọa vào cõi thấp.

Ở đây, chúng ta tìm hiểu tại sao vị Bồ Tát Địa Tạng vĩ đại này lại có thể hoàn thành những hoạt động giải thoát hữu tình chúng sinh tuyệt vời đến vậy. Điều này là bởi sức mạnh thần thôngchẳng thể nghĩ bàn và những lời nguyện bao la của Ngài. Điều này cũng giải thích tại sao hoạt động giác ngộ của những đạo sư vĩ đại khác nhau có thể rất khác biệt: Một số đạo sư rất oai hùng trong việc điều phục hữu tình chúng sinh và tiến hành những hoạt động bao la, trong khi một số đạo sư xuất hiện là ít oai hùng hơn nhiều và hoạt động của chư vị cũng không ấn tượngnhư vậy. Khả năng làm lợi lạc hữu tình chúng sinh và mức độ mở rộng của các hoạt động liên quan nhiều đến thần thông của chư vị và lời nguyện mà chư vị đã phát trong quá khứ.

Bởi Địa Tạng sở hữu sức mạnh và những lời nguyện chẳng thể nghĩ bàn như vậy, nếu ai đó khi nghe được danh hiệu của Ngài lại tôn kính Ngài bằng bất kỳ cách nào, chẳng hạn tụng danh hiệucủa Ngài, tán thán, kính lễ, đỉnh lễ, dâng các cúng dường với hoa, hương và đèn, người này sẽ tái sinh trong cõi trời Tam Thập Tam một trăm lần và không bao giờ đọa vào ba cõi thấp – cõi địa ngục, cõi ngạ quỷcõi súc sinh. Điều tương tự cũng xảy ra với những vị làm hình Ngài, bất kể hình ảnh đó theo truyền thống Phật giáo Trung Hoa hay Phật giáo Tây Tạng. Bằng cách vẽ những Thangka đầy màu sắc và bức hình Địa Tạng, khắc hình Ngài trên ván gỗ hay kim loại, làm hình sơn mài hay khắc tượng Ngài bằng các chất liệu khác nhau, dù là đồng, vàng, đá hay bất kỳ chất liệu mới nào khác, người này chắc chắn sẽ thoát khỏi cõi thấp.

Bây giờ bạn biết rằng Kinh Địa Tạng thực sự là một Kinh điển vĩ đại, có thể giải thoát vô sốchúng sinh. Tôi hy vọng rằng nếu thời gian cho phép thì các bạn sẽ tụng Kinh này càng thường xuyên càng tốt. Có một Kinh rất ngắn gọi là Phật Thuyết Bồ Tát Địa Tạng Kinh. Một bản thảo được viết lại từ xa xưa của Kinh này được tìm thấy trong các hang động Đôn Hoàng và hiện được lưu giữ tại Thư Viện Quốc Gia Pháp. Kinh này nói rằng bất kỳ ai tụng danh hiệu của Địa Tạng cũng như Kinh của Ngài sẽ tái sinh về Cực Lạc. Do đó, điều cốt yếu với những vị khát khao tái sinh Cực Lạctụng Kinh Địa Tạngdanh hiệu của Địa Tạng.

Tụng Kinh Địa Tạngdanh hiệu của Địa Tạng có thể giúp đảm bảo rằng chúng ta không đọa vào cõi thấp. Bởi tất cả chúng ta đã từng phạm vô số ác hạnh trong đời này và những đời quá khứ từ vô thủy, chúng ta cần hết sức quan tâm đến việc đọa vào cõi thấp sau khi chết. Nếu chúng ta không có khả năng đảm bảo sự tái sinh về Cực Lạc hay thành tựu thân cầu vồng trong đời này, chúng ta cần ít nhất tìm cách đảm bảo không tái sinh vào cõi thấp bằng cách nương tựa sức mạnh của Địa Tạng. Tôi nghĩ điều này liên quan đến mỗi một hành giả bởi nếu người ta đọa vào cõi thấp, họ sẽ không thể thoát ra trong thời gian vô cùng dài. Thậm chí sau khi thoát khỏiđó, họ chắc chắn sẽ tái sinh làm người tàn tật, chẳng hạn như bị mù, điều đem đến vô số phiền não. Do đó, điều vô cùng quan trọng với chúng tatụng Kinh Địa Tạngdanh hiệu của Địa Tạng như một phần trong thực hành căn bản của mình.

Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche đã truyền bá rộng rãi thực hành Địa Tạng trong cuộc đời Ngài và nhấn mạnh nhiều vào việc tụng danh hiệu của Địa Tạng cũng như tổ chức Pháp hội Địa Tạnghằng năm. Tuy nhiên, có lẽ bởi khi ấy tôi còn quá trẻ để suy nghĩ sâu xa, tôi đơn giản nghĩ rằng bất cứ điều gì Kyabje Rinpoche nói đều quan trọng nhưng chẳng bao giờ thực sự quán chiếu tại sao trong Tám Đại Bồ Tát, Ngài chỉ nhấn mạnh việc tụng danh hiệu của Địa Tạng. Như Kyabje Rinpoche nói, một mặt, thực hành Địa Tạngcần thiết với cộng đồng Tăng đoàn tại Larung Gar để tránh những khó khăn, chẳng hạn thiếu thức ăny phục; nhưng quan trọng hơn, mong ướchàng đầu của Kyabje Rinpoche là bất kỳ ai kết nối với Ngài đều tái sinh về Cực Lạc thay vì đọa vào cõi thấp. Chỉ từ năm nay, khi tôi chuyển dịch Kinh này và hiểu kỹ hơn về những công đứccủa Kinh này thì tôi mới có được sự hiểu sâu sắc hơn về những lời của Kyabje Rinpoche và tại sao mà Ngài tích cực truyền bá thực hành Địa Tạng suốt những năm đó.

Tôi đã đi theo và nương tựa sự hướng dẫn của Kyabje Rinpoche trong 19 năm và đồng hành với Ngài nhiều lần trong những chuyến hoằng pháp bên ngoài Larung Gar. Khi tôi ở Larung Gar, tôi chưa bao giờ bỏ lỡ một thời giảng dạy của Ngài. Ngài thường trao cho chúng tôi những chỉ dẫnbổ sung về các vấn đề cụ thể trước và sau lớp học. Dẫu cho tôi thực sự tin tưởng lời Ngài, tôi chưa bao giờ hoàn toàn hiểu những chỉ dẫn của Ngài và vì thế, chẳng thể chú trọng đầy đủ về chúng. Bây giờ khi Kyabje Rinpoche không còn trên thế gian này, càng nghĩ về những lời của Ngài, tôi càng cảm thấy rằng mọi điều Ngài nói đều truyền tải ý nghĩa sâu xa và có mục đích đặc biệt, sâu sắc với vô số chúng sinh.

HỒI HƯỚNG

Cầu mong công đức từ tác phẩm này có thể góp phần

cho sự trường thọ của tất cả đạo sư vĩ đại,

cho sự phát triển của Phật Pháp và cho sự an lành của mọi hữu tình chúng sinh

Ở mức độ lớn nhất có thể!

Nguồn Anh ngữ: https://khenposodargye.org/books/ebooks/original-vows-of-ksitigarbha-bodhisattva-sutra/.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.