HOÀI HẢI THIỀN SƯ
BÁ TRƯỢNG QUẢNG LỤC
Dịch giả: Thích Duy Lực
TIỂU DẪN
Lời thu thập
NGỮ LỤC và QUẢNG LỤC của BÁ TRƯỢNG
THIỀN SƯ đã có đăng trong
TRUYỀN ĐĂNG Lục và
NGŨ ĐĂNG HỘI NGUYÊN, đến năm Vạn lịch thứ 45 đời Minh được khắc in chung vào bộ “CỔ
TÔN TÚC NGỮ LỤC” quyển 48. Tăng
Ẩn Phong ở
Trường Kỳ,
Nhật Bản chiếu theo bản đời Minh trích lục ra:
MÃ TỔ, BÁ TRƯỢNG,
HOÀNG BÁ,
LÂM TẾ gọi là
Tứ Gia Ngữ Lục,
ấn hành ra đời, được
Tòng lâm tôn trọng là yếu điểm của
Thiền môn. Sách này là ghi chép về
trọn đời của
Thiền Sư BÁ TRƯỢNG về những sự ứng cơ tiếp vật,
ân cần dạy chúng,
hành sự phi phàm,
pháp ngữ bao gồm không sót, mỗi chữ, mỗi câu đều là lời khai thị
quý báu cho người học, thật đáng làm phép tắc cho kẻ
tu Thiền và
tư lương muôn đời cho người
học đạo.
Theo sự
phân biệt nội dung của
NGỮ LỤC và QUẢNG LỤC, thì
NGỮ LỤC ghi chép nhiều
hành sự, còn QUẢNG LỤC ghi chép nhiều về
pháp ngữ, cũng là di lục của
Thiền sư mà có sự sai khác này, đó là do người
biên tập và
thời đại biên tập bất đồng, nay khó mà cứu xét kỹ lưỡng được.
Tác giả huý
HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường
Huyền Tông (CN 724). Sư
xuất gia từ thuở bé, lớn lên
ham thích thiền Đốn ngộ, nghe
Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất khai hoá ở Nam Khang (nay là núi
Mã Tổ ở
Giang Tây). Sư bèn
hết lòng y chỉ, sau khi nối pháp
Mã Tổ, Sư được
đàn tín thỉnh
trụ trì Đại Trí Thọ Thánh
Thiền Tự ở núi
Đại Hùng thuộcHồng Châu, núi cao chót vót, nước suối Ngô Nguyên bay xuống ngàn thước, nên có tên là núi Bá Trượng. Sư
trụ trì chưa đầy một tháng, người bốn phương đến
tham học vân tập hơn một nghìn, trong đó QUI SƠN và
HOÀNG BÁ làm
Thượng thủ, từ đó
pháp môn càng ngày càng hưng thạnh,
tông phong lừng lẫy. Sư bèn
quyết ý lập ra
Thiền viện đầu tiên. Trước kia các
tự viện Thiền Tông đều nhờ vào chùa của
Luật Tông, từ nay mới được lập riêng. Sư là người khởi sáng cho
Thiền Tự được
độc lập, soạn định chế độ
Tòng lâm, gọi là Bá Trượng
Thanh Quy, nên cũng được tôn xưng là Tổ
Trung Hưng của
Thiền tông.
Sư là người siêng năng làm việc, mỗi khi có việc nhà chùa đều tự mình làm trước cả
đại chúng, người
chủ sự lén dấu dụng cụ canh tác của Sư, mời Sư nghỉ ngơi, Sư nói: “Đức ta không đủ, đâu dám trút sự lao động của mình cho người khác!”. Kiếm dụng cụ không được thì ngày đó không ăn, cho nên mới có câu: “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (Một ngày không làm, một ngày không ăn). Vì thế mới biết được
gia phong của Sư
chân thật như thế nào, thật đáng làm
mô phạm cho muôn đời.
Ngày 17 tháng giêng năm Nguyên Hoà thứ chín đời nhà Đường (CN 814), Sư
thị tịch, thọ 95 tuổi,
đệ tử được
phó pháp là
QUY SƠN LINH HỰU Thiền sư,
HOÀNG BÁ HY VẬN Thiền sư vv.. tất cả có hai mươi tám người, hết thảy đều là
môn đồ xuất sắc, kỳ lân,
phụng hoàng trong
Phật pháp.
Ngoài
tác phẩm này ra còn có: Bá Trượng
Thanh Quy (hai quyển). Năm Trường Khánh thứ nhất đời Đường Mục Tông, được sắc ban là
Đại Trí Thiền Sư, tháp hiệu là
Đại Bảo Thắng Luân.
Ghi chú:
Tiểu dẫn này được dịch từ Giải đề của
Thiền Học Đại Thành chung cho hai bộ
Ngữ Lục và Quảng Lục của Bá Trượng
Đại Trí Thiền Sư.
BÁ TRƯỢNG QUẢNG LỤC
Ngôn ngữ cần phải phân biệt trắng đen,
cần phải biết là
lời nói chung hay
lời nói riêng,
lời nói liễu nghĩa hay
bất liễu nghĩa.
Giáo
liễu nghĩa phân biệt về thanh (trong), còn
bất liễu nghĩa
phân biệt về trược (đục). Nói cấu bên pháp uế là
phân biệt về phàm, nói cấu bên pháp tịnh là
phân biệt về Thánh. Từ chín
bộ giáo nói thẳng ra
chúng sanh không có mắt,
cần phải nhờ người gọt giũa. Nếu nói với người tục tai điếc,
cần phải dạy họ
xuất gia trì giới,
tu thiền học huệ. Nếu là người tục siêu xuất thì không nên dạy họ như thế, như
trường hợp các ngài
Duy Ma Cật, Phó Đại Sĩ… đối với bậc
xuất gia đã
thọ giới cụ túc, sức giới, định, huệ đã có mà nói như thế thì gọi là
phi thời ngữ (chẳng ứng cơ) cũng gọi là
ỷ ngữ (nói
thêu dệt), nếu là bậc
xuất gia phải nói cấu bên pháp tịnh, phải nói lìa các pháp có, không, lìa tất cả
tu chứng, cũng lìa cái lìa nữa. Nếu trong hàng
xuất gia tẩy trừ tập nhiễm tham, sân không được cũng gọi là kẻ tục tai điếc, phải dạy họ
tu thiền học huệ. Tăng sĩ
Nhị thừa đã dứt được bệnh tham sân mà còn trụ nơi
vô tham, cho đó là đúng là thuộc về
Vô sắc giới, là ngăn trở ánh sáng Phật, là làm thân Phật chảy máu cũng phải dạy họ
tu thiền học huệ.
Cần phải biện biệt rõ ràng lời nói thanh, trược. Pháp trược là các danh từ tham, sân, ái, thủ… Pháp thanh là các danh từ
Bồ đề,
Niết bàn, giải thoát… Cái giác chiếu soi
hiện tại chỉ cần đối với hai dòng thanh trược, các pháp Thánh, phàm, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, các pháp
thế gian và
xuất thế gian đều chẳng nên có
mảy may ái thủ. Đã chẳng ái thủ mà y trụ vào chẳng ái thủ cho đó là phải, ấy là Sơ Thiện, là trụ nơi
điều phục tâm, là hàng
Thanh Văn, là người đã đến bờ rồi mà còn
lưu luyến chiếc bè không chịu bỏ, là đạo
Nhị thừa, là quả
Thiền na. Đã chẳng ái thủ cũng chẳng y trụ nơi chẳng ái thủ, là Trung thiện, là
bán tự giáo vẫn còn là
Vô sắc giới khỏi sa vào đạo
Nhị thừa, khỏi lạc vào lối
Ma Vương, vẫn còn là bệnh
Thiền na, là còn bị
trói buộc vào
Bồ Tát thừa. Đã không y trụ nơi chẳng ái thủ và cũng không khởi cái tri giải về không y trụ, ấy là Hậu thiện, là
mãn tự giáo, khỏi rơi vào
Vô sắc giới,
tránh khỏi bệnh
Thiền na, khỏi sa vào
Bồ Tát thừa, khỏi bị đoạ vào
địa vị Ma vương, là
trí chướng, địa chướng, hạnh chướng nên thấy
Phật tánh của mình như ban đêm thấy
hình sắc. Như nói: Ở
địa vị Phật dứt hai thứ ngu: Một là
vi tế sở tri ngu, hai là
cực vi tế
sở tri ngu. Cho nên nói: Có bậc
đại trí đập vỡ
hạt bụi lấy ra quyển Kinh. Nếu thấu suốt nghĩa ba câu thì chẳng bị ba đoạn sơ, trung, hậu thiện khống chế.
Giáo môn thí dụ con hươu ba lần nhảy ra khỏi lưới, gọi là
làm Phật ngoại triền, không có vật gì
ràng buộc được người này. Đây thuộc về Phật sau
đức Nhiên Đăng, là
Tối thượng thừa, là Thượng thượng trí, là đứng trên
Phật đạo; người này là Phật, có
Phật tánh, là
Đạo sư, là điều khiển được
vô sở ngại phong, là
vô ngại huệ, về sau được
tự do sai khiến nhân quả phước trí, là làm xe chuyên chở
nhân quả, ở nơi
sanh không bị sanh nhốt, ở nơi tử không bị từ ngại, ở nơi
ngũ ấm như cửa đã mở, không bị
ngũ ấm ngăn trở, đi ở
tự do, ra vào không khó. Nếu được như thế, không luận thứ bậc hơn kém
cho đến thân con kiến, chỉ cần được như thế thì đều là cõi nước
thanh tịnh vi diệu không thể nghĩ bàn. Đó còn là
lời nói mở trói, họ vốn không thương tích thì đừng làm cho
bị thương. Những cái thương
tích Phật, thương tích
Bồ Tát đều là thương tích (Có nghĩa là chấp Phật là thương
tích Phật, chấp
Bồ Tát là thương tích
Bồ Tát). Phàm nói các pháp “có, không” đều là thương tích. “Có, Không”
bao gồm tất cả pháp.
Hàng
Thập địa là chúng ở trong dòng nước đục, tự cho là dòng nước thanh, dựng tướng thanh để nói lỗi của tướng trược. Trước kia mười vị
đại đệ tử như
Xá Lợi Phất,
Phú Lâu Na,
chánh tín như
A Nan, tà tín như Thiện Tinh… mỗi người có một
cốt cách riêng, mỗi người có một phép tắc riêng đều bị
Đạo Sư (Phật)
nói toạc ra là chẳng đúng.
Tứ thiền,
Bát định, A La Hán…. trụ trong định tám muôn kiếp, họ là người
tu hành theo
kiến chấp vì bị rượu
tịnh pháp làm say nên hàng
Thanh Văn nghe
Phật pháp không phát được
đạo tâm vô thượng, do đó bị gọi là người
đoạn thiện căn không có
Phật tánh. Kinh nói: “Chỗ gọi là hầm sâu
giải thoát đáng sợ, nếu có một
niệm tâm lui sụt thì rơi vào
địa ngục mau như tên bắn”. Chẳng được
nhất định nói lui sụt, cũng chẳng được
nhất định nói không lui sụt, như các ngài
Văn Thù,
Quan Âm, Thế Chí… đến
thị hiện đồng loại với Tư Đà Hườn để dẫn dụ, chẳng được nói họ lui sụt, lúc bấy giờ chỉ được gọi là người
Tu Đà Hườn thôi.
Hiện tại các giác chiếu soi chỉ cần chẳng bị các pháp “có, không” khống chế, thấu suốt nghĩa ba câu và tất cả
nghịch thuận thì dầu có nghe trăm nghìn muôn ức
đức Phật xuất hiện ở
thế gian cũng
như không nghe, cũng không y trụ vào chỗ không nghe, cũng không khởi tri giải về sự không y trụ, nói họ là người lui sụt chẳng được, vì số lượng không khống chế họ được, ấy là Phật
thường trụ thế gian mà chẳng nhiễm
thế gian.
Nói Phật
chuyển pháp luân, lui sụt cũng là
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Nói Phật chẳng
chuyển pháp luân, chẳng lui sụt cũng là
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Ngài
Tăng Triệu nói: “Đạo
Bồ Đề không thể suy lường, cao
vô thượng, rộng
vô cùng, sâu thăm thẳm”. Rơi vào
lời nói là bệnh, nói giác chiếu soi cũng còn là không đúng, chỉ là từ trược biện thanh (trong cái đục mà
biện biệt cái trong) mà thôi. Nếu cho nói giác chiếu soi hiện nay là đúng, tức là ngoài cái giác chiếu soi còn có cái khác thì đều là ma thuyết. Nếu chấp lấy cái giác chiếu soi
hiện tại thì cũng đồng ma thuyết, cũng gọi là
tự nhiên ngoại đạo. Nói các giác chiếu soi
hiện tại là Phật của chính mình, đó là
lời nói thước tấc, là lời tính toán, giống như con chồn (
dã can) kêu, vẫn thuộc về cửa keo sơn (
chấp trước). Từ trước
đến nay chẳng nhận cái tự tri,
tự giác là Phật của chính mình mà lại hướng ra ngoài tìm Phật, nhờ
thiện tri thức nói ra cái tự tri
tự giác để làm thuốc trị cái bệnh hướng ngoại tìm cầu, bệnh hướng ngoại tìm cầu đã lành thì thuốc cũng phải bỏ. Nếu chấp lấy cái tự tri
tự giác thì đó là bệnh
Thiền na, là
định tánh Thanh Văn, như nước đóng băng, toàn băng là nước khó mong cứu được nạn khát; cũng nói: “Bệnh
chắc chắn hết,
lương y bó tay”.
Vô thỉ chẳng phải là Phật, chớ cho là Phật, Phật là thuốc của
chúng sanh, không có bệnh chẳng cần uống thuốc, thuốc và bệnh đều tiêu,
thí dụ: như nước trong, Phật là cam thảo hoà với nước, cũng như mật hoà với nước ấy rất là ngon ngọt, nếu xem đó là cùng loại nước trong thì chẳng đúng, chẳng phải không, vốn là sẵn có, nên cũng nói: Lý này
mọi người đều vốn sẵn có. Chư Phật,
Bồ Tát được mệnh danh là người chỉ
cho biết hạt châu. Từ xưa
đến nay nó chẳng phải là vật, chẳng cần biết nó, hiểu nó, không cần cho nó là phải hay chẳng phải, chỉ cần cắt đứt câu đầu hai, cắt đứt câu có, câu chẳng có, cắt đứt
câu không, câu chẳng không, dấu vết hai đầu chẳng hiện. Hai đầu kéo ông chằng được, số lượng
chi phối ông chẳng được, chẳng phải
thiếu thốn, chẳng phải đầy đủ, chẳng phải phàm, chẳng phải Thánh, chẳng phải sáng, chẳng phải tối, chẳng phải hữu tri, chẳng phải
vô tri, chẳng phải rang buộc, chẳng phải
giải thoát, phải tất cả
danh mục. Tại sao không phải là
lời nói thật? Nếu cho rằng đục đẽo
hư không làm được
tướng mạo Phật, hoặc cho rằng
hư không là do xanh, vàng, đỏ, trắng làm thành, như nói:
Pháp không có
so sánh, không thể ví dụ, nên
Pháp thân vô vi bất đoạ
chư số; nên nói: Thánh thể
vô danh chẳng thể nói được, lý
như thật của
không môn khó ghé,
thí dụ như con thái mạt trùng (tên một loại côn trùng
đặc biệt rất nhỏ), có thể đậu ở khắp
mọi nơi, nhưng không thể đậu được trên ngọn lửa.
Ý thức của
chúng sanh cũng vậy, có thể duyên ở
mọi nơi, nhưng không thể duyên trên
Bát Nhã.
Tham học nơi
Thiện tri thức để tìm cầu một tri, một giải đó là
thiện tri thức ma, vì sanh ngữ kiến. Nếu phát
tứ hoằng thệ nguyện,
nguyện độ hết tất cả
chúng sanh rồi sau ta mới
thành Phật, đó là
Bồ Tát pháp trí ma vì
thệ nguyện không
buông bỏ; nếu
trì trai giữ giới,
tu Thiền học Huệ đều là
thiện căn hữu lậu, dẫu cho ngồi
đạo tràng thị hiện thành Đẳng Chánh Giác độ
chúng sanh nhiều như
số cát sông Hằng thảy đều
chứng quả Bích Chi Phật, đó là
thiện căn ma, vì
khởi tâm tham đắm, nếu đối với các
pháp không tham nhiễm, thần lý
độc tôn trụ trong
Thiền định sâu không còn tiến lên nữa, đó là
Tam muội ma, vì
đam mê cái vui
Thiền định.
Niết Bàn chí thượng,
ly dục tịch tịnh, là
nghiệp ma. Nếu
trí huệ thoát lưới ma chưa
triệt để thì dẫu cho hiểu được trăm bổn kinh Phật thảy đều là
cặn bã địa ngục, tìm sự
tương tự như Phật không bao giờ có.
Như nay nghe nói chẳng
chấp trước vào tất cả
pháp thiện, ác, có, không vv… liền cho đó là rơi vào không, mà chẳng biết rằng bỏ gốc theo ngọn mới chính là rơi vào không. Cầu Phật, cầu
Bồ Đề và tất cả pháp có, không… là bỏ gốc theo ngọn,
hiện tại chỉ cần ăn
đạm bạc sống, mặc áo vá đỡ lạnh, khát thì bụm lấy nước uống,
ngoài ra đối với tất cả pháp có, không đều không có
mảy may hệ niệm (
nghĩ tưởng), người này
dần dần sẽ chút phần nhẹ nhàng
sáng suốt.
Thiện tri thức chẳng
chấp có, chẳng
chấp không, thoát được mười câu ma ngữ, nói ra không
trói buộc người, có
lời nói nào ra chẳng tự xưng là Thầy nói, cũng như tiếng dội trong hang, tiếng nói
trùm khắp thiên hạ mà không có khẩu quá (lỗi do từ miệng mình nói ra),
đủ sức làm
y chỉ cho người. Nếu nói ta biết thuyết, biết giải, nói ta là
Hoà thượng, người là
đệ tử, cái đó đồng như ma thuyết.
Vô cớ nói rằng:
Mục kích đạo tồn (mắt thấy đạo còn). Phật hay chẳng phải Phật,
Bồ đề,
Niết bàn, giải thoát…
Vô cớ nói ra một tri, một giải, giơ một cánh tay, dựng một ngón tay bảo là Thiền, là Đạo,
lời nói này
trói buộc người không biết đến khi nào mới thôi, chỉ là chồng thêm dây
trói buộc Tỳ Kheo. Dẫu
cho không nói cũng có cái khẩu quá. Thà làm thầy cho tâm, chẳng cho tâm làm thầy.
Giáo
bất liễu nghĩa có
Thiên nhân sư, có
Đạo sư. Trong giáo
liễu nghĩa chẳng làm
Thiên nhân sự, chẳng
cho phép làm thầy, chưa y được
huyền giám (
tự tánh), tạm y được giáo
liễu nghĩa còn có phần thân cận, nếu là giáo
bất liễu nghĩa thì chỉ
thích hợp để
nói trước bọn người tục tai điếc. Nay chỉ cần chẳng y trụ tất cả pháp có, không, cũng không làm cái chẳng y trụ, cũng không khởi cái tri giải về chẳng y trụ, cũng không khởi cái tri giải về chẳng y trụ, đây gọi là
đại thiện tri thức, cũng nói: Chỉ có một người
đại thiện tri thức là Phật, không có người thứ hai,
ngoài ra đều gọi là
ngoại đạo, cũng gọi là ma thuyết. Nay chỉ cần nói phá câu hai đầu, không tham nhiễn tất cả cảnh pháp có, không và việc
mở trói,
ngoài ra không có ngữ cú nào khác để dạy người. Nếu nói ra có ngữ cú khác để dạy người, có pháp khác để cho người, đó gọi là
ngoại đạo cũng gọi là ma thuyết.
Cần phải biết lời giáo
liễu nghĩa hay giáo
bất liễu nghĩa,
cần phải biết lời nghịch tục hay lời tuỳ tục,
cần phải biết
lời nói sống hay
lời nói chết,
cần phải biết lời thuốc hay lời bệnh,
cần phải biết lời ví dụ thuận hay nghịch,
cần phải biết
lời nói chung hay
lời nói riêng. Nói do
tu hành được
thành Phật, có tu có chứng,
thị tâm thị Phật,
tức tâm tức Phật, đấy là lời Phật: Là
lời nói giáo
bất liễu nghĩa, là lời tuỳ tục, là
lời nói chung, là lời nhẹ như mang một lon một lít, là
lời nói về bên pháp uế, là lời ví dụ thuận, là
lời nói chết, là
lời nói trước kẻ
phàm phu. Chẳng cho do
tu hành mà được
thành Phật, không tu không chứng,
phi tâm phi Phật cũng là lời của Phật: là lời giáo
liễu nghĩa, là lời nghịch tục, là
lời nói riêng, là lời nặng như mang trăm tạ, là
lời nói ngoài giáo
tam thừa, là lời ví dụ nghịch, là
lời nói về bên pháp tịnh, là
lời nói sống, là
lời nói trước ngoài có
quả vị.
Từ
Tu Đà Hườn trở lên thẳng đến bậc
Thập địa hễ có
lời nói đều thuộc về
pháp trần cấu, hễ có
lời nói đều thuộc về bên phiền nào, hễ có
lời nói đều thuộc về giáo
bất liễu nghĩa. Giáo
liễu nghĩa là trì, giáo
bất liễu nghĩa là phạm.
Phật địa không có trì, phạm, nên giáo
liễu nghĩa và
bất liễu nghĩa và
bất liễu nghĩa đều chẳng cho.
Do mạ mà biết đất, từ trược biện thanh. Cái giác chiếu soi
hiện tại nếu theo bên thanh mà đến thì có giác chiếu soi, cũng chẳng phải thanh, cũng chẳng phải không thanh, không có giác chiếu soi, cũng chẳng phải thanh cũng chẳng phải không thanh, chẳng phải Thánh, chẳng phải không Thánh; không phải thấy nước đục rồi nói lỗi của nước đục, nếu nước trong thì không có lỗi để nói, nói ra là làm đục nước rồi.
Nếu có cái hỏi mà không hỏi cũng có cái nói mà không nói, bởi Phật chẳng vì Phật mà nói pháp.
Bình đẳng chân như pháp giới không có Phật nào mà không độ
chúng sanh. Phật không trụ Phật gọi là chân
phước điền.
Cần phải biện biệt lời
chủ khách,
tham nhiễm tất cả cảnh pháp có, không, bị tất cả cảnh có, không làm hoặc loạn thì
tự tâm là
ma vương, chiếu dụng thuộc ma dâm. Cái giác chiếu soi
hiện tại chỉ cần chẳng y trụ vào tất cả pháp có, không, pháp
thế gian,
xuất thế gian; cũng không có tri giải về chẳng y trụ; cũng chẳng y trụ nơi không tri giải thì
tự tâm là Phật, chiếu dụng thuộc
Bồ Tát.
Tâm tâm là
chủ tể, chiếu dụng thuộc
khách trần, như thấy sóng nói nước, nước ấy chiếu vạn tượng mà không cho là
công dụng. Nếu được tích chiếu, chẳng
tự do huyền diệu, thì
tự nhiên thấu suốt
cổ kim, như nói: “Thần vô chiếu công,
chí công thường tồn” (1). Người như thế được ở khắp
mọi nơi làm
Đạo sư.
(1) Thần dụ cho
tự tánh; chiếu công =
công dụng –
chí công =
công dụng tối cao. (
Công dụng của
tự tánh không qua sự
tác ý nhưng
công dụng ấy
đạt đến cực điểm và luôn luôn được như thế).
Tánh thức
chúng sanh là tánh keo sơn (
chấp trước) vì chưa từng
bước lên thềm bực Phật nên thường
dính khắn vào các pháp có, không, nay
thình lình uống thuốc
huyền chỉ không được,
thình lình nghe lời xuất cách họ tin chẳng nổi, cho nên
đức Phật ngồi dưới cội
Bồ đề bốn mươi chín ngày
lặng lẽ tư duy.
Trí tuệ mênh mông khó nói, không
tỷ dụ được, nói
chúng sanh có
Phật tánh cũng là
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng, nói
chúng sanh không
Phật tánh cũng là
phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu nói có
Phật tánh là chấp trướng báng. Nếu nói không
Phật tánh là hư vong báng.
Như bảo: Nói
Phật tánh có là
tăng ích báng (nói thêm), nói
Phật tánh không là tổn giảm báng (nói bớt), nói
Phật tánh cũng có cũng không là
tương vi báng (trái ngược nhau), nói
Phật tánh chẳng có chẳng không là
hý luận báng (nói bông đùa);
nếu không nói thì
chúng sanh không có
hy vọng giải thoát; còn nếu nói thì
chúng sanh lại theo
lời nói mà sai tri giải, lợi ít mà hại nhiều. Do đó Ngài nói: “Ta thà không nói pháp, mau nhập Niết Bàn”. Nhưng sau đó tìm về chư Phật
quá khứ, thấy các Ngài đều nói pháp
tam thừa. Về sau, Phật mới
giả lập kệ thuyết,
giả lập danh tự, vốn chẳng phải Phật nói với họ là Phật, vốn chẳng phải
Bồ Đề, nói với họ là
Bồ Đề,
Niết Bàn, giải thoát…. Biết họ gánh trăm tạ chẳng nổi tạm cho họ gánh một lon, một lít, biết họ khó tin giáo
liễu nghĩa tạm nói với họ giáo
bất liễu nghĩa, tạm được pháp lành
lưu hành còn hơn là pháp ác.
Thiện quả mãn rồi thì
ác quả đến, được Phật thì có
chúng sanh đến, được
Niết Bàn thì có
sanh tử đến, được sáng thì có tối đến, chỉ là
nhân quả hữu lậu đối đãi nhau; nếu muốn khỏi thấy sự
đối đãi chỉ cần cắn đứt câu hai đầu thì số lượng khống chế không được; không Phật, không
chúng sanh, không thân, không sơ, không cao, không thấp,
bình thường, không đẳng, không đi, không đến, chỉ cần chẳng
chấp trước văn tự, cách xa hai đầu thì nó nắm bắt ông chẳng được,
tránh khỏi các sự khổ vui, sáng tối
đối đãi nhau. Thật lý
chân thật cũng chẳng
chân thật,
hư vọng cũng chẳng
hư vọng, không phải là vật có số lượng,
thí dụ như không chẳng thể tu sửa được, nếu tâm có một chút tri giải liền bị số lượng khống chế cũng như keo sơn, năm chỗ (
ngũ uẩn) đều bị dính mắc thì bị
ma vương nắm bắt được, chẳng được
tự do về nhà.
Luận về
giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát
thiện tâm, trung là phá
thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
Bồ Tát tức phi Bồ Tát thị danh
Bồ Tát. Pháp,
phi pháp, phi
phi pháp, tất cả đều phải như thế. Nếu chỉ nói một câu hoặc hai câu làm cho
chúng sanh vào
địa ngục là tội của
Pháp sư, nếu
đồng thời nói cả ba câu mà họ tự vào
địa ngục thì việc ấy không
liên can đến
Pháp sư. Nói cái giác chiếu soi
hiện tại là Phật của mình, là sơ thiện,
không chấp lấy cái giác chiếu soi này là trung thiện, cũng không có cái tri giải về sự
không chấp lấy là hậu thiện. Những lời trên còn thuộc về Phật sau
đức Nhiên Đăng, chỉ là không phàm cũng không thánh chớ nói lầm Phật chẳng phải phàm chẳng phải Thánh.
Sơ Tổ Trung Hoa nói: “Vô năng, vô thánh là Phật tánh”. Nếu nói có
thần thông biến hoá là Phật thánh thì chín phẩm
tinh linh rồng, súc sanh…
cho đến các
cõi Trời Thích, Phạm trở lên cũng có
tinh linh thượng phẩm cũng biết được việc
xưa nay trăm kiếp đâu được gọi là Phật ư? Như
A Tu La Vương thân gấp đôi
núi Tu Di vô cùng to lớn, lúc cùng với
trời Đế Thích giao chiến, tự biết sức không bằng bèn dắt trăm muôn binh sĩ chui vào cọng sen ẩn núp,
thần thông biện tài cũng không ít nhưng chẳng phải là Phật.
Giáo ngữ có cấp bậc mau chậm, lên xuống bất đồng. Lúc chưa ngộ, chưa
giải thoát gọi là tham, sân, ngộ rồi gọi là
trí huệ Phật, nên nói: “Không khác người
thuở trước, mà chỉ khác cái
hành vi thuở trước”.
Hỏi: - Chặt cây cuốc cỏ, khai mương, đào đất có tướng
tội báo không?
Sư đáp: - Không thể
nhất định nói là có tội hay không tội. Việc có tội hay không tội là
do nơi người đó. Nếu
tham nhiễm tất cả pháp có, không, có tâm
lấy bỏ, không thấu suốt nghĩa ba câu thì nói người này
nhất định có tội. Nếu thấu suốt nghĩa ba câu tâm như
hư không cũng chẳng có cái
nghĩ tưởng hư không thì người này
nhất định là không tội, lại nữa, nếu tội đã tạo rồi lại nói là không thấy có tội thật là
vô lý.
Nếu không tạo tội mà nói là có tội thì cũng là
vô lý. Như trong luật nói: “Người
hôn mê giết người và
chuyển tướng giết người còn không bị tội giết huống là sự
truyền thừa củaThiền Tông, chẳng trụ một pháp nào, tâm như
hư không, cũng không có tướng
hư không thì đem tội để ở chỗ nào?” Cũng nói: “Đạo Thiền chẳng
cần tu, chỉ cần đừng ô nhiễm”. Cũng nói: “Chỉ cần tiêu dung hết tâm trong ngoài là được”. Cũng nói: “Về sự chiếu cảnh, đối với tất cả pháp có không đều không tham đắm cũng đừng chấp trước”. Cũng nói: “Phải học
như vầy, cái học đó giống như giặt áo dơ, áo là cái sẵn có,
dơ bẩn là từ bên ngoài đến”. Nghe nói tất cả pháp có, không, thanh, sắc, như cáu bẩn đừng đem tâm bám lấy. Dưới cội
Bồ Đề,
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp thuộc về sắc, mười hai phần giáo thuộc về thanh. Nay chỉ cần cắt đứt tất cả dòng nước có, không, thanh, sắc, tâm như
hư không, phải học như thế, như cứu lửa cháy đầu mới được,
vậy mà đến lúc
lâm chung tìm đường quen thuộc cũ để đi còn không được
triệt để, huống là đến lúc đó mới điều tâm, mới tập học thì có
hy vọng gì!
Lúc
lâm chung các cảnh
tốt đẹp hiện ra trước mắt, tuỳ theo tâm
ưa thích, chỗ nặng chịu trước. Như nay không làm việc ác thì đến lúc đó không có cảnh ác, dầu cho có cảnh ác cũng
biến thành tốt đẹp. Nếu e lúc
lâm chung kinh sợ
điên cuồng, không được
tự do, thì cần
hiện tại được
tự do mới được.
Hiện tại đối với mỗi cảnh pháp đều không
ái nhiễm, cũng chẳng y trụ vào tri giải, mới là người
tự do.
Hiện tại là nhân, lúc
lâm chung là quả.
Nghiệp quả đã hiện thì làm sao lo cho kịp! Lo là phải lo từ trước
cho đến ngày nay. Xưa nếu có nay thì nay cũng có xưa, nghĩa là ngày trước có Phật thì ngày nay cũng có Phật.
Hiện tại nếu được một niệm chẳng bị tất cả pháp có không quản nhiếp, thì chẳng đến tận
vị lai cũng được như vậy. Xưa cũng như nay, Phật chỉ là người, người chỉ là Phật, cũng là
Tam muội định, chẳng cần đem định
nhập định, chẳng cần đem Thiền tưởng Thiền, chẳng cần đem Phật tìm Phật. Như nói: “Pháp chẳng
cầu pháp, pháp chẳng
đắc pháp, pháp chẳng
hành pháp, pháp chẳng thấy pháp,
tự nhiên đắc pháp, chẳng lấy đắc để đắc thêm”. Cho nên
Bồ Tát cần phải chánh niệm như vầy: Đối với pháp rỗng không độc tồn, cũng không biết cái pháp độc tồn thì trí tánh
tự như như, chẳng phải do nhân làm ra cũng gọi là thể kết, cũng gọi là thể tập, chẳng phải là trí biết, chẳng phải là thức biết, bặt chỗ suy lường, tột cái thể ngưng tịch, sự
suy nghĩ dứt hẳn như nước biển cạn sạch, sóng không còn
sanh khởi nữa.
Cũng nói: Như lượn sóng lăn tăn không gió trên biển cả, cái chợt biết cái lượn sóng lăn tăn ấy là thô trong tế. Quên cái biết ở nơi biết vẫn còn là tế trong tế, là
cảnh giới Phật. Từ đây cái biết đầu tiên được gọi là cái đảnh của
Tam muội,cũng gọi là vua
Tam muội, cũng gọi là
nhĩ diệm trí (trí
sở tri), nó sanh ra hết thảy các
Tam muội, tưới trên đảnh của tất cả các vị
Pháp vương tử, Nơi tất cả cõi nước sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cõi nước đều thảnh
Đẳng Chánh Giác, trong ngoài
thông đạt đều không có trở ngại thì một sắc một trần, một Phật một sắc, tất cả Phật tất cả sắc, tất cả trần tất cả Phật, tất cả sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mỗi mỗi cùng khắp tất cả cõi nước cũng đều như vậy.
Đây là thô trong tế, là
cảnh giới thiệu, là tất cả
thượng lưu,
kiến văn giác tri cũng là tất cả
thượng lưu, xuất sanh nhập tử độ tất cả có, không… là
thượng lưu, có nói ra điều gì cũng là
thượng lưu.
Niết Bàn là đạo
Vô thượng, là
Vô đẳng đẳng chú, là Thuyết đệ nhất, ở trong các thuyết rất là
sâu xa, không người nào có thể đến được, là chư
Phật hộ niệm. Như thấy sóng
trong trẻo thì được nói tất cả nước là
trong trẻo, từ đó chảy ra cái
dụng công rộng lớn
mênh mông cũng là chư
Phật hộ niệm. Kinh nói: “Đi, đứng, nằm, ngồi nếu được như vậy,
lúc ấy Ta liền
hiện thân thanh tịnh quang minh” Lại nói : “Như ông thân bằng, ngữ bằng, ta cũng như vậy, một
Phật sát thanh (
Phật sát thanh: Một
tam thiên đại thiên thế giới), một
Phật sát hương, một
Phật sát vị, một
Phật sát xúc, một
Phật sát sự, thảy đều như vậy. Từ đây lên đến
thế giới Liên Hoa Tạng cao rộng thảy đều như vậy”.
Nếu giữ lấy cái biết đầu tiên làm tri giải, gọi là đảnh kết, cũng gọi là đoạ cảnh kết, là
căn bản của tất cả
trần lao. Tự
sanh tri kiến, không dây mà tự trói; vì có
sở tri nên bị
ràng buộc vào
thế giới thứ hai mươi lăm cõi. Lại nữa cái làm tan tất cả cửa
phiền não trói buộc người cũng là cái biết đầu tiên này mà hàng
Nhị thừa cho là
Nhĩ diệm thức (thức
sở tri), cũng gọi là
vi tế phiền não thì liền bèn dứt trừ. Đã dứt trừ xong, gọi là đem thần tánh
trở về cái hang không, cũng gọi là bị rượu
Tam muội làm say, cũng gọi là bị ma
giải thoát buộc.
Định lực Nhị thừa làm ra sự thành hoại trong
thế giới còn bị lọt vào
quốc độ khác mà không biết, cũng gọi là chỗ hầm sâu
giải thoát đáng sợ. Còn hàng
Bồ Tát thì
xa lìa hết thảy.
Người
đọc kinh xem giáo,
ngữ ngôn đều phải uyển chuyển
quay về tự kỷ, bởi vì tất cả
ngôn giáo chỉ đều nói về cái tánh giác chiếu soi,
nếu không bị tất cả cảnh có không chuyển ấy là
Đạo sư của ông. Cái hay chiếu soi tất cả cảnh có không kia là
Kim Cang huệ, tức có phần
tự do độc lập.
Nếu không hiểu được cái đó thì dẫu cho có tụng được
mười hai bộ kinh Phật cũng chỉ là thành kẻ
tăng thượng mạn, là kẻ khinh Phật, chẳng phải là kẻ
tu hành. Chỉ cần lìa tất cả thanh sắc, cũng không trụ ở lìa, cũng không trụ vào tri giải, đó là người
tu hành.
Đọc kinh xem giáo nói theo
thế gian thì đó là việc tốt, nhưng nếu đem so với người thấu lý mà nói thì đó là người
ngu si, bậc
Thập địa thoát ra không khỏi, còn bị trôi lặn vào dòng
sanh tử. Song
tam thừa giáo đều dùng để trị bệnh tham, sân,… Như nay
niệm niệm đều có cái bệnh tham, sân, … thì
trước tiên cần phải điều trị. Chẳng cần tìm tri giải về nghĩa cú, tri giải thuộc về tham, tham lại
biến thành bệnh. Nay chỉ cần lìa tất cả pháp có, không, cũng lìa cả cái lìa, thấu suốt nghĩa ba câu,
tự nhiên cùng Phật không khác. Đã tự là Phật còn lo
chi Phật không biết nói Pháp. Chỉ sợ chẳng phải Phật, nên bị các pháp có không
trói buộc, chẳng được
tự do. Thế nên, lý chưa vững mà
trước tiên đã có
phước trí thì sẽ bị
phước trí lôi đi như kẻ hèn
sai khiến người sang, chẳng bằng đầu tiên ngộ lý rồi sau hãy có
phước trí.
Nếu cần phước trí tức khắc làm ra được.
Phước trí xài ra, nắm vàng thành đất, nắm đất thành vàng, biến nước biển thành tô lạc, đập
núi Tu Di làm bụi nhỏ, đem bốn biển để vào lỗ chân lông, ở nơi một nghĩa làm
vô lượng nghĩa, ở nơi
vô lượng nghĩa làm một nghĩa. Cũng nói: “Sẩy chân làm
Chuyển Luân Vương, khiến cho
nhân dân trong bốn châu
thiên hạ một ngày
tu hành Thập thiện,
phước trí này cũng không bằng
phước trí trên”. Cái giác chiếu soi của chính mình (
Tự tánh) gọi là Vương (vua). Niệm
chấp trước cáp pháp có không, gọi là
Chuyển Luân Vương.
Hiện tại chỉ cần trong tạng phủ không
dung nạp tất cả pháp có không, lìa ngoài
tứ cú gọi là “KHÔNG”, “KHÔNG” gọi là thuốc
bất tử, vì đối với Vương trước (
Tự tánh) mới gọi là thuốc
bất tử. Tuy nói là thuốc
bất tử với Vương cùng uống, nhưng cũng chẳng phải là hai vật, cũng chẳng phải là một vật. Nếu cho là một, là hai, cũng gọi là
Chuyển Luân Vương. Như nay có người dùng
phước trí tứ sự cúng dường tứ sinh lục đạo khắp bốn trăm muôn ức
a tăng kỳ thế giới, tuỳ theo sự
ưa thích của
chúng sanh đến mãn tám mươi tuổi rồi, mới nghĩ rằng các
chúng sanh này đã già yếu, ta nên đem
Phật pháp dạy dỗ họ khiến cho đều
đắc quả Tu Đà Hườn cho đến A La Hán. Người
bố thí này trước kia
bố thí cho
chúng sanh tất cả đồ
ưa thích,
công đức còn là
vô lượng, huống chi sau này làm cho
đắc quả Tu Đà Hườn cho đến A La Hán,
công đức càng thêm
vô lượng vô biên mà cũng còn không bằng
công đức nghe Kinh tuỳ hỷ của người thứ năm mươi.
Kinh
Báo Ân nói: “Ma Da
phu nhân sanh năm trăm
Thái tử đắc quả Bích Chi Phật. Mỗi vị đều được xây tháp
cúng dường lễ bái mà bà than rằng: “Không bằng sanh một đứa con đắc
Vô thượng Bồ Đề, ít phí
tâm lực của ta” ”. Nay tìm ở trong chúng trăm nghìn muôn đời, có một người
đắc đạo thì
giá trị bằng
tam thiên đại địa thế giới. Do đó ta thường khuyên
mọi người phải nên huyền giải tự lý (ngộ), tự lý nếu huyền thì
sai khiến được
phước trí như người sang
sai khiến kẻ hèn, cũng như xe vộ trụ (
Phật thừa). Nếu
chấp trước cái này làm tri giải thì gọi là hạt châu thường trong búi tóc, cũng gọi là hạt châu có giá, cũng gọi là chở phẩn vào. Nếu chẳng chấp cái này làm tri giải thì như hạt
minh châu trong búi tóc nhà vua cũng gọi là
vô giá đại bảo, cũng gọi là chở phẩn ra.
Phật chính là người ở ngoài sự
trói buộc, lại vào
trong vòng trói buộc mà
làm Phật. Ngài chính là người bên kia bờ
sanh tử, là người bên kia bờ huyền tuyệt lại trở qua bờ bên này
làm Phật. Người cùng khỉ, vượn đều không thể làm được, người dụ cho hàng
Thập địa, khỉ vượn dụ cho
phàm phu.
Đọc kinh xem giáo, cầu tất cả tri giải chẳng phải là không cho. Dù hiểu được
tam thừa giáo là khéo được đồ
anh lạc trang nghiêm, được ba mươi hai tướng, nhưng tìm Phật thì chẳng phải. Kinh nói: “Người
học giả tham chấp
tam tạng Tiểu thừa còn không cho thân cận, huống chi tự cho mình là đúng”. Trong
Kinh Niết Bàn,
Tỳ Kheo phá giới và
danh tự A La Hán bị liệt vào trong mười sáu
ác luật nghi, đồng với người săn bắn, lưới cá vì
lợi dưỡng mà giết hại sinh vật. Loại
kinh Đại Thừa Phương Đẳng cũng như
cam lồ mà lại cũng như thuốc độc, tiêu được thì như
cam lồ, tiêu không được thì như thuốc độc, Người học kinh xem giáo
nếu không hiểu được đó là
lời nói sống hay
lời nói chết (tử ngữ) thì
chắc chắn không thấu nghĩa cú, thà đừng học
tốt hơn.
Cũng nói: Cần xem giáo mà cũng
cần phải tham học với bậc
thiện tri thức, nhất là
cần phải tự có mắt để
biện biệt lời nói sống hay
lời nói chết mới được. Nếu
biện tài chẳng được thì
chắc chắn thấu qua không nổi, chỉ là chồng thêm dây
trói buộc Tỳ Kheo. Vì thế, dạy người học
huyền chỉ, không cho học
văn tự.
Như bảo: Nói thể chẳng nói tướng, nói nghĩa chẳng nói văn, người nói như vậy gọi là
chân thuyết. Nếu nói
văn tự thì đều là
phỉ báng đây gọi là
tà thuyết.
Bồ Tát nếu nói thì phải
nói đúng như Pháp cũng gọi là
chân thuyết, phải làm cho
chúng sanh trì tâm chẳng trì sự, trì hạnh chẳng
trì Pháp, nói người chẳng nói chữ, nói nghĩa chẳng nói văn.
Nói
Dục giới không có Thiền đó là
lời nói của người chột mắt. Đã nói
Dục giới không có thiền thì
dựa vào đâu để lên Sắc giới? Đầu tiên ở
Nhân địa tu tập hai thứ định, về sau mới lên đến Sơn thiền. Hai thứ định ấy là
Hữu tưởng định và
Vô tưởng Thiền ở
Sắc giới.
Vô tưởng định sanh vào các
cõi Trời Tứ không ở
Vô sắc giới.
Dục giới hiển nhiên là có Thiền, Thiền chẳng phải chỉ ở
Sắc giới mới có.
Hỏi:
Hiện tại nói cõi này có Thiền, là như thế nào?
Sư đáp: Chẳng động chẳng Thiền là
Như lai thiền, lìa cái khởi
ý tưởng thiền.
Hỏi: Thế nào là
hữu tình không
Phật tánh và vô tình có Phật tánh?
Sư đáp: Từ người đến Phật là tính chấp Thánh, từ người đến
địa ngục là tình chấp phàm. Như nay đối với hai cảnh phàm, Thánh có tâm
ái nhiễm thì gọi là
hữu tình không
Phật tánh. Còn như nay đối với hai cảnh phàm, Thánh và tất cả pháp có không đều không có tâm
lấy bỏ, cũng không có luôn cả cái trí giải về không
lấy bỏ thì gọi là vô tình có
Phật tánh. Do vì không bị tình chấp
ràng buộc nên gọi là vô tình chứ không đồng với loài vô tình như gỗ, đá,
hư không, hoa vàng, trúc biếc mà cho là có
Phật tánh. Nếu nói các loài vô tình ấy có
Phật tánh, tại sao trong kinh không thấy
thọ ký cho nó thành Phật? Chỉ như cái giác chiếu soi
hiện tại chẳng bị
hữu tình cải biến, dụ như trúc biếc, không lúc nào chẳng ứng cơ, chẳng bất tri thời, dụ như hoa vàng.
Lại nói “Nếu
bước lên bậc thang Phật là vô tình có
Phật tánh, còn chưa
bước lên nấc thang Phật là
hữu tình không Phật tánh”.
Hỏi: -
Đại Thông Trí Thắng Phật (
Bích Chi Phật) mười kiếp ngồi
đạo tràng,
Phật pháp chẳng
hiện tiền, chẳng được
thành Phật đạo là như thế nào?
Sư đáp: - Kiếp nghĩa là
mắc kẹt, cũng có nghĩa là trụ. Trụ nơi một điều thiện,
mắc kẹt nơi
Thập thiện.
Ấn Độ nói Phật, Trung Hoa dịch là Giác, là cái giác chiếu soi của chính mình. Người
mắc kẹt nơi thiện là người có
thiện căn mà không có
Phật tánh nên nói Phật chẳng phải
hiện tiền, chẳng được
thành Phật đạo.
Gặp ác trụ nơi ác, gọi là
chúng sanh giác, gặp
thiện trụ nơi thiện gọi là
Thanh Văn Giác. Chẳng trụ hai bên
thiện ác và cho sự chẳng y trụ là đúng, đây gọi là
Nhị thừa giác, cũng gọi là
Bích Chi Phật giác. Đã chẳng y trụ hai bên
thiện ác và cũng chẳng khởi tri giải về chẳng y trụ gọi đó là
Bồ Tát giác. Đã chẳng y trụ cũng không cái biết chẳng khởi cái tri giải về không y trụ mới được gọi là Phật giác. Như nói Phật chẳng trụ nơi Phật, gọi là chân
phước điền, nếu ở trong nghìn muôn người chợt có một người được như thế thì gọi là
của báu vô giá, được ở khắp
mọi nơi làm
Đạo sư. Chỗ không có Phật nói là Phật, chỗ không có Pháp nói là Pháp, chỗ không có Tăng nói là Tăng, đấy là
chuyển đại pháp luân.
Hỏi: - Từ trước
Tổ Tông đều có
mật ngữ lần lượt truyền cho nhau là như thế nào?
Sư đáp: - Không có
mật ngữ.
Như Lai không có tạng
bí mật. Chỉ cái giác chiếu soi
hiện tại,
lời nói rõ ràng mà tìm
hình tướng không được, đó là
mật ngữ. Từ
Tu Đà Hườn lên đến
Thập địa hễ có ngữ cú đều thuộc về
pháp trần cấu, hễ có ngữ cú đều thuộc về giáo
bất liễu nghĩa, hễ có ngữ cú đều không đúng. Giáo
bất liễu nghĩa đều sai lại còn đòi
mật ngữ gì nữa?
Hỏi: -
Hư không sanh trong
đại giác như một hòn bọt nổi trong biển cả là như thế nào?
Sư đáp: -
Hư không dụ cho bọt, nước biển dụ cho
tự tánh.
Tự tánh linh giác của chính mình
siêu việt hư không, nên nói
hư không sanh trong
đại giác như một hòn bọt nổi trong biển cả.
Hỏi: - Đốn rừng chớ chặt cây là thế nào?
Sư đáp: - Rừng dụ cho tâm, cây dụ cho thân. Nhân vì nói là “đốn rừng” nên sanh ra
sợ hãi, do đó nói đốn rừng chớ chặt cây.
Hỏi:
Lời nói như cái mô đất để chịu tên bắn.
Lời nói sanh ra không thể nào chẳng bị hại như cái mô đất kia (Mô đất dụ như thân, chịu tên bắn dụ như bệnh, thân đã sanh rồi thì tất nhiên phải có bệnh).
Tai hại đã đồng, đúng sai làm sao biện biệt?
Sư đáp: Như hai người bắn tên nhau, hai đầu mũi tên đụng nhau giữa đường, nếu như sai chệch một chút ắt sẽ có kẻ
bị thương. Trong hang tìm tiếng, nhiều kiếp cũng không có hình, tiếng ở bên miệng, đúng sai là ở nơi người đến hỏi. Cái hỏi
trở lại thì bị trúng tên, cũng như cái biết huyễn chẳng phải huyễn. Tam Tổ nói: “Chẳng biết
huyền chỉ,
uổng công niệm tịnh”. Cũng nói: Nhận vật làm cái thấy như nắm miếng ngói bể dùng gì được đâu! Nếu nói chẳng thấy thì có khác gì gỗ đá. Thế nên thấy và chẳng thấy cả hai đều có lỗi. Nay nêu lên một để làm ví dụ cho tất cả.
Hỏi: - Vốn không có
phiền não thì ba mươi hai tướng là thế nào?
Sư đáp: - Việc bên Phật vốn không có
phiền não, có ba mươi hai tướng chỉ là
phàm tình hiện nay thôi.
Hỏi: -
Bồ Tát Vô Biên Thân chẳng thấy đảnh tướng của
Như Lai là thế nào?
Sư đáp: - Do vì cái thấy
hữu biên và
vô biên nên chẳng thấy được đảnh tướng của
Như Lai. Chỉ như nay không có tất cả cái thấy có và cũng không có cái thấy không, đó gọi là đảnh tướng hiện.
Hỏi: - Như hiện nay các thầy
Sa Môn đều nói: Tôi
y theo lời Phật dạy học một kinh, một luận, một thiền, một luật, một tri, một giải, đáng thọ nhận bốn sự
cúng dường của
đàn việt như thế có tiêu được không?
Sư đáp: -
Theo như nay chiếu dụng, một thanh, một sắc, một hương, một vị, đối với tất cả pháp có, không, ở trên mọi cảnh đều không có
mảy may đắm nhiễm, cũng chẳng y trụ vào sự không đắm nhiễm và cũng không khởi tri giải về sự chẳng y trụ, người được như vậy mỗi ngày ăn muôn lượng
vàng ròng cũng tiêu. Như nay chiếu soi tất cả pháp có, không… nơi cửa
lục căn dầu có cạo gọt mà đối với
tham ái có một
mảy may trị chẳng hết thì người này dù
cho đến xin
thí chủ một hạt cơm, một sợi chỉ, đều phải mang lông đội sừng, kéo cày chở nặng, mỗi mỗi đều phải trả nợ
thí chủ mới được, vì họ chẳng
y theo Phật. Phật là người
vô trước, vô cầu,
vô y, như nay cứ
lăng xăng tham đi tìm Phật đều là trái vậy. Cho nên nói:
“Nhiều kiếp gần bên Phật,
Mà chẳng biết
Phật tánh.
Chỉ thấy người
cứu thế (
Phật tánh),
Luân hồi trong
lục đạo.
Lâu mới thấy được Phật,
Lại nói Phật khó gặp”.
Ngài
Văn Thù là
Tổ Sư của bảy
Đức Phật cũng gọi vị
Bồ Tát đứng đầu thế giới Ta Bà này
vô cớ tác ý tưởng thấy Phật, tưởng
nghe pháp, nên bị sức
oai thần của Phật đày xuống hai hòn núi
Thiết Vi. Chẳng phải Ngài không hiểu, nhưng
đặc biệt để làm gương cho người học, để kẻ hậu học đừng có thấy nghe như thế. Chỉ cần không có tất cả pháp, có, không, các
kiến chấp có, không, mỗi mỗi đều thấu suốt ngoài ba câu, đây gọi là ngọc báu
như ý, cũng gọi là đặt chân lên Bửu
Liên Hoa. Nếu có
tri kiến Phật,
tri kiến Pháp,
tri kiến có không gọi là con mắt bệnh, vì cái năng kiến,
sở kiến, cũng gọi là kiến
trói buộc, cũng gọi là kiến
che lấp, cũng gọi là kiến tác nghiệt. Chỉ như nay
niệm niệm cùng tất cả kiến, văn, giác, tri và hết thảy
trần cấu khử bỏ được hết thì một trần, một sắc đều là một Phật. Dẫu khởi một niệm cũng là một Phật,
niệm niệm của thân
ngũ ấm quá khứ,
hiện tại,
vị lai vô lượng vô biên, đây gọi là Phật lấp bít
hư không, cũng gọi là
phân thân Phật, cũng gọi là
Bảo Tháp hiện. Vì
thế thường than rằng: “Sinh mạng ngày nay bị
tứ đại nắm chặt, thiếu một ngày không sống, thiếu một ngày không chết, phải nhờ một hột gạo, một cọng rau, không được ăn thì bị
chết đói, không được uống thì bị
chết khát, không được lửa sưởi ấm thì bị chết lạnh, như thế chẳng bằng người đã đạt đạo vào lửa không bị cháy, xuống nước không chìm, muốn cháy liền cháy, muốn chìm liền chìm, muốn sống liền sống, muốn chết liền chết, đi ở
tự do, người này có phần
tự do vậy”.
Tâm
nếu không loạn thì chẳng
cần cầu Phật, cầu
Bồ Đề, cầu
Niết Bàn. Nếu
chấp trước cầu Phật là tham, tham
biến thành bệnh, nên nói: “Bệnh Phật rất khó trị”.
Báng Phật, phỉ Pháp mới được lấy cơm ăn. Người ăn là tánh
linh giác của chính mình, cơm
vô lậu,
thức ăn giải thoát, những lời trên là trị bệnh cho hàng
Bồ Tát Thập địa.
Như nay hễ có tất cả tâm mong cầu đều gọi là
Tỳ Kheo phá giới, là
danh dự A La Hán, đều gọi là con chồn,
hiển nhiên là không tiêu được đồ
cúng dường của người.
Chỉ cần
hiện tại nghe tiếng như vang, ngửi hương như gió, lìa hết tất cả pháp có, không, cũng chẳng trụ nơi lìa, cũng không có tri giải về chẳng trụ. Người này tất cả
tội cấu không thể buộc ràng được.
Vì cầu
Vô thượng Bồ Đề,
Niết Bàn nếu gọi là
xuất gia, vẫn còn là nguyện tà, huống là sự
tranh luận hơn thua ở
thế gian, như nói: “Tôi làm được, tôi hiểu được”. Tham thêm một
môn đồ, thương một
đệ tử,
lưu luyến một chỗ ở,
kết duyên với một
đàn việt, một manh áo, một chén cơm, một danh, một lợi mà lại nói: “Ta được tất cả đều vô ngại”. Đó chỉ là tự dối mình.
Chỉ cần
hiện tại đối với
ngũ ấm của mình chẳng bị nó làm chủ. Bị người chặt đứt
thân thể ra từng khúc vẫn không có tâm oán tiếc, cũng không phiền.
Cho đến việc
đệ tử của mình bị người đánh đập từ đầu đến chân, những việc kể trên đều không có một niệm sanh tâm bỉ ngã. Song, nếu còn y trụ nơi không có một niệm trên cho đó là đúng đây gọi là sự nhơ bợn của
pháp trần. Hàng
Thập địa còn thoát chưa được nên còn bị trôi vào dòng
sanh tử. Do đó ta thường khuyên
mọi người phải sợ
phiền não của
pháp trần như sợ
tam đồ thì mới có phần
độc lập. Giải sử có một pháp nào hơn cả
Niết Bàn đi nữa, cũng không sanh ra
ý tưởng quý trọng thì người này mỗi bước đi là Phật chẳng cần chân đạp
hoa sen, chẳng cần
phân thân trăm ức. Nếu
hiện tại đối với các pháp có không, có tâm
ái nhiễm bằng mảy lông thì dẫu cho chân có đạp
hoa sen cũng đồng như ma làm.
Nếu chấp vốn
thanh tịnh, vốn
giải thoát, tự là Phật, tự là Thiền đạo, có
kiến giải này, thuộc về phái
ngoại đạo tự nhiên.
Nếu chấp
nhân duyên tu thành,
chứng đắc, tức thuộc về phái
ngoại đạo nhân duyên.
Chấp có tức thuộc về phái
ngoại đạo thường kiến.
Chấp không tức thuộc về phái
ngoại đạo đoạn kiến.
Chấp cũng có cũng không tức thuộc về phái
ngoại đạo biên kiến.
Chấp chẳng có chẳng không tức thuộc về phái
ngoại đạo không kiến cũng gọi là
ngoại đạo ngu si.
Hiện nay chó khởi các
kiến chấp Phật, Niết Bàn… Không có tất cả
kiến chấp có không, cũng không có cả cái
không kiến chấp nữa, mới được gọi là
chánh kiến.
Không có
kiến chấp nghe và không nghe, cũng không có cái không có
kiến chấp nữa mới được gọi là chánh nghe, ấy gọi là dẹp trừ
ngoại đạo.
Không có ma
phàm phu đến là
đại thần chú, không có ma
Nhị thừa đến là
đại minh chú, không có ma
Bồ Tát đến là
vô thượng chú, không có
ma Phật đến là
Vô đẳng đẳng chú.
Một biến
chúng sanh là
siểm khúc Tu La (B), hai biến
Nhị thừa là
siểm khúc Tu La, ba biến
Bồ Tát là
siểm khúc tu la. Đó là tam
biến Tịnh độ (C). Tất cả pháp có, không, phàm, thánh… dụ như quặng vàng; tự mình đúng lý dụ như vàng. Vàng với quặng tách rời nhau thì vàng thật lộ ra. Bỗng người muốn tiền thì liền biến vàng thành tiền cho người ấy dùng. Cũng như bột mì thiệt, nếu có người đến xin bánh liền làm thành bánh cho người đó. Cũng như viên quan hầu cận có trí khéo hiểu được ý nhà vua, vua lúc muốn đi kêu “Tiên đà bà”, liền đem ngựa đến; lúc muốn ăn kêu “Tiên đà bà”, liền đem muối đến. Những việc trên dụ cho người học
huyền chỉ khéo
thông đạt được thì ứng cơ chẳng
sai lầm, nên cũng gọi là lục tuyệt
sư tử (
tự tánh). Ngài
Chí Công nói: “Tuỳ người tạo tác trăm sự biến hoá”. Hàng
Bồ Tát Thập địa chẳng đói chẳng no, vào nước không chìm, vào lửa không cháy,
ví như muốn cháy cũng chẳng được cháy, vì các vị ấy còn bị số lượng quản định. Phật thì chẳng phải như thế, vào lửa chẳng cháy, còn như muốn cháy liền cháy, vào nước chẳng chìm, muốn chìm liền chìm. Ngài
sử dụng tứ đại được
tự do, tất cả sắc là sắc Phật, tất cả thanh là thanh Phật,
cặn bã nhơ uế của tâm
siểm khúc sạch hết, thấu vượt nghĩa ba câu được nói lời này:
Bồ Tát thanh tịnh,
đệ tử sáng suốt, có nói ra điều gì chẳng
chấp có không, tất cả chiếu dụng chẳng lạc vào thanh hay trược.
Người có bệnh mà không uống thuốc là người ngu. Người không bệnh mà uống thuốc là hàng
Thanh Văn. Người chấp
quyết định vào một pháp gọi là
định tánh Thanh Văn. Người luôn luôn
đa văn gọi là
Tăng thượng mạn Thanh Văn. Người ham biết các Pháp ngoài tâm gọi là
hữu học Thanh Văn. Người
trầm không trệ tịch và tự
biết mình gọi là
vô học Thanh Văn.
Tham, sân, si là độc, mười hai phần giáo là thuốc, độc chưa tiêu hết, thuốc không được bỏ, không bệnh mà uống thuốc, thuốc
trở thành bệnh. Bệnh hết mà thuốc không bỏ nên nói
bất sanh bất diệt là nghĩa
vô thường.
Kinh Niết Bàn nói: “Có ba điều
ác dục: Một là muốn được
tứ chúng vây quanh; hai là muốn
mọi người làm
môn đồ mình; bà là muốn cho
mọi người biết ta là
Thánh nhân, là người có
trí huệ cao”. Kinh
Ca Diếp nói: “Một là muốn cầu thấy
Phật vị lai; hai là muốn cầu làm
Chuyển Luân Vương; ba là muốn cầu vào dòng
Sát Đế Lợi; bốn là muốn được vào hàng
Bà La Môn nhẫn đến chán
sanh tử cầu
Niết Bàn.” Những điều
ác dục như vậy trước hết phải dứt trừ.
Hiện tại hễ có dấy niệm đắm nhiễm đều gọi là
ác dục, đều thuộc về sáu
cõi trời dục bị
ma Ba tuần cai quản.
Hỏi: - Trong hai mươi năm thường sai đi trừ phẩn là thế nào?
Đáp: - Chỉ cần dứt hết thảy các
tri kiến có không, chỉ cần dứt tất cả các sự tham cầu, mỗi mỗi đều thấu suốt nghĩa ba câu thì gọi là trừ phẩn. Còn như nay cầu Phật, cầu
Bồ Đề, cầu tất cả pháp có không,… Thì đó là chở phẩn vào, không gọi là chở phẩn ra. Nếu
hiện tại khởi ra
Phật kiến, Phật giải, hễ có
sở kiến,
sở cầu, sở trước đều gọi là phẩn
hý luận, cũng gọi là
thô ngôn, cũng gọ là tử ngữ. Như nói: “Biển lớn không chứa tử thi”.
Bình thường nói chuyện chẳng gọi là
hý luận.
Lời nói biện biệt thanh, trược, gọi là
hý luận. Văn trong kinh có nói chung hai mươi mốt thứ “không” là để
gạn lọc trần luỵ của
chúng sanh.
Bậc
Sa môn trì trai,
giữ giới,
nhẫn nhục, nhu hoà,
từ bi,
hỷ xả là phép tắc thông thường của Tăng sĩ. Đã biết như thế là
rõ ràng làm theo
lời Phật dạy, song không nên
chấp trước. Nếu
hy vọng được Phật, được
Bồ Đề và các pháp…. Thì khác nào để tay chạm vào lửa. Ngài
Văn Thù nói: “Nếu khởi
Phật kiến,
Pháp kiến thì sẽ tự hại mình”. Vì thế Ngài
Văn Thù cầm gươm bên Phật, ông Ương Quật cầm đao bên
Thích thị (Phật). Như nói: “Bồ Tát làm
ngũ vô gián mà chẳng bị vào
địa ngục Vô gián, vì các Ngài là người huyền thông
Vô gián nên không đồng như
chúng sanh tạo tội
ngũ nghịch Vô gián”.
Từ
Ba tuần thẳng đến Phật đều là cáu ghét. Không có
mảy may y chấp như thế còn gọi là đạo
Nhị thừa, huống chi
tranh luận tìm sự hơn thua, nói “Ta làm được, ta hiểu được” thì chỉ được gọi là
tranh luận Tăng, chẳng được gọi là
Vô vi Tăng.
Hiện tại chỉ cần không
tham nhiễm tất cả các pháp có không thì gọi là
vô sanh, cũng gọi là
chánh tín. Tin mà còn
chấp trước vào tất cả pháp thì gọi là
lòng tin chẳng đủ, cũng gọi là
lòng tin không
trọn vẹn, cũng gọi là
lòng tin lệch lạc.
Lòng tin chẳng đủ cho nên gọi là
Nhất xiển đề. Như nay muốn được hoát nhiên
ngộ giải thì chỉ cần
nhân pháp đều bặt,
nhân pháp đều đứt,
nhân pháp đều không, thấu suốt nghĩa ba câu đây gọi là người bất đoạ
chư số (không lọt vào số lượng), đó là tin pháp, đó là giới thí, văn huệ…
Bồ Tát chịu nhịn chẳng
thành Phật, chịu nhịn chẳng làm
chúng sanh, chịu nhịn chẳng
trì giới, chịu nhịn chẳng
phá giới, cho nên nói là không trì, không phạm.
Trí trược chiếu thanh, huệ thanh biết trược. Nơi Phật gọi là chiếu huệ, nơi
Bồ Tát gọi là trí, nơi
Nhị thừa và
chúng sanh gọi là thức, cũng gọi là
phiền não. Nơi Phật gọi là trong quả nói nhân, nơi
chúng sanh gọi là trong nhân nói quả. Nơi Phật gọi là
Chuyển pháp luân, nơi
chúng sanh gọi là
Pháp luân chuyển. Nơi
Bồ Tát gọi là đồ
anh lạc trang nghiêm, nơi
chúng sanh gọi là
ngũ ấm Tòng lâm. Nơi Phật gọi là bốn địa
vô minh, do vì
hiểu rõ vô minh nên nói
vô minh là
đạo thể, chẳng đồng với
ám muội vô minh của
chúng sanh.
Kia là sở, đây là năng,
Kia là sở văn, đây là năng văn,
Chẳng một, chẳng khác,
Chẳng đoạn, chẳng thường,
Chẳng đến, chẳng đi.
Là
lời nói sống, là
lời nói vượt ra ngoài khuôn khổ ngữ cú, chẳng sáng, chẳng tối, chẳng Phật, chẳng
chúng sanh cũng đều như vậy. Đến, đi, đoạn, thường, Phật,
chúng sanh đều là
lời nói chết. Khắp hay chẳng khắp, đồng hay dị đoạn hay thường, … đều là cái nghĩa của
ngoại đạo.
Bát Nhã Ba La Mật là
Phật tánh của chính mình cũng gọi là
Ma Ha Diễn (
Đại thừa). Nếu chấp giữ cái
tri giác của mình thì thần
ngoại đạo tự nhiên. Không giữ cái giác chiếu soi
hiện tại, không cầu Phật, nếu cầu cái khác thì thuộc về
ngoại đạo nhân duyên.
Sơ Tổ nói: “Tâm có chỗ phải, ắt có chỗ quấy”. Nếu quý một vật ắt thì bị một vật làm
mê hoặc, nếu trọng một vật thì bị vật làm
mê hoặc. Tin thì bị
lòng tin làm
mê hoặc, không tin thì lại thành
phỉ báng. Thế nên đừng quý, cũng đừng không quý, đừng tin cũng đừng không tin.
Phật cũng chẳng phải là
vô vi, tuy chẳng phải là
vô vi lại cũng chẳng phải là cái
tối tăm yên lặng như
hư không. Phật là
chúng sanh thân lớn, giác chiếu soi nhiều nhưng
thanh tịnh, quỷ tham sân bắt không được. Phật là người ở ngoài vòng
trói buộc không có
mảy may ái thủ, cũng không có tri giải về không ái thủ, đây gọi là đầy đủ
lục độ vạn hạnh,
nếu cần đồ
trang nghiêm thì thứ nào cũng có, còn
như không cần không dùng thì cũng chẳng mất nó.
Tự do sai khiến được
nhân quả,
phước trí là
tu hành, chứ chẳng phải nhọc nhằn mang nặng mới gọi là
tu hành.
Ba thân một thể,
một thể ba thân.
1. PHÁP THÂN THẬT TƯỚNG PHẬT: Pháp thân Phật không sáng, không tối. Sáng tối thuộc về
huyễn hoá.
Thật tướng là do đối với hư tướng mà đặt tên, thật ra nó vốn không có tất cả tên gọi, như nói:
Pháp thân vô vi bất đoạ
chư số,
thành Phật cao quý, … đều là lời nhẹ như gánh một lon, một lít. Do tên trược mới được đặt tên thanh nên
nói thật tướng
Pháp thân Phật, cũng gọi
Thanh tịnh Pháp thân
Tỳ Lô Giá Na Phật, cũng gọi
hư không Pháp thân Phật, cũng gọi
Đại Viên Cảnh Trí, cũng gọi
đệ bát thức, cũng gọi là Tánh Tông, cũng gọi
không tông, cũng gọi là Phật ở cõi không tịnh, không uế, cũng gọi
sư tử ở tại hang, cũng gọi
Kim cang Hậu đắc trí, cũng gọi
Vô cấu đàn, cũng gọi
Đệ nhất nghĩa không, cũng gọi
Huyền chỉ. Tam Tổ nói: “Chẳng biết
huyền chỉ,
uổng công niệm định”.
2. BÁO THÂN PHẬT:
Báo thân Phật là Phật dưới cội
Bồ Đề, cũng gọi là
huyễn hoá Phật, cũng gọi là
tướng hảo Phật, cũng gọi là
Ứng thân Phật, cũng gọi là
viên mãn Báo thân Lô Xá Na Phật, cũng gọi là
Bình đẳng tánh trí, cũng gọi là đệ Thất thực, cũng gọi là Thù nhân đáp quả Phật, đồng với số năm mươi hai
Thiền na, đồng với
A La Hán,
Bích Chi Phật, đồng với tất cả
Bồ Tát, đồng chịu các khổ
sanh diệt mà không
đồng nghiệp khổ
ràng buộc của
chúng sanh.
3. HOÁ THÂN PHẬT:
Hiện tại đối với các pháp có, không đều không
tham nhiễm, cũng không cả cái không
tham nhiễm, lìa ngoài
tứ cú. Tất cả
ngôn thuyết biện tài đều gọi là
Hoá thân Phật, cũng gọi là Thiên bá ức
Hoá thân Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng đại
thần biến, cũng gọi là
Du hí thần thông, cũng gọi là
Diệu quan sát trí, cũng gọi là đệ
Lục thức.
Cúng dường nghĩa là làm
thanh tịnh ba nghiệp.
Tiền tế (
quá khứ) không
phiền não để đoạn,
trung tế (
hiện tại) không
tự tánh để giữ,
hậu tế (
vị lai) không Phật để thành, đó là
Tam tế (
tam thế) đoạn, là
ba nghiệp thanh tịnh, là
Tam luân không, là
tam đàn không (
Tam đàn: người
bố thí, người nhận
bố thí,
tài vật bố thí). Thế nào là
Tỳ Kheo hầu hạ Phật? Đó là người
lục căn chẳng lậu, cũng gọi là “Trang nghiêm vô chư lậu”, “Rừng cây
trang nghiêm vô chư nhiễm”, “Hoa quả
trang nghiêm vô Phật nhãn”. Về
pháp nhãn của người
tu hành biện biệt thanh trược, cũng không có tri giải về sự
biện biệt thanh trược, đây gọi là
Ngũ nhãn (
nhục nhãn cho đến Phật nhãn).
Kinh
Bảo Tích nói:
Pháp thân không thể dùng kiến, văn, giác, tri để cầu,
Nhục nhãn không thấy được vì nó
vô sắc,
Thiên nhãn không thấy được vì nó
vô vọng,
Huệ nhãn không thấy được vì nói
lìa tướng,
Pháp nhãn không thấy được vì nói lìa hành,
Phật pháp nhãn không thấy được vì nó lìa thức.
Nếu không có những
tri kiến trên thì gọi là
Tri kiến Phật. Đồng sắc mà chẳng phải
hình sắc nên gọi là
chân sắc. Đồng không mà chẳng phải
thái hư nên gọi là
chân không. Sắc với không cũng là
lời nói thuốc với bệnh để trị nhau (chấp sắc lấy không trị,
chấp không lấy sắc trị).
Pháp giới quan nói: “Chớ nói tức sắc, chẳng tức sắc, cũng chớ nói tức không chẳng tức không”.
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý không
lãnh nạp tất cả pháp có không, gọi là chuyển vào đệ
Thất địa.
Bồ Tát Thất địa không lui sụt
thất địa. Từ
Bồ Tát Bát địa đến
Bồ Tát Thập địa,
tâm địa trong sạch để hiện
diệu dụng của
tự tánh, nói lửa lửa liền cháy.
Từ
Sắc giới trở lên
bố thí là bệnh;
bỏn xẻn tham làm là thuốc. Từ
Sắc giới trở xuống
bỏn xẻn tham lam là bệnh,
bố thí là thuốc.
Hữu tác giới là cắt dứt pháp
thế gian, chẳng phải thân tay làm thì không có lỗi.
Vô tác giới, cũng gọi là
Vô biểu giới, cũng gọi là
Vô lậu giới. Hễ có dấy tâm động niệm đều gọi là
phá giới. Nay chỉ cần không bị các cảnh có không làm hoặc loạn, cũng chẳng y trụ nơi không hoặc loạn, cũng không có tri giải về chẳng y trụ, đây gọi là biến học (
phổ biến) cũng gọi là cần tán niệm (cần = siêng, tán = khen), cũng gọi là Quảng
lưu bố.
Lúc chưa ngộ, chưa hiểu gọi là mẹ, ngộ rồi hiểu rồi gọi là con. Cũng không có cái tri giải về ngộ hay không ngộ, hiểu hay không hiểu, đây gọi là
mẹ con đều chết. Không có sự
ràng buộc của thiện, của ác, của Phật, của
chúng sanh; số lượng cũng vậy, nhẫn đến không có sự
ràng buộc của tất cả số lượng. Cho nên nói Phật là bậc
siêu việt số lượng, vượt ra ngoài các sự
ràng buộc.
Tham lam,
ưa thích tri giải, nghĩa cú cũng như mẹ thương con, chỉ biết cho con ăn nhiều sữa ngon mà con có tiêu hoá được hay không đều không biết. Những lời này dụ cho:
- Hàng
Thập địa thọ sự cúng dường của trời, người là tôn quý
phiền não.
-
Thiền định sanh vào
Sắc giới,
Vô sắc giới, là phước lạc
phiền não.
- Được
thần thông tự tại bay đi ẩn hiện khắp
tịnh độ mười phương chư Phật, là
nghe pháp phiền não.
- Học
từ bi hỷ xả là
nhân duyên phiền não.
- Học
lý không,
bình đẳng, là
Trung đạo phiền não.
- Học
tam minh,
Lục thông là
Tứ vô ngại phiền não.
- Học tâm
Đại thừa là phát
Tứ hoằng thệ nguyện phiền não.
-
Sơ địa, Nhị địa,
Tam địa, Tứ địa là
minh giải phiền não. Ngũ địa, Lục địa,
Thất địa là chư
tri kiến phiền não.
Bát địa,
Cửu địa,
Thập địa là song chiếu
Nhị đế (
chân đế và
tục đế)
phiền não.
Cho đến học
Phật quả là bá vạn
A tăng kỳ chư hạnh phiền não. Chỉ biết tham nghĩa cú tri giải chẳng biết đó là
trói buộc phiền não, nên nói: “Dòng sông
kiến chấp hay cuốn trôi hương tượng” (loài voi lớn ở
Hy Mã Lạp Sơn dụ cho hàng
Bồ Tát).
Hỏi: - Thấy chăng?
Đáp: - Thấy.
Lại hỏi: - Sau khi thấy thì thế nào?
Đáp: - Cái thấy không hai.
Đã nói thấy không hai thì không được lấy “kiến” để “kiến” cái “kiến”. Nếu “kiến” lại thêm “kiến” thì thành hai câu đầu. Vậy cái “kiến” trước phải hay cái “kiến” sau phải? Cũng như
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến. Kiến do ly kiến, kiến bất năng cập” (Hai chữ “kiến kiến” này là chỉ cho “kiến tánh”. Khi đã
kiến tánh thì kiến (- trước) không phải là năng kiến cho nên không có tánh để làm
sở kiến (- sau). Gọi là kiến còn phải lìa kiến, nếu có năng kiến thì không thấy được
tự tánh, cho nên nói: Kiến bất năng cập).
Vì thế không hành
kiến pháp, không hành
văn pháp, không hành
giác pháp, không hành
tri pháp, thì chư Phật liền
thọ ký cho.
Hỏi: -
Kiến pháp đã chẳng phải là lời
thọ ký thì dùng cái gì để thọ ký?
Sư đáp: - Người đã ngộ Tông thì chẳng bị tất cả pháp có không
trói buộc như giặt áo bẩn vậy, nên nói:
Ly tướng gọi là Phật, hư thật đều không còn; trung chỉ độc huyền, huyền đạt một lối (Trung chỉ =
tự tánh, độc huyền =
bất khả tư nghì.
Tự tánh huyền diệu bất khả tư nghì,
đạt đến cái
huyền diệu ấy chỉ có một đường lối là phải
tự ngộ mới được), kẻ
đồng đạo hậu tấn (hậu học) khế hợp đến bậc đó, nên nói
thọ ký vậy.
Vô minh là cha,
tham ái là mẹ. Tự kỷ là bệnh, tự kỷ cũng là thuốc. Tự kỷ là dao giết cha
vô minh, mẹ
tham ái của chính mình, nên nói giết cha hại mẹ. Đó là một cách nói để phá hết thảy pháp. Người ăn
phi thời thực cũng vậy.
Hiện tại đắm nhiễm tất cả pháp có không đều gọi là ăn
phi thời thực cũng gọi là ác thực, là
thức ăn nhơ đựng trong chén báu, là
phá giới, là làm nhơ chén, là tạp thực.
Phật là người không cầu, hiện nay tham cầu tất cả pháp có không, hễ có
sở tác đều là quấy cả, tức là
phỉ báng Phật. Hễ có
tham nhiễm đều gọi là
thọ thủ (trao tay). Còn như nay không
tham nhiễm, cũng chẳng y trụ vào không
tham nhiễm, cũng không có tri giải về chẳng y trụ, đây gọi là lửa
Bát Nhã, lửa đốt ngón tay là không tiếc
thân mạng, là cắt thân ra từng mảnh, là
xuất thế gian, là cầm
thế gian trong lòng bàn tay ném qua phương khác.
Hiện tại, nếu đối với mười hai phần giáo và tất cả pháp có, không ở trong tạng phủ còn có một
mảy may lưu giữ là chưa ra khỏi lưới. Hễ có
sở cầu, sở đắc, hễ có
khởi tâm động niệm đều là con chồn. Như nay chỉ cần trọng tạng phủ đều
vô sở cầu,
vô sở đắc thì người này là
đại thí chủ, là
sư tử rống. Lại cũng chẳng y trụ vào
Vô sở đắc, cũng không có tri giải về chẳng y trụ, đây gọi là lục tuyệt
sư tử.
Nhân ngã chẳng sanh, các điều ác không khởi, đó là để
núi Tu Di vào trong hạt cải, chẳng khởi tất cả tham sân và
bát phong, … Đó là hút được hết tất cả nước bốn biển lớn vào miệng. Chẳng thọ nhận tất cả
ngữ ngôn hư vong, đó là chẳng lọt vào lỗ tai. Chẳng cho thân tạo các điều ác đối với người, đây là nạp tất cả lửa vào trong bụng.
Hiện tại chỉ cần đối với mọi cảnh chẳng
mê lầm, chẳng
tán loạn, chẳng giận, chẳng mừng, nơi của
lục căn của mình phải cạo gọt cho sạch sẽ, đó là người vô sự hơn hẳn tất cả những người tri giải,
Đầu đà tinh tấn, gọi là
Thiên nhãn, cũng gọi là Liễu chiếu nhãn, cũng gọi là
Pháp giới tánh, cũng gọi là xe chở
nhân quả.
Hỏi: - Phật
xuất thế độ
chúng sanh là thế nào?
Đáp: -
Niệm trước không sanh, niệm sau không
tiếp nối, nghiệp trong
niệm trước đã hết gọi là độ
chúng sanh.
Niệm trước nếu giận hờn thì liền đem thuốc
hoan hỷ để trị tức gọi là có
Phật độ chúng sanh. Tất cả
ngôn giáo chỉ là thuốc trị bệnh, vì bệnh chẳng đồng nên thuốc có khác, cho nên có lúc nói có Phật, có lúc nói không Phật. Lời
chân thật dùng để trị bệnh, nếu trị lành được bệnh thời mỗi lần đều là lời
chân thật, còn nếu trị bệnh chẳng lành thì mỗi lời đều là lời
hư vọng. Lời
chân thật thành lời
hư vọng vì sanh
kiến chấp; lời
hư vọng thành lời
chân thật vì dứt được
điên đảo của
chúng sanh. Bởi vì bệnh là hư vong, nên dùng thuốc hư vong để trị.
Phật
xuất thế độ
chúng sanh là chính
bộ giáo ngữ, là
giáo ngữ bất liễu nghĩa. Giận hờn và
hoan hỷ, bệnh tật và thuốc men đều là tự kỷ chứ không có ai khác, thì chỗ nào có Phật
xuất thế, chỗ nào có
chúng sanh để độ? Như
Kinh Kim Cang nói: “Thật không có
chúng sanh được diệt độ”. Cũng nói: “Không
ưa thích Phật,
Bồ Đề, không
tham nhiễm các pháp có không gọi là
độ tha, cũng chẳng chấp lấy tự kỷ gọi là tự độ”. Vì bệnh không đồng, thuốc cũng không đồng, cho toa cũng không đồng, không được
cố chấp.
Y theo Phật,
y theo Bồ Đề và các pháp, … đều là cơ
sở y. Cho nên người trí chẳng được
y theo một pháp nào cả. Lời trong kinh dụ như lá vàng, chẳng biết lý này thì gọi là đồng với
vô minh. Như nói: “Bồ Tát
thực hành Bát Nhã chẳng nên chấp lấy lời ta và
y theo lời dạy”.
Sân như cục đá, ái như nước sông. Hiện nay chỉ cần không sân, không ái là thấu được núi sông, vách đá chỉ là trị bệnh cho kẻ tục tai điếc thôi, còn
đa văn biện thuyết là để trị bệnh đau mắt.
Từ người lên đến Phật là đắc, từ người trở xuống
địa ngục là thất.
Thị phi cũng vậy, Tam Tổ nói: “Đắc thất
thị phi,
nhất thời buông bỏ”.
Không chấp trụ vào tất cả pháp có không thì gọi là bất trụ
hữu duyên, chẳng y trụ vào không, y trụ thì gọi là bất trụ
không nhẫn.
Người có
kiến giải chấp tự kỷ là Phật, tự kỷ là Thiền, đạo gọi là nội kiến, chấp
nhân duyên tu chứng mà thành gọi là
ngoại kiến, Ngài
Chí Công nói: “Nội kiến,
ngoại kiến đều sai”.
Mắt, tai, mũi, lưỡi mỗi cái không
tham nhiễm tất cả pháp có, không gọi là thọ trí bốn câu kệ, cũng gọi là
Tứ quả Lục nhập không
dấu tích, cũng gọi là
Lục thông.
Hiện tại chỉ cần không bị các pháp có, không làm ngại, cũng chẳng y trụ nơi
vô ngại và cũng không có tri giải về chẳng y trụ, đây gọi là
Thần thông.
Không chấp thần thông này là đúng gọi là Không
thần thông.
Như bảo:
Bồ Tát không
thần thông,
dấu chân không thể tìm là người hướng lên Phật, là người không thể nghĩ bàn là tự kỷ.
Trời là trí chiếu soi. Khen ngợi liền
vui mừng,
vui mừng thuộc về cảnh. Cảnh là trời, khen ngợi là người. Trời người giao tiếp cả hai được thấy nhau. Cũng nói: Tịnh trí là trời,
chánh trí là người, vốn chẳng phải là Phật mà nói với họ là Phật, gọi là thể kết. Nay chỉ cần chớ có tri giải Phật, cũng chẳng y trụ nơi không tri giải Phật, đây gọi là diệt kết, cũng gọi là
chân như, cũng gọi là thể như.
Cầu Phật, cầu
Bồ Đề gọi là
hiện thân ý.
Hiện tại hễ có tất cả tâm cầu thì gọi là
hiện thân ý. Như nói: Cầu
Bồ Đề tuy là sự mong cầu tốt nhưng mà là chồng thêm trần luỵ. Cầu Phật là Phật chúng, cầu tất cả pháp có không là
chúng sanh chúng.
Hiện tại đối với các môn sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp… không yêu thích, đối với mọi cảnh không tham đắm, hễ không có mười câu trược tâm là liễu
chân thành Phật. Học
văn cú, tìm tri giải gọi là
duyên nhân thành Phật.
Thấy Phật, biết Phật thì được, nói Phật có biết, có thấy tức là
phỉ báng Phật. Nếu nói Phật biết, Phật thấy, Phật nghe, Phật nói thì không được, như nói thấy lửa thì được, mà nói lửa thấy thì không được; như dao cắt vật thì được mà vật cắt dao thì không được. Người biết Phật, người thấy Phật, người nghe Phật, người nói Phật thì trong muôn người không có một, còn người nói Phật biết, Phật thấy, Phật nghe, Phật nói thì nhiều như số cát sông Hẳng, chỉ vì tự mình không có mắt, mượn mắt người khác làm mắt, trong kinh gọi là
Tỷ lượng trí, như nay
tham lam tri giải Phật cũng gọi là
Tỷ lượng trí.
Thí dụ của
thế gian là
thí dụ thuận, giáo
bất liễu nghĩa là
thí dụ thuận, giáo
liễu nghĩa là
thí dụ nghịch, xả bỏ đầu, mắt, não, tuỷ là
thí dụ nghịch, như nay chẳng thích các pháp Phật,
Bồ Đề … là
thí dụ nghịch rất khó
buông bỏ; cái
thí dụ về đầu, mắt, não, tuỷ có
ý nghĩa như sau:
chấp trước tất cả các cảnh pháp có không gọi là đầu, bị tất cả các cảnh pháp có, không làm nhiễm loạn gọi là tay, lúc chưa chiếu soi
tiền cảnh gọi là não tuỷ.
Bậc Thánh làm nhân phàm là Phật, vào trong
chúng sanh thị hiện đồng loại để dẫn dụ
hoá đạo, đồng bọn với
ngạ quỷ chịu lửa đốt từng nóng xương
thuyết pháp Bát Nhã Ba La mật cho chúng nghe, khiến chúng
phát tâm. Nếu cứ ở nơi
địa vị Thánh thì làm sao đến chỗ họ để dạy dỗ. Phật vào trong các loài để làm thuyền bè cho
chúng sanh, cả bọn cùng nhau chịu khổ, nhọc nhằn vô hạn; Phật vào chỗ khổ cũng chịu khổ đồng như
chúng sanh, nhưng Phật đi ở
tự do chẳng đồng
chúng sanh, Phật chẳng phải
hư không thì lúc chịu khổ đâu
thể không khổ. Nếu nói không khổ thì lời này
sai trái. Chớ nên nói bậy: Nói Phật được
thần thông tự tại hay không
tự tại.
Vả lại, người biết
hổ thẹn thì không dám nói Phật là
hữu vi hay
vô vi, chẳng dám nói Phật là
tự do hay không
tự do, trừ sự khen ngợi phương thuốc ra, chằng muốn để lộ ra hai điều
xấu xí (
tương đối). Kinh nói: “Nếu người để Phật
Bồ Đề ở bên đúng, người này mắc tội lớn”. Cũng nói: “Như ở trước người không biết
Phật pháp nói với họ như
vậy thì không lỗi”. Như sữa bò
vô lậu hay trị bệnh
hữu lậu, loài bò này không ở cao nguyên cũng không ở nơi
ẩm thấp, sữa bò này có thể làm thuốc, cao nguyên dụ cho Phật,
ẩm thấp dụ cho
chúng sanh. Như nói: “Pháp thân
Phật trí Như Lai không có bệnh này”.
Biện tài vô ngại, bay đi
tự tại,
bất sanh bất diệt, đây gọi là sanh, già, bệnh, chết
đau đớn chập chồng, là lối ăn canh nấm bị bệnh kiết lỵ cũng là tối. Sáng ẩn thì tối bày. Sáng, tối đều quét chớ chấp lấy một bên cũng không có cái không, chấp lấy vốn chẳng sáng chẳng tối. Phật từ cung vua sanh, cưới
Da Du Đà La cho đến bát tướng thành đạo, những
thị hiện này, hàng
Thanh Văn và
ngoại đạo vọng tưởng cho đó là thật, như nói: “Chẳng phải thân tạp thực”. Ông
Thuần Đà nói: “Tôi biết
Đức Như Lai chắc chắn không thọ không ăn”. Nhất là
cần phải có đủ hai con mắt soi thấu cả hai đầu sự việc không nên chỉ dùng một con mắt hướng bên này đi tức có bên kia đến.
Công đức Thiên,
Hắc ám Nữ, người chủ có trí thì đối với cả hai đều không nhận.
Hiện tại chỉ cần tâm như
hư không thì sự học mới thành.
Cao Tổ (ở
Ấn Độ) nói: “Tâm tâm như gỗ đá”.
Tam Tổ nói: “Thiện ác đều chớ nghĩ”.
Tiên Sư (
Mã Tổ) nói: “Như người lầm đường chẳng biết phương hướng”.
Ngài
Tăng Triệu nói: “Đóng chặt trí, lấp
thông minh, tánh giác làu làu”.
Ngài
Văn Thù nói: “Tâm đồng
hư không nên sự
kính lễ không có sở quán,
kinh điển sâu xa chẳng nghe, chẳng thọ trì”.
Nay chỉ cần đối với tất cả pháp có, không đều chẳng thấy, chẳng nghe,
lục căn lấp bít, nếu học được như thế, trì kinh như thế mới có phần
tu hành. Lời này nghe qua thật trái tai, đắng miệng nhưng nếu làm được như thế thì đến đời thứ hai, đời thứ ba, có thể hướng đến chỗ không có Phật, ngồi
đại đạo tràng
thị hiện thành đẳng chánh giác, biến ác thành thiện, biến thiện thành ác. Dùng pháp ác để
giáo hoá hàng
Bồ Tát Thập địa, dùng
pháp thiện để
giáo hoá địa ngục,
ngạ quỷ, được hướng chỗ sáng để cởi mở sự
ràng buộc của sáng, được hướng
chỗ tối để cởi mở sự
ràng buộc của tối, nắm vàng thành đất, nắm đất thành vàng, trăm thứ
biến hoá tự do. Ở ngoài
hằng sa thế giới có người
cầu cứu, Phật liền dùng ba mươi hai tướng
hiện ra trước người ấy, dùng tiếng giống họ để
thuyết pháp, ứng cơ tiếp vật, tuỳ hình
cảm hóa, biến hiện vào các loài, lìa ngã,
ngã sở là thuộc về việc bên kia còn là tiểu dụng cũng là nằm trong các môn
Phật sự. Đại dụng là thân lớn ẩn nơi vô hình, là tiếng to giấu trong hy thanh (tiếng ngoài tần số nghe), như lửa trong gỗ, như tiếng ở trong chuông trống; lúc
nhân duyên chưa đến thì không thể nói là có hay không.
Báo thân sanh lên
cõi trời, bỏ
Báo thân này như bỏ đàm dãi.
Lục độ,
vạn hạnh của
Bồ Tát như cõi thây chết để qua sông, như ở lao ngục, trong lỗ cầu xí được thoát ra. Phật mang tấm thân ba mươi hai tướng, tướng ấy bị gọi là áo bẩn nhơ, cũng nói: Nếu nói Phật luôn luôn không thọ thân
ngũ ấm thì thật
vô lý, Phật chẳng phải là
hư không thì đâu thể luôn luôn không thọ, Phật chỉ đi ở
tự do không đồng với
chúng sanh. Từ một
cõi trời đến mội
cõi trời, từ một
Phật sát đến một
Phật sát là
pháp thường của chư Phật.
Lại nói: Nếu
căn cứ vào tam thừa giáo thì thọ người
tín thí cúng dường, họ ở trong
địa ngục,
Bồ Tát phải
thực hành tâm từ bi
đồng loại hoá độ để
báo ân, chứ chẳng nên thường ở
Niết Bàn.
Lại nói: Như lửa, thấy lửa đừng mó tay vào thì lửa chẳng đốt người.
Hiện tại chỉ cần không có mười câu trược tâm: tâm tham, tâm ái, tâm nhiễm, tâm sân, tâm chấp, tâm trụ, tâm y, tâm trước, tâm thủ, tâm luyến. Mỗi câu đều có ba câu, hễ thấu suốt được nghĩa ba câu thì tất cả chiếu dụng mặc tình
tung hoành, thì tất cả
cử động làm việc, nói, nín, khóc, cười đều là
Phật huệ. Phiền các vị đã ứng lâu,
trân trọng cám ơn.
Hỏi: - Thế nào là
pháp yếu nhập đạo Đại thừa đốn ngộ?
Sư đáp: - Trước hết ông phải bặt hết các duyên,
dẹp bỏ muôn việc, các
pháp thiện hay
bất thiện,
thế gian và
xuất thế gian thảy đều
buông bỏ, đừng ghi đừng nhớ, đừng duyên đừng niệm,
buông bỏ thân tâm, đều cho
tự tại, tâm như gỗ đá, miệng không
biện luận,
tâm không mống niệm,
tâm địa nếu không thì
mặt trời trí huệ tự hiện, như tan lớp mây mù thì
mặt trời xuất hiện, chỉ cần dứt tất cả
phan duyên thì các tình chấp tham sân, ái, thủ, sạch, nhơ, đều hết; đối với
ngũ dục,
bát phong, tâm chẳng động, chẳng bị cái kiến, văn, giác, tri làm
chướng ngại, chẳng bị các pháp làm
mê lầm thì
tự nhiên đầy đủ tất cả
công đức, đầy đủ tất cả
thần thông,
diệu dụng, đó là người
giải thoát.
Đối với tất cả cảnh pháp,
tâm không tranh cãi
loạn động, không nhiếp, không tan, thấu qua tất cả thanh sắc, không bị
vướng mắc gọi là
đạo nhân.
Thiện ác,
phải quấy đều không dùng, cũng không mến một pháp nào, cũng không bỏ một pháp nào gọi là người
Đại thừa.
Chẳng bị tất cả
thiện ác,
không hữu, cấu tịnh,
hữu vi vô vi,
thế gian xuất thế gian,
phước đức trí huệ,
ràng buộc gọi là
Phật huệ.
Phải quấy, tốt, xấu, đúng lý, không đúng lý, các thứ tình chấp tri giải đều sạch hết, chẳng còn
ràng buộc được, nơi nơi đều
tự tại đây gọi là
Bồ Tát mới
phát tâm được lên
địa vị Phật.
Hỏi: - Đối với tất cả cảnh làm sao để được tâm như gỗ đá?
Sư đáp: - Tất cả pháp vốn chẳng nói không, chẳng tự nói sắc, cũng chẳng tự nói
phải quấy, nhơ sạch, chẳng có tâm
trói buộc người, chỉ vì
con người tự sanh
hư vọng trói buộc, làm ra biết bao thứ tri giải và
lãnh hội, khởi ra biết bao loại
tri kiến, sanh ra biết bao sự
yêu thương,
sợ hãi, chỉ cần rõ biết các pháp chẳng tự sanh, đều từ một niệm
vọng tưởng điên đảo của mình
chấp tướng mà có. Biết tâm và cảnh vốn chẳng đến
với nhau, ngay nơi đó chính là
giải thoát, mỗi mỗi các pháp, ngay nơi đó là
tịch diệt, ngay nơi đó là
đạo tràng.
Lại nữa tánh sẵn có, không thể đặt lên, vốn chẳng phải phàm chẳng phải Thánh, chẳng phải nhơ sạch, chẳng phải
không hữu, cũng chẳng phải
thiện ác, nếu nó cùng với các pháp nhiễm
tương ưng gọi là
cõi người,
cõi trời, cõi
Nhị thừa, nếu tâm nhơ sạch đều dứt, chẳng trụ nơi
ràng buộc, chẳng trụ nơi
giải thoát, không có tất cả
tâm lượng hữu vi,
vô vi,
ràng buộc,
giải thoát, thì ở nơi
sanh tử mà tâm vẫn
tự tại,
cứu cánh chẳng
hoà hợp với các pháp hư vong,
huyễn hoá trần lao,
sanh tử,
ngũ uẩn, lục nhập…
xa lìa tất cả, không y trụ một nơi nào. Chẳng bị pháp nào
ràng buộc, đi ở
vô ngại, qua lại trong
sanh tử tử
tương tự như cửa mở.
Người
học đạo nếu gặp các thứ khổ vui, việc
vừa ý hay không
vừa ý mà tâm vẫn không lui sụt, chẳng nghĩ đến tất cả thứ
danh tiếng,
lợi dưỡng,
ăn mặc, chẳng tham tất cả
công đức,
lợi ích, chẳng bị các pháp
thế gian làm
vướng mắc, không thân, không mến, bình tâm trước mọi sự khổ vui, áo thô ngừa lạnh,
cơm hẩm đỡ lòng, ngây ngây
như ngu, như điếc, như câm, thì mới có chút phần
tương ưng. Nếu trong tâm ham
học rộng, biết nhiều, cầu phước, cầu trí đều là
sanh tử, đối với lý đạo
vô ích lại bị gió tri giải thổi trôi, chìm trong biển
sanh tử.
Phật là người không cầu, nếu cầu tức là trái lý – Lý là
lý không cầu, nếu cầu liền mất, nếu chấp thì đồng với
hữu vi. Do đó
Kinh Kim Cang nói: “Chẳng chấp lấy pháp, chẳng chấp lấy
phi pháp, chẳng chấp lấy phi phi pháp”. Lại nói: “Pháp mà
đức Như Lai được, pháp này không thực cũng không hư”, chỉ cần
suốt đời tâm như gỗ đá, chẳng bị ấm giới các nhập,
ngũ dục,
bát phong làm trôi chìm tức là nhân
sanh tử đã được cắt đứt, đi ở
tự do, chẳng bị tất cả
nhân quả hữu vi trói buộc, chẳng bị
hữu lậu câu thúc,
mai kia sẽ
trở lại dùng sự không tự
trói buộc làm nhân,
đồng sự lợi ích, dùng tâm
vô trước ứng tất cả vật, dùng huệ
vô ngại mở tất cả sự
trói buộc cũng gọi là tuỳ bệnh cho thuốc
Hỏi: - Như nay
xuất gia thọ giới, thân miệng
thanh tịnh, đã đủ các pháp có
được giải thoát không?
Sư đáp: - Được chút phần
giải thoát mà chưa được
tâm giải thoát, cũng chưa được tất cả chỗ
giải thoát.
Hỏi: - Thế nào là
tâm giải thoát và tất cả chỗ giải thoát?
Sư đáp: - Chẳng cầu Phật, chẳng
cầu pháp, chẳng cầu Tăng, nhẫn đến chẳng cầu
phước trí, tri giải … Tình chấp nhơ sạch đều dứt hết, cũng chẳng
chấp không cầu là phải, cũng chẳng trụ nơi chỗ dứt hết, cũng chẳng mến
thiên đường, sợ
địa ngục,
trói buộc và
giải thoát đều
vô ngại, tức là
thân tâm và tất cả chỗ đều
được giải thoát.
Ông chớ cho rằng có được chút phần
giới thân miệng
ý thanh tịnh là xong, đâu biết rằng: Môn giới, định, huệ như
số cát sông Hằng mà
vô lậu giải thoát đều chưa dính một mảy lông.
Hãy
nỗ lực tiến lên! Hãy
dũng mãnh tham cứu! Đừng đợi tai điếc, mắt mờ, mặt nhăn, đầu bạc,
già khổ đến thân, buồn thương vương vít
rơi lệ dầm dề, trong lòng
sợ hãi không có gì để nương tựa và cũng không biết phải đi về đâu. Đến
lúc ấy, muốn tay
chân không run rẩy cũng không được. Dẫu cho có
phước trí,
tiếng tăm,
lợi dưỡng cũng không cứu được, vì
tâm huệ chưa mở, chỉ nghĩ đến các cảnh, chẳng biết
phản chiếu, chẳng thấy
Phật đạo,
nghiệp duyên thiện ác của
một đời, tất cả
nghiệp ác trong
lục đạo,
ngũ ấm, hoặc vui, hoặc sợ, từ
tham ái của
tự tâm hiện ra,
biến thành những cảnh
thù thắng: nhà cửa xe thuyền
tốt đẹp chói lọi
hiển hách, chỉ theo chỗ nặng của
tham ái, tuỳ
nghiệp thọ sanh rồng,
súc sinh tốt xấu chưa định được, chẳng chút
tự do.
Hỏi: - Thế nào là được phần tự do?
Sư đáp: - Như nay được thì được, hoặc đối với
ngũ dục,
bát phong,
tâm không lấy bỏ,
bỏn xẻn,
đố kỵ,
tham ái,
ngã sở đều sạch, nhơ sạch đều quên, cũng như
mặt trời trên
hư không, chẳng duyên mà chiếu,
tâm tâm như gỗ đá,
niệm niệm (
tham thiền) như cứu lửa cháy đều cũng như voi lớn qua sông cứ băng ngang dòng nước không chút
nghi ngờ. Người này
thiên đường,
địa ngục không
câu thúc được.
WP: Thích Đồng Thường