Thiền Tông Việt Nam

MAI V�NG �NH ĐẠO

Xu�n Đinh Hợi 2007

H.T TH�CH NHẬT QUANG

VẤN ĐỀ NGHIỆP B�O

 

Nghiệp l� một vấn đề hết sức quan trọng đối với tất cả ch�ng ta. D� l� Phật tử hay kh�ng phải Phật tử, c�c vị cũng biết nghiệp v� bị n� chi phối, đ�y l� định luật kh�ng ai tho�t khỏi. Tuy nhi�n l� Phật tử, ch�ng ta hiểu v� biết c�ch chuyển h�a nghiệp. Ban đầu từ những nghiệp kh�ng tốt chuyển th�nh nghiệp tốt. Tu l�u xa hơn th� đi đến dứt sạch nghiệp.

V� sao n�i nghiệp l� định luật? V� kh�ng ch�ng sanh n�o tho�t khỏi nghiệp ri�ng của m�nh hết. Như ch�ng ta đang mang nghiệp l�m người. Trong sự sống những việc ăn mặc, l�m việc, tiếp x�c, ch�ng ta bị nghiệp của m�nh chi phối. Nghiệp n�y chẳng những chi phối trọn đời ch�ng ta, m� c�n tr�ch trữ để chuẩn bị cho những đời kế tiếp nữa. Muốn giải quyết dứt điểm vấn đề quả thật kh� khăn. Bởi n� li�n hệ tới ba đời qu� khứ hiện tại v� tương lai. Trong kinh nh�n quả n�i: �Muốn biết tương lai của m�nh thế n�o cứ nh�n thẳng v�o h�nh động hiện tại�.

Nh�n v�o một gia đ�nh, ch�ng ta kh�ng thể kết luận v� sao họ lại c� ho�n cảnh như thế. Theo tinh thần nh� Phật, sở dĩ h�m nay gia đ�nh như vậy l� do qu� khứ c�c th�nh vi�n của gia đ�nh đ� đ� tạo những nghiệp nh�n xấu hoặc tốt thế n�o đ�, đời n�y c� quả b�o tương ứng. Nh�n v�o hiện tại ch�ng ta c� thể đo�n định được gia đ�nh đ� sẽ c� một tương lai thế n�o. N�i nghiệp tức l� n�i tới h�nh động của ch�ng ta trong qu� khứ, hiện tại dẫn tới vị lai. Nếu l� h�nh động của m�nh th� ch�ng ta c� quyền chuyển n�. Giả dụ đời �ng nội m�nh l�m ruộng, đến đời m�nh cũng l�m ruộng, nhưng sang đời con c�i m�nh, n� học h�nh thăng tiến n�n hết l�m ruộng. N� b�n ruộng để l�m c�c x� nghiệp, �p dụng phương thức khoa học, tổ chức theo đời mới. Đ� l� chuyển n�ng nghiệp sang c�ng nghiệp.

Nghiệp lực cũng vậy. H�nh động của ch�ng ta trước đ�y xấu, b�y giờ m�nh chuyển th�nh tốt. Nếu quyết t�m th� chuyển được. V� dụ hồi trước qu� vị kh�ng thể ăn chay, kh�ng thể đi ch�a, kh�ng thể tụng kinh ngồi thiền, b�y giờ c� thể l�m c�c việc c�ng đức ấy. Ng�y xưa thấy người đi xin qu� vị kh�ng nh�n tới, b�y giờ biết lấy tiền ra cho t�y theo khả năng của m�nh, sẵn s�ng tham gia những việc từ thiện x� hội. Đ� l� chuyển nghiệp bất thiện sang nghiệp thiện. Đ�y l� điều kiện thuận lợi cho ch�ng ta suy nghiệm tu tập. Bởi v� tu l� sửa đổi, qu�n chuyển, loại bỏ những thứ kh�ng cần thiết, t�ch lũy c�ng đức tr� tuệ để đi tới mục đ�ch cứu c�nh l� thanh tịnh giải tho�t. Việc n�y ai cũng l�m được, gi� trẻ lu�n cả những người bệnh hoạn nhất cũng c� thể tu tập được.

Tuy nhi�n quyết t�m chuyển nghiệp hay kh�ng đ� mới l� điều chủ yếu của mỗi ch�ng ta. Th�nh ra trong kinh n�i: �Ch�nh ch�ng ta phải l�nh phần tr�ch nhiệm về những h�nh động của m�nh trong qu� khứ, để b�y giờ gặt h�i sự an vui hay đau khổ trong hiện tại. Ch�nh ta tạo thi�n đ�n cho ta, cũng ch�nh ta tạo địa ngục cho ta. Ta l� người x�y dựng tương lai của m�nh.� Cho n�n muốn ho�n chuyển nghiệp hay kh�ng l� tự m�nh. Nghiệp của m�nh th� m�nh chịu, n�n thể tr�ng chờ, ỷ lại ai giải quyết thay thế m�nh. Như trong gia đ�nh, mỗi người con đều c� phương thức l�m ăn, cha mẹ chia của đầy đủ, đứa n�o si�ng năng giỏi giang th� th�nh c�ng, đứa n�o lười biếng nh�c nh�a th� thất bại. Những đứa con s�ng suốt biết l�m ăn, tạo được t�i sản l� do cần c�, kh�o l�o, c� phương ph�p, c� tr�ch nhiệm th� ch�ng sẽ x�y dựng được sự nghiệp. Những đứa con ỷ lại cha mẹ, mong mỏi người kh�c gi�p đỡ, cứ như thế th� kh�ng l�m được g� cả. Tinh thần của đạo Phật kh�ng chấp nhận người như vậy. Tạo thi�n đường cũng m�nh, m� th�nh địa ngục cũng m�nh, chớ kh�ng ai kh�c. Sự gi�p đỡ lo lắng của cha mẹ, sự bảo bọc của người th�n c� một giới hạn n�o th�i. Nếu ch�ng ta nhận định ch�nh x�c như vậy, th� trong đời sống kh�ng ỷ lại, kh�ng bu�ng tr�i. V� ta biết r� sự an lạc tốt đẹp từ c�ng sức khả năng của m�nh gầy dựng n�n. Người tu h�nh kh�ng thể ngồi đ� cầu đức Phật hoặc Bồ T�t đến xoa đầu an ủi hứa sẽ rước l�n Niết-b�n. Ch�ng ta biết rằng tu được hay kh�ng l� do m�nh, tốt đẹp hay kh�ng cũng do m�nh. Đức Phật chỉ l� bậc đạo sư, mỗi ch�ng ta tự thực h�nh. D�n qu� hay n�i: �ng tu �ng đắc, b� tu b� đắc, kh�ng tu kh�ng đắc.

Qu� vị thử nghiệm xem từ đ�u c� người yểu, người thọ, người bệnh người mạnh, người xấu người đẹp.� C� người l�m g� cũng kh�ng ai l�m theo, n�i g� cũng kh�ng ai nghe theo. Nhưng c� hạng người l�m g� cũng c� người l�m theo, n�i g� cũng c� người nghe theo? Hoặc khi qu� vị buồn khổ qu�, tự hỏi kh�ng biết do đ�u m�nh lại khổ đau như vậy v.v... Đ�y l� những vấn đề trong kinh nh�n quả, Phật tử c� hiểu mới �p dụng Phật ph�p v�o đời sống, từ đ� hết khổ được vui.

Trong kinh dạy: �Tất cả ch�ng sanh đều mang theo nghiệp của ch�nh m�nh như một di sản, như vật di truyền, như người ch� th�n, như chỗ nương tựa. Ch�nh v� nghiệp ri�ng của mỗi người mỗi kh�c n�n mới c� cảnh dị đồng giữa ch�ng sanh.� Như thế mỗi người đều c� nghiệp ri�ng kh�ng ai giống ai hết. Qu� vị thấy ch�ng ta bao nhi�u người l� bấy nhi�u n�t, kh�ng ai giống ai hết, kể cả anh em sinh đ�i cũng kh�ng thể ho�n to�n giống nhau y hệt. Như cha con ruột, con giống cha cũng giống điểm n�o th�i, c�n rất nhiều điểm kh�ng giống. Bởi lẽ kh�ng giống n�n d�n qu� n�i: �Sanh con h� dễ sanh long�. Sanh con được chớ kh�ng sanh được l�ng con. N�i thế nghĩa l� con c� những diểm kh�ng giống cha mẹ.

Người cả đời s�t sinh như thợ săn, hằng ng�y sống trong sự giết ch�c v� g�y nghiệp thương t�ch kh�ng ch�t x�t thương đối với ch�ng sanh. Người n�y nếu t�i sanh l�m người th� kh�ng sống l�u, tức l� yểu mệnh. Đối với mạng sống ch�ng sanh họ kh�ng ch�t thương y�u, b�n tay lu�n lu�n l�m việc s�t hại n�n kết quả họ t�i sinh l�m người th� mạng sống họ ngắn ngủi, bệnh hoạn li�n mi�n. Biết như vậy rồi Phật tử kh�ng bao giờ hiếu s�t, đ� l� tu. Qu� vị đừng nghĩ rằng phải xuất gia như qu� thầy, ăn chay giữ một hai trăm điều giới mới gọi l� tu. Kh�ng phải! Đ� l� h�nh thức, l� phương tiện gi�p cho người tu ho�n bị tư c�ch của m�nh. Người xuất gia mặc �o Phật phải giữ những điều giới cho hợp với tư c�ch của người xuất gia, c�n việc tu th� y cứ tr�n t�m chuyển h�a, sửa đổi tu tập của mỗi người, kh�ng lập cước theo h�nh thức b�n ngo�i. Phật tử biết người chết yểu l� do c� t�nh hiếu s�t, th� b�y giờ kh�ng g�y nh�n đ� nữa. Trong mọi sinh hoạt qu� vị lu�n nghĩ nhớ thương tưởng sinh mạng ch�ng sanh, tr�nh g�y thương tổn cho ch�ng. Nếu l�m được như vậy l� tu.

Người lu�n lu�n thận trọng kh�ng hề x�c phạm đến đời sống của kẻ kh�c, sống xa guơm đao gi�o m�c v� c�c loại kh� giới. Lấy l�ng từ �i đối xử đối với tất cả ch�ng sanh, người n�y t�i sanh được trường thọ. Tr�i lại với người yểu thọ l� người sống lu�n lu�n thận trọng kh�ng hề x�c phạm đến mạng sống của ch�ng sanh. Trong giới s�t, Phật tử cố gắng giữ được bao nhi�u hay bấy nhi�u, quan trọng l� tuyệt đối kh�ng được giết người. Kế đến l� mạng sống của những con vật lớn tr�u b�, những con vật m�nh nu�i. Ngo�i ra Phật tử lu�n c� l�ng trắc ẩn kh�ng nở l�m hại những con vật yếu đuối c� thế hơn m�nh. Nếu qu� vị ho�n chuyển hướng sinh hoạt như vậy l� biết tu, kết quả l� sẽ được trường thọ. Phương ph�p đức Phật hướng dẫn ch�ng ta tu rất khoa học, kh�ng c� g� huyền b� cả. Phật kh�ng dạy thần th�nh đến ban tuổi thọ cho m�nh, do tự ta th�i. V� vậy Phật tử kh�ng ỷ lại, kh�ng tr�ng đợi v�o thế lực kh�c. Muốn yểu thọ hay trường thọ đều tự m�nh, kh�ng ai c� thể được.

Lại nữa, kẻ độc �c lu�n t�m c�ch hại người, d�ng gươm đao đối xử với người� Kẻ n�y nếu t�i sanh l�m người, th�n thể ương yếu bệnh hoạn�. Qu� vị thấy ai th�n thể ương yếu, lu�n bệnh tật kh�ng c� sức khỏe v.v... th� biết người n�y g�y nh�n t�c hại đến ch�ng sanh. Phật tử kh�ng muốn th�n thể yếu đuối bệnh hoạn m� b�y giờ phải mang th�n bệnh hoạn th� biết hồi trước m�nh g�y những nghiệp nh�n �c, như d�ng gậy gộc, đấm đ�, đao gươm s�t hại ch�ng sanh. Cho n�n b�y giờ mang b�o nghiệp như thế. Biết như vậy ch�ng ta ăn năn chừa bỏ kh�ng g�y nh�n đ� nữa, tức l� biết ho�n chuyển nghiệp, biết tu.

Người n�o kh�ng l�m tổn thương người kh�c, đủ đức t�nh hiền lương nhu h�a, khi t�i sinh c� th�n thể khỏe mạnh. Điều n�y r� r�ng hợp với đạo l� d�n gian. Chữ �nhu� l� mềm diệu, chữ �h�a� l� h�a hợp. Người l�c n�o cũng mềm diệu h�a hợp, thương tất cả mọi người, kh�ng g�y tổn hại ai, người đ� hiện tại được quả b�o tốt v� đảm bảo tương lai c� th�n thể khỏe mạnh cường tr�ng. Người th� lỗ, cọc cằn, lu�n giận dữ, chửi mắng nguyền rủa người kh�c, khi t�i sanh mang th�n xấu x�. Ch�ng ta kh�ng ai muốn m�nh xấu x� nhưng cứ chửi mắng cọc cằn, giận dữ với người th� l�m sao xinh đẹp được. Cho d� qu� vị d�ng son phấn hoặc phương tiện văn minh sửa sắc đẹp tới đ�u, n� cũng chỉ b�n ngo�i th�i, kh�ng phải l� c�i thật th� kh�ng thể bền l�u được. Muốn tr�ng kiện đẹp đẽ như Phật, Bồ T�t th� phải tu sửa trong t�m, chớ kh�ng phải sửa b�n ngo�i. Như kẻ th� lỗ cọc cằn, hay nguyền rủa chủi mắng người kh�c, b�y giờ sửa lại kh�ng th� lỗ cọc cằn nữa mới được d�ng vẻ xinh xắn dễ nh�n, dễ coi.

Khi giận l�n muốn chửi mắng người ta, m�nh hiện tướng th� lỗ cọc cằn, như vậy l�u ng�y quen theo tướng đ� n�n rất xấu x� kh� coi. Như t�i nghe n�i t�i tử đ�ng vai Tề-thi�n được huấn luyện thật l�u mới l�m được h�nh động của con khỉ, tới chừng hết đ�ng phim, tay anh ta vẫn cứ khều khều, mặt nhăn nhăn. N�i chuyện một hồi tự nhi�n anh lấy tay m�c m�c mặt nhăn nhăn y như khỉ đột. Ch�ng ta cũng vậy, nếu cứ để những bực tức hiện ra tướng xấu ho�i, coi chừng mai mốt mặt m�y xấu x�, kh�ng sửa được.

Người thanh tao nh� nhặn, d� bị chửi mắng cũng kh�ng o�n giận, t�m c�ch trả th�. Ch�ng ta thấy Phật, Bồ T�t kh�ng khi n�o bị người ta chửi m� t�m c�ch chửi lại. Điều n�y gi�p ch�ng ta th�m một kinh nghiệm, khi ra đường thấy ai tự xưng m�nh l� Phật, Bồ T�t, khi ấy c� người mắng chửi họ, họ chửi lại th� ta biết đ�y kh�ng phải Phật, Bồ-t�t thật rồi. Phật, Bồ T�t thật kh�ng khi n�o c� t�m mạ nhục, �c độc, trả th� ch�ng sanh. Thật ra người ta chửi m�nh m� m�nh kh�ng giận l� cả một vấn đề. Người ta n�i xấu m� m�nh b�nh y�n tươi cười, kh�ng c� t�m giận tức, muốn trả th� l� việc l�m của Phật, Bồ T�t rồi. Cho n�n phải l� người c� c�ng phu mới thực h�nh được như vậy.

Người c� t�nh đố kị, th�m thuồng ham muốn lợi danh của người kh�c, kh�ng biết t�n k�nh người đ�ng k�nh, lu�n chứa chấp l�ng ganh tị. Khi t�i sanh, người n�y kh�ng c� ảnh hưởng, n�i g� kh�ng ai nghe, l�m g� kh�ng ai theo. Huynh đệ muốn n�i g� cũng c� người nhất tr� theo m�nh, trước nhất kh�ng n�n mang bệnh tật đố, ham muốn lợi danh của người kh�c. Bởi v� trong l�ng m�nh kh�ng c�n bệnh tật, t�m đố kị, ganh gh�t đ� l� đ� loại nh�n xấu ra. Tinh thần tu học trong đạo Phật r� r�ng như vậy. Cho n�n Phật, Bồ T�t thật kh�ng bao giờ hiện tướng cho ch�ng ta dễ nhận đ�u. C� khi c�c ng�i hiện ra những d�ng dấp m�nh kh�ng lường nổi. Bởi kh�ng lường nổi n�n ta dễ sai phạm. Người biết tu vượt qua cửa ải n�y dễ d�ng kh�ng kh�, người kh�ng biết tu kh�ng vượt qua được.

Như ở Trung Hoa s�ch sử ghi lại Bồ T�t Văn Th�, Bồ T�t Di lặc, Bồ T�t Qu�n Thế �m thị hiện ra h�nh thức trong lớp ăn m�y ăn xin dơ bẩn bần tiện, nếu l� người thật tu th� kh�ng c� niệm ch� bai, phỉ b�ng c�c ng�i. Ch�ng ta nh�n lại m�nh c�n những tật tham lam, tật đố, ganh gh�t, gặp người kh�ng sẵn s�ng ủng hộ ch�ng ta lại buồn. Từ buồn sanh ra nghi kị, c� những sự kiện l�m mất đi t�nh cảm x�m l�ng, b� con, n�n ch�ng ta phải bỏ th�i xấu ấy. Bỏ th�i xấu nghĩa l� chuyển h�a nghiệp vậy.

Muốn tu tiến qu� vị phải c� sự nhẫn chịu, đ� l� sức mạnh. B�nh tỉnh s�ng suốt nu�i dưỡng sức mạnh, gầy dựng c�ng phu tới khi n�o được ho�n chỉnh. Ch�ng ta thường bị vọng tưởng lăng xăng, đi�n đảo k�o l�i, mở con mắt ra l� bị ch�ng k�o đi từ s�ng tới trưa, từ trưa tới chiều, từ chiều tới tối. Cho tới nhớ lại đ� qu� muộn. Thế n�n phải h�m dưỡng c�ng phu thật li�n tục, bền l�u, hy vọng c� đủ sức mạnh chiến thăng với nghiệp lực, với vọng tưởng.

Nếu người gi�u l�ng quảng đại, t�nh ưa bố th�, biết phục thiện kh�ng ki�u h�nh, trọng người đ�ng k�nh, người lễ độ như thế kết quả sẽ được quyền qu�, c� học thức, c� địa vị. Người chịu gần gũi người c� tr� tuệ, t�m hiểu học h�nh nhất định sống tốt hơn những người kh�ng c� học. Phật tử muốn hiểu đạo l� cho đ�ng, �t ra phải đọc s�ch, nghe chư Tăng thuyết ph�p. Kh�ng khi n�o tự dưng ch�ng ta hiểu, hay chỉ nghe người chung quanh n�i lan man m� c� thể hiểu đ�ng đắn được. Phật bảo người đến với đạo Phật h�y nghe, suy ngẫm hiểu cho ch�nh chắn rồi h�y tin. Đừng bao giờ vội v�ng tin c�ng. C� thế ch�ng ta mới trở th�nh người Phật tử hiểu biết đạo l�, c� kinh nghiệm h�nh tr�, c� c�i nh�n s�u sắc. Ứng dụng đạo l� Phật dạy v�o đời sống, qu� vị sẽ ảnh hưởng tốt đến x� hội. X� hội Việt Nam ch�ng ta đang cần được x�y dựng lại nền tảng đạo đức. V� d�n tộc đ� trải qua một thời kỳ nhiễu nhương, b�y giờ cần những điều hay lẽ phải để x�y dựng con người tốt, gia đ�nh tốt, x�m l�ng tốt, x� hội tốt.

T�y theo ho�n cảnh, điều kiện của mỗi gia đ�nh, Phật tử �p dụng đạo l� Phật dạy v�o đời sống để trở th�nh người c�ng d�n Việt Nam mẫu mực. C� tu, c� thực h�nh tức l� c� sửa, nhất định sẽ c� kết quả tốt. Qu� vị khỏi cầu nguyện c�ng v�i cho x� hội tốt, x�m l�ng tốt, con người tốt m� chỉ cần mỗi th�nh vi�n sống tốt l� tất cả đều được cải thiện tốt. Việc cầu nguyện kh�ng mang lại kết quả thiết thực, nếu ch�ng ta kh�ng h�nh động thiết thực. Th�nh ra người Phật tử phải l� người h�nh động thiết thực. Muốn l� một c�ng d�n tốt th� phải l�m tr�n bổn phận, nghĩa vụ c� nh�n m�nh đối với cộng đồng, sắp xếp mối tương giao trong gia đ�nh v� x� hội nhu h�a, vững bền trong tinh thần tỉnh s�ng, đầy đủ đạo đức.

Cuộc sống n�i cho c�ng c� l� bao l�u! Phật tử lớn l�n lập gia đ�nh l�y qu�y một thời gian rồi gi�, bệnh, chết. Điều n�y kh�ng ai chạy trốn tho�t, mọi người đều phải đi chung một con đường như thế. Ch�ng ta l� người con Phật, kh�ng thể n�o ngồi đợi gi�, bệnh, chết ập đến m� phải chuẩn bị. Tu tập, gầy dựng một c�i gi�, bệnh, chết c� � nghĩa đ�ng với tinh thần đạo Phật. Người hiểu Phật ph�p rồi sẽ thấy nhẹ nh�ng khi th�n n�y bệnh, vẫn vui vẻ trong sinh hoạt thường nhật. C� �p dụng Phật ph�p qu� vị mới cảm nhận được sự c� mặt của m�nh trong x� hội l� c� � nghĩa. Kh�ng phải ta sinh ra rồi mai mốt chết đi, mọi người đều qu�n l�ng. Sự hiện diện của mỗi người ch�ng ta kh�ng bị nghiệp xấu th�c b�ch, k�o l�i m� m�nh chuyển h�a tu tập tạo những nghiệp tốt. Như vậy ng�y m�nh từ giả cuộc đời ra đi cũng c� gi� trị.

Qu� vị thấy kh�ng khi n�o một người cha người mẹ xứng đ�ng mất đi m� trong gia đ�nh kh�ng c� người kh�c. Chẳng những người trong gia đ�nh m� những người chung quanh cũng ngậm ng�i tiếc thương. Ai cũng thấy dường như mất đi một c�i g� qu� gi� n�n tự nhi�n cảm x�c. Ngược lại, b�nh thường m�nh như cọp beo, người ta nghe m�nh chết, họ n�i đ�ng đời �ng đ�. Nếu ta để lại cho đời �c cảm như thế th� cuộc đời m�nh c�n � nghĩa g� nữa. Ch�ng ta l� Phật tử, kh�ng phải đều tốt hết, cũng c� c�i tốt cũng c� c�i chưa tốt. Do đ� theo lời dạy của Phật ch�ng ta cố gắng tu tập chuyển h�a cho được tốt đẹp ho�n thiện. Qu� thầy cố gắng l�m, cố gắng tu rồi hướng dẫn Phật tử c�ng hiểu, c�ng sửa đổi tập nghiệp xấu để hiện tại ch�ng ta l� người tốt, đảm bảo tương lai cũng được tốt đẹp. Sự hiện hữu của ch�ng ta như thế mới c� gi� trị.

Ch�ng t�i hy vọng đạo Phật sẽ gi�p cho tất cả ch�ng ta chuyển h�a khổ đau th�nh hạnh ph�c, mỗi người Phật tử sẽ l� một vị Phật tương lai, độ m�nh v� độ người vượt qua d�ng th�c tử sanh. Muốn thế ch�c qu� vị tu tập tốt, c� kết quả thiết thực trong đời sống hiện tại cũng như vị lai.

 

 

 

]

 

 

THIỀN T�NG VIỆT NAM