MAI V�NG �NH ĐẠO Xu�n Đinh Hợi 2007 H.T TH�CH NHẬT QUANG | ||
TINH THẦN TU HỌC CỦA NGƯỜI CON PHẬT H�m nay l� ng�y đầu năm, với t�m th�nh ch�ng ta hướng niệm ch�c nguyện cho Phật ph�p c�n m�i tr�n thế gian để mọi lo�i đều được thấm nhuần mưa ph�p, ng� hầu cuộc đời hết khổ được vui. Trong buổi n�i chuyện đầu năm tại tổ đ�nh Thiền viện Thường Chiếu, ch�ng t�i muốn nhắc nhở qu� Phật tử tinh thần tu học của người con Phật. Bởi v� nhiều Phật tử đi ch�a nhưng người th�n kh�ng hoan hỷ. B�y giờ qu� vị tu h�nh thế n�o để người chung quanh dần dần bớt đi những chướng ngại. C� thế việc tu tập mới lợi lạc, chớ c�ng đi ch�a m� t�nh cảm gia đ�nh c�ng đổ vỡ th� Phật ph�p kh�ng thể tồn tại tr�n thế gian được. Mẹ đi ch�a con kh�ng đồng �, anh chị đi ch�a, em �t b�i b�c. Những trường hợp như thế, nếu qu� vị kh�ng để �, cứ l�m tới một thời gian, nhất định sẽ đổ th�i. V� vậy Phật tử n�n quan t�m đến vấn đề n�y để c� thể thực hiện t�m nguyện tu h�nh của m�nh, kh�ng l�m thương tổn đến người th�n. Hay hơn nữa l� chuyển h�a cả gia đ�nh đồng t�nh, ủng hộ v� tham gia tu tập với m�nh. Được vậy mới thật xứng đ�ng l� con của Phật.� T�i c� một người huynh đệ rất th�ng minh, thường về thiền viện thăm t�i. Anh nghịch với b� chị d�u trong nh� n�n cứ theo d�i, đợi b� chị c� sơ hở l� tấn c�ng liền. Nguy�n nh�n l� v� anh kh�ng chấp nhận ph�p tu của b� chị d�u. Một h�m kh�ng cho b� chị biết, anh đến chỗ vị thầy của người chị. Sau khi quan s�t v� nghe c�ch n�i chuyện của vị thầy, anh biết đ�y kh�ng phải l� người tu ch�n ch�nh.� Bởi v� chủ đ�ch của đạo Phật l� gi�c ngộ giải tho�t, nhưng vị thầy ấy dạy m�n đệ của m�nh cứ lập gia đ�nh, c� vợ con sẽ được kho�i lạc tự tại. Kể từ đ� anh b�i b�c, phản đối b� chị d�u triệt để, dẫn tới kết quả hai chị em bị nghịch nhau rất quyết liệt, kh�ng thể th�ng cảm được. T�i muốn n�i trường hợp trong nh� c� những người th�n học đạo, c�ng hướng về Tam bảo nhưng kh�ng đồng quan điểm, nếu kh�ng h�a giải được, qu� vị sẽ l�m hỏng cả c�ng phu của m�nh v� những người chung quanh. Trường hợp n�y m�nh phải l�m sao? Đ�y l� vấn đề đ�i hỏi ch�ng ta phải tế nhị. Tế nhị ở chỗ tinh thần, ph�p h�nh, tư c�ch của mỗi người. Ch�ng ta tu theo đạo Phật nhất định phải giữ sự thanh tịnh cho m�nh v� người. Nếu kh�ng thanh tịnh giải tho�t th� d� l�m g�, được g� chăng nữa cũng phi ph�p. T�i cũng đồng � với người huynh đệ tr�n tinh thần tu tập, nhưng c�ch h�nh xử của ch�ng ta phải t�y duy�n, s�ng suốt mới kh�ng g�y phiền n�o cho m�nh v� người. Cốt tủy l� như vậy nhưng m�nh phải nu�i dưỡng, ph�t huy, gia t�m thực h�nh chứ kh�ng phải n�i m� được. T�i khuy�n người huynh đệ, phải c� th�i độ trao đổi, thiện ch�, vị tha để n�ng đỡ, hỗ trợ nhau tr�n bước đường tu học, kh�ng thể c� th�i độ, ng�n ngữ đả k�ch bắt người ta phải nghe theo m�nh. Bởi v� mỗi ch�ng ta l� một ch�ng sinh đang nỗ lực tu, n�n lời n�i của m�nh c� giới hạn của n�. Ta phải sử dụng ng�n ngữ thật tế nhị. T�i thấy anh bạn của m�nh kh�ng được tế nhị. Tại sao? V� anh nghĩ m�nh l� em, l� người th�n n�n đối với b� chị, tuy anh n�i đ�ng nhưng c�ch n�i kh�ng đ�ng, do vậy b� chị kh�ng chịu nghe. Do vậy t�i đề nghị anh phải chỉnh lại chỗ n�y. Qu� Phật tử lưu � đạo đức, tư c�ch của m�nh rất quan trọng đối với người th�n. Thế hệ trẻ ng�y nay khi được cha mẹ nhắc nhở, n� n�i mai mốt con l�n con m�c thầy ba c�n đi chơi, c�n h�t thuốc m� lại rầy con. Như vậy l� biết m�nh c�n chưa ổn. Một ch�t như vậy th�i, nếu mấy đứa nhỏ n�u l�n, r� r�ng m�nh c� vướng. V� vậy tư c�ch, đạo đức thể hiện qua tinh thần của đạo Phật, phải đi từ sự thể nghiệm chắc thực trong cuộc đời tu h�nh, chứ kh�ng phải n�i khơi khơi cho thỏa th�ch. Đạo Phật kh�ng chấp nhận như vậy. Cho n�n ch�ng ta phải x�t lại nội t�m khi tu, phải sống thật đạo đức v� n�ng cao đạo đức t�m linh ng�y c�ng trong s�ng hơn. C� khi v� những c�i lợi nho nhỏ, ch�ng ta lại l�m mờ đi �nh s�ng t�m linh. Nếu người c� c�ng phu, thực sự thể nghiệm th� t�m chẳng những y�n m� c�n s�ng nữa. Khi n�o t�i nh�n c�i g� cũng bực bội hết l� biết c�ng phu của m�nh lượm thượm, kh�ng tốt n�n sự thể hiện ra ngo�i bất ổn. Sự thể hiện ra ngo�i bất ổn th� đụng, giống như lửa với lửa đụng nhau, cứng với cứng cộm nhau, nhọn với nhọn choảng nhau. Trong kinh n�i một vị chứng th�nh, tất cả lo�i hữu t�nh chung quanh vị đ� đều được ảnh hưởng sự an lạc. Đ� l� biểu hiện nội tại của những bậc th�nh c� c�ng đức lực. Th�nh nh�n l� những vị trải qua thời gian tu h�nh mi�n mật, l�u xa, nội tại đầy đủ, kh�ng bị khiếm khuyết trong c�ng phu. Như ch�ng ta b�y giờ tu chưa tới đ�u, phải gắng gổ lắm mới được một ch�t khinh an, l�m sao c� đủ c�ng đức như c�c ng�i. Tuy nhi�n nếu quyết t�m, m�nh cũng sẽ đi đến chỗ cứu k�nh ấy. B�y giờ ch�ng ta l�m, ch�ng ta sống với quyết t�m nhất định sẽ đi đến đ�ch. C�ng đức lực tức l� sức mạnh của việc l�m ch�n ch�nh bền bĩ m� ra. N� vi�n m�n, tr�n đầy, vững chắc th� th�nh lực. Ngay như trong nh� hoặc bố mẹ, hoặc anh chị, hay những đứa em, nếu người thực sự c� chất đạo đức, qu� vị tiếp x�c với họ c� cảm nhận kh�c. C�n người biểu hiện c�ch sống theo bản ng�, theo nghiệp lực th� khi tiếp x�c qu� vị thấy kh�c. Do vậy với người tu, tinh thần g�n giữ giới luật, tập trung đời sống theo hướng tịnh h�a th�n t�m phải lu�n lu�n đặt h�ng đầu. Một khi ch�ng ta kh�ng tự kiểm, kh�ng l�m chủ được, tập th�nh th�i quen xấu rồi th� theo nghiệp lu�n chuyển m�i. Chỉ c� đạo lực, c�ng phu mới thắng, mới dừng được nghiệp. Kh�ng ti�u h�a nổi phiền n�o, n� sẽ bung ra �nh mắt, cử chỉ, ng�n ngữ� d� l� một h�nh động nhỏ th�i, nhưng cũng sẽ l�m cho người đối diện kh�ng d�m hay kh�ng muốn đứng gần. C�ng đức lực của c�c vị đại Bồ t�t rất lớn. Như Bồ t�t Qu�n Thế �m, một bước đi của ng�i chấn động cả tam thi�n đại thi�n thế giới, mọi người đều cảm nhận an lạc, chẳng những lo�i người m� những lo�i kh�c cũng vậy. Bước ch�n của Bồ t�t Đại Thế Ch� ph�t ra h�o quang s�ng suốt, hương thơm lan tỏa, đem đến sự an ổn cho ch�ng hữu t�nh. Người tu ch�ng ta phải lu�n tế nhị x�t lại để bảo vệ chủng tử Phật nơi ch�nh m�nh. Ch�ng ta phải giải trừ, cắt bỏ những g� kh�ng cần thiết, l�m chướng ngại c�ng phu tu h�nh của m�nh. L�c n�o cũng nghĩ nhớ đến mục đ�ch v� gi�c ngộ giải tho�t m� gạt qua mọi vọng tưởng đảo đi�n, quyết bảo vệ kỳ được c�ng phu tu h�nh. Đ� l� gi� trị đạo đức chắc thực của người tu. Ch�ng ta c� nh�n duy�n to lớn mới gặp Phật ph�p, c� điều kiện ph�t huy trọn vẹn nh�n duy�n đ� m� kh�ng chịu cố gắng th� thật đ�ng tiếc. Cho n�n qu� Phật tử đừng bao giờ bỏ qua cơ hội n�o để th�nh tựu đạo nghiệp cho m�nh. Bởi v� một khi ch�ng ta bỏ qua rồi kh�ng biết bao giờ mới gầy dựng lại được. Trong đời sống, ch�ng ta lu�n đối đầu với tham s�n, phiền n�o. Đừng n�i những vấn đề lớn lao như tr�ch nhiệm đối với đo�n thể, x� hội, nội chuyện bản th�n m�nh th�i, c� khi ta thấy bực bội hết sức. V� dụ l�c tết, m�nh đ�u muốn bệnh m� n� ho, m�nh đ�u muốn chảy mũi m� n� cứ kh� khịch, c�i th�n n�y b�y ra đủ chuyện. C� khi m�nh thấy nổi n�ng với n� m� rồi chẳng l�m g� được n�. C� nhiều người nam n�ng dằn kh�ng được, đập b�n một c�i rầm. Sau đ� nghĩ lại tức cho m�nh, đập như vậy th� được g� đ�u, chỉ thấy kh�ng th�m chứ c� lợi �ch chi. Cho n�n Phật tử l�m sao giải trừ được những nghiệp tập, những chủng tử m�nh đ� hu�n tập từ nhiều đời. Nếu xem thường, kh�ng tu tập, kh�ng chuyển h�a th� nhất định sức nghiệp sẽ k�o l�i qu� vị đi theo n�. N�i đến nghiệp lực, t�i nhớ c�u chuyện n�y. C� một vị tăng đ� xuất gia, ban đầu ph�t t�m tu h�nh mạnh lắm. Thầy ăn n�i lưu lo�t, tr�i chảy n�n đi theo con đường diễn giảng. Do vậy nghi biểu b�n ngo�i thầy phải g�n giữ kỹ lưỡng. Thầy kể khi chưa tu, gia đ�nh c�ng chức tương đối cũng c� tiền. Cứ chiều lại cả nh� đều đi ăn tiệm, th�nh ra rất quen m�i vị của tiệm. Đến khi xuất gia, trong ch�a cấm kh�ng cho như thế. V� sao cấm? V� nếu một �ng thầy tu v�o tiệm ngồi, Phật tử sẽ đ�m tiếu. C� những người kh�ng từng đi ch�a, kh�ng phải Phật tử, m� thấy �ng thầy v� tiệm ăn l� họ phản đối. Đ� l� v� tinh thần đạo đức, v� muốn bảo vệ �ng thầy, bảo vệ Phật ph�p. Họ tỏ th�i độ khinh ch� như thế để m�nh chỉnh đốn lại. Kể từ l�c xuất gia l�m giảng sư thầy tiu nghỉu mỗi khi đi ngang qu�n ăn. Ban đầu thấy kh� khăn, sau cũng quen dần. Về gi�, gần bảy mươi tuổi thầy thấy việc hoằng ph�p đ� mệt mỏi, n�n xin gi�o hội ở y�n tu h�nh. Thầy cất một c�i thất trong ng�i ch�a tại th�nh phố. Đến l�c ấy tự nhi�n thầy trở n�n hư hỏng, những l�c đi ngang tiệm ăn, tự nhi�n m�i vị ng�y xưa sống lại mạnh mẽ, thầy muốn dừng lại. Thầy cũng kh�ng hiểu tại sao b�y giờ m�nh gi� m� lại dở như vậy. Gặp t�i thầy hỏi tại sao, t�i c� biết tại sao đ�u, nhưng cũng khuy�n thầy đừng đi ngang chỗ đ� nữa. Nếu đi ngang dừng lại ho�i, c� khi thầy gh� v�o lu�n. Quả nhi�n như thế. H�m đ� gi�p tết, thầy c� việc đi đ�u một m�nh, ngang chỗ ấy thầy ngập ngừng, cuối c�ng bước v� lu�n. Chủ tiệm ra hỏi thầy mua c�i g�? Thầy n�i đ�u c� mua g�. Mấy người trong tiệm phở nghĩ chắc thầy kh�ng b�nh thường n�n họ mời thầy đi ra. Thầy thấy xấu hổ qu� v� kể lại cho anh em nghe về sức mạnh của nghiệp đ� l�i dẫn một �ng thầy tu bảy mươi tuổi như thế.� Qu� vị thấy chủng tử nghiệp thấm trong người m�nh kh�ng phải một đời n�y đ�u m� đ� nhiều đời hu�n tập. V� vậy n� c� sức mạnh, đến một vị tăng gi� cũng kh�ng chống cự lại nổi. Đối với �ng thầy lớn tuổi c�n như vậy, h� huống c�c thầy trẻ, cho n�n thầy ấy đề nghị qu� thầy trẻ l�n n�i ở. T�i n�i l�n n�i rồi cũng đi xuống, kh�ng lẽ ở tr�n đ� ho�i. Thầy n�i nhưng cũng đỡ hơn, c� cơ hội tr�nh duy�n. Điều n�y trong kinh Phật cũng dạy m�nh n�n tr�nh duy�n. Đ� yếu m� đi v�o những chỗ l�i cuốn ấy ho�i, dần dần n� hu�n đậm th�m th� sẽ chạy theo lu�n. Đ� l� c�u chuyện về nghiệp lực, t�i kể qu� vị nghe để huynh đệ thận trọng g�n giữ bảo vệ đời tu của m�nh. Trong điều kiện x� hội văn minh hiện nay, người tăng sĩ rất kh� tu, kh� giữ m�nh. Hồi xưa xuất gia ở những ng�i ch�a qu�, trọn đời ở y�n trong đ�, chiếc xe hơi c�n kh�ng biết huống l� chuyện g� kh�c. Vậy m� dễ tu, dễ sống với c�i ch�n thật của m�nh. C�n b�y giờ văn minh tiến bộ qu� chừng, chuyện tr�n trời tr�n m�y g� mở m�y vi t�nh ra l� biết hết, mấy đứa nhỏ bỏ ăn, bỏ ngủ, bỏ nh�, d�n con mắt trong tr� chơi điện tử. Ở gần đ�y c� một đứa b� c�n nhỏ x�u, s�ng m� n� cho tiền ăn s�ng. N� kh�ng ăn m� đi thẳng v� qu�n chơi điện tử. Tới trưa ở nh� tr�ng ho�i kh�ng thấy về mới đi t�m. Cuối c�ng ph�t hiện n� trong qu�n chơi game, m� n� dẫn về. Tới nh� n� t� xỉu, hỏi ra mới biết n� đ�i bụng qu�, chớ kh�ng bệnh hoạn chi cả, cho một t� cơm l� khỏe ngay. Ho�n cảnh ch�ng ta b�y giờ l� nh�n tố t�c động l�m cho việc tu h�nh kh�ng b�nh thản như xưa. T�i n�i như vậy kh�ng c� nghĩa l� ch�ng ta chạy trốn ho�n cảnh hiện tại, đi t�m b�nh thản ở đ�u. Nếu trong l�ng m�nh kh�ng y�n th� chắc chắn ở đ�u cũng kh�ng y�n. Ở tr�n n�i cũng phải tuột xuống kiếm tiền về trần gian th�i. Do vậy việc ch�nh của người tu l� giữ c�i t�m của m�nh. T�m n�o? T�m thường biết r� r�ng đ�y. V� dụ ch�ng ta nh�n c�i nh� biết c�i nh�, nh�n c�y đ�n biết c�y đ�n, c�i biết ấy tạm gọi l� t�m. Nếu kh�ng c� t�m l�m sao ch�ng ta biết được. Cho n�n c�i biết l� năng dụng của t�m. Người tu thiền phải nhắm thẳng t�m đ�, bảo vệ ph�t huy. Nếu ch�ng ta kh�ng quay trở lại với t�m ch�n thật sẵn c� n�y, cứ chạy ra ngo�i th� giống như người bỏ nh� đi ra đồng vậy. Người tu m� cứ chạy ra ngo�i th� kh�ng biết tu c�i g�. Bởi v� việc ch�nh của ch�ng ta l� phải sống, phải nhận lại t�m ch�n thật của m�nh. Kiểm nghiệm lại qu� vị thấy, nếu kh�ng kh�o ch�ng ta cứ lẻo đẻo chạy theo trần cảnh. V� dụ ngồi đ�y m� nghe m�i g� đ� l� lao theo, thấy người thấy vật liền dấy niệm lao theo. C�i dấy niệm lao theo n�y nặng nề lắm. Như đang trong hiện tại, qu� vị c� một dấy niệm lui về bảy t�m năm về trước, giờ n�y m�nh đang ở đ�u, l�m g� Vọng tưởng d�i d�i nhưng n�o c� biết, cứ lao theo rồi ngồi đ� m� gục gặt với qu� khứ. Buồn vui thay nhau h�nh hạ ch�ng ta. Vọng tưởng, dẫn đi l�m khổ m�nh như vậy nhưng kh�ng ai d�m bu�ng bỏ n�. Đ�i khi muốn bu�ng m� bu�ng kh�ng được. Nếu ch�ng ta kh�ng tỉnh, kh�ng s�ng suốt, kh�ng nhận được t�m thể th� kh� y�n với vọng tưởng lắm. Do vậy kh�ng l�m chủ được c�c dấy niệm th� khổ th�i. Dấy niệm lao theo kh�ng dừng được l� khổ rồi, sau đ� phải đối đầu với những dấy niệm như thế n�o, c�n khổ hơn nữa. Cho n�n khổ lại c�ng khổ, kh�ng l�m sao dừng được. Trong đời sống, ch�ng ta dễ bị trở ngại bởi danh văn lợi dưỡng. C� khi m�nh d�m bỏ c�i lớn lao của c�ng đức tu h�nh để được một ch�t bả danh bả lợi. Hai huynh đệ đi ch�a học đạo, trao đổi c�ng phu tu h�nh với nhau tr�n mười năm. Một h�m rủi người bạn n�i điều g� kh�ng kh�o l�m m�nh hờn l�ng. Từ đ� về sau giữa hai người c� sự ngăn c�ch. Sự ngăn c�ch ấy lớn dần t�ch hẳn hai người. Do vậy c�ng phu thường xuy�n m� m�nh ph�t triển c�ng với người bạn kh�ng c�n li�n tục nữa, cuối c�ng mỗi người đi mỗi ng� kh�c nhau. Hiện nay tr�n thế giới, những người tri thức hướng về con đường thiện lương, c� người kh�ng phải Phật tử, kh�ng đi ch�a nhưng họ ăn chay trường. V� ăn chay v� ngồi thiền trị được một số bệnh kh�ng c� thuốc trị. Nhất l� ngồi to�n gi� tăng trưởng sức mạnh nội tại rất lớn. Qu� vị ngồi to�n gi� được sẽ thấy sức chịu đựng của m�nh mạnh dần. V� dụ hồi xưa ch�ng ta nghe ai n�i xốc một ch�t l� nổi kh�ng, nhảy dựng l�n. Nhưng sau khi ngồi to�n gi� ổn định được rồi, tự nhi�n c� sức mạnh, m�nh nghe những điều tr�i tai vẫn b�nh thường. Ở đ�y t�i muốn n�i ch�ng ta n�ng cao gi� trị t�m linh, c�ng đức tu h�nh, kh�ng để cho nghiệp lực r�ng buộc, hệ luỵ. Qu� thầy truyền tam quy ngũ giới cho qu� Phật tử thường dặn, ăn chay ăn mặn kh�ng th�nh vấn đề, m� giữ được năm điều giới l� biết tu. Ch�ng ta cố gắng bảo vệ t�m s�ng suốt b�nh ổn, dứt kho�t hướng về con đường tu h�nh. Đối với huynh đệ, m�nh trợ duy�n khuyến kh�ch, huynh đệ n�o chưa l�m được qu� vị t�m c�ch n�ng đỡ c�ng nhau tiến tu. Những g� b�n ngo�i, kh�ng d�nh d�ng đến việc tu học ch�ng ta bỏ đi. Dứt kho�t như vậy tu mới y�n ổn. Chẳng những m�nh tu được m� c�n c� thể hỗ trợ cho huynh đệ tu nữa. Tr�n con đường đạo, ch�ng ta kh�ng thể đi một m�nh v� c�n phải trải d�i bao nhi�u thời gian kiếp số nữa. Tất nhi�n ch�ng ta c�n gặp kh�ng biết bao nhi�u thiện hữu tri thức, c�n phải học hỏi, phải h�nh tr� rất nhiều. Nguyện của ch�ng ta l� nguyện th�nh Phật, kh�ng c� nguyện kh�c. Cho n�n m�nh phải giữ vững v� ki�n tr� thực hiện t�m nguyện n�y cho tới ng�y vi�n m�n. Người Phật tử ch�n ch�nh, đủ duy�n qu� vị đến với tam bảo, gần chư tăng, gần Phật ph�p, ph�t t�m qui y g�n giữ năm giới. Như vậy l� c� thiện căn rất lớn, cố gắng ph�t huy th�m chớ đừng để bị thối thất. Ch�ng ta từng bước thực hi�n con đường tu tập đ�ng ch�nh ph�p. Kiến quyết cắt đứt, loại bỏ hết những sự duy�n tạp loạn, để y�n l�ng tu. Đ� l� tu t�m. Mỗi bước đi, ch�ng ta bước thật vững v�ng, từng bước từng bước gần đến qu� hương. Phật n�i ch�ng ta như những đứa con bị lạc lo�i, xa qu� hương l�u qu�, c� khi kh�ng nhớ đường về, kh�ng biết qu� hương của m�nh ở đ�u. Do vậy b�y giờ c� duy�n gặp Phật ph�p, huynh đệ cố gắng nương Phật ph�p l�m thuyền b�, theo sự hướng dẫn của thiện hữu tri thức c�ng nhau quay về, kh�ng bước lệch ra ngo�i. H�m nay, t�i n�i về tinh thần tu tập của người Phật tử, mong rằng tất cả qu� vị ghi nhận, nu�i dưỡng, thực h�nh nền tảng đạo đức căn bản n�y thật tốt. Tr�n con đường Phật đạo nhất định ch�ng ta sẽ đến nơi đến chốn. Với t�m nguyện ch�n th�nh, với sự hộ tr� của tam bảo, mỗi vị h�y tự tin nơi khả năng gi�c ngộ của m�nh. Tuy nhi�n, con đường Phật đạo trải d�i với nhiều thử th�ch trở ngại, mỗi người mỗi duy�n mỗi nghiệp, do vậy ch�ng ta phải quyết t�m chuyển h�a v� l�m chủ nghiệp lực, ki�n tr� tu tập mới c� thể th�nh tựu. Nh�n ng�y đầu năm xin hướng về mười phương tam bảo, t�i ch�c nguyện cho tất cả qu� Phật tử l�c n�o cũng tỉnh s�ng, đi đ�ng theo sự chỉ gi�o của chư Phật, Bồ t�t, chư Tổ sư. C� thế, nhất định ch�ng ta sẽ về tới nh�, v�o nh� Như Lai, ngồi t�a Như Lai, mặc �o Như Lai. Một lần nữa k�nh ch�c to�n thể qu� Phật tử đều th�nh c�ng tr�n bước đường tu học. |