VẤN ĐỀ PHÂN BIỆT
HAY KHÔNG PHÂN BIỆT
THIỆN - ÁC
Trịnh Nguyên Phước
Tôi có một người
huynh đệ băn khoăn bởi một
vấn đề.
Đó là một đằng theo lời dạy của
Lục tổ Huệ Năng “không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là
bản lai diện mục...?” tức là không còn
so sánh, phê phán,
nhị biên, để hòa mình,
thâm nhập với
Chân như. Đằng khác lại phải còn biết
phải quấy để
hành thiện, cải ác, tức là còn
nhị biên.
Như vậy, người
huynh đệ tự hỏi:
chánh kiến là
hành thiện, hay không thiện, không ác? Và đi
xa hơn một chút, thế nào là định nghĩa đúng của chữ
hành thiện (vì có rất nhiều
cạm bẫy hiểu lầm: biết bao nhiêu kẻ
quá khích lại tưởng mình
hành thiện)?
Tôi có
cảm tưởng rằng câu hỏi đặt ra cũng là câu hỏi chung của nhiều
Phật tử, trong đó có tôi. Nỗi băn khoăn, khắc khoải đó
hoàn toàn có căn cứ, và không phải là dễ dàng
giải đáp.
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một
tình thế khó xử, trước hai
thái độ chủ trương bởi
đạo Phật: một
thái độ tạm gọi là
chính thống, có
tính chất phổ thông và
mô phạm; và một
thái độ phóng khoáng, dành cho hạng “thượng căn”, và đặt nặng vào
trí tuệ. Nói một cách giản lược, một bên lấy “diệt khổ” làm
cứu cánh, theo
con đường vạch ra bởi các
bộ kinh (Nikāya) của
Phật giáo Nguyên thủy; một bên lấy “tuệ giác” làm
cứu cánh, theo
tinh thần Bát-nhã Ba-la-mật (Prajñā-pāramitā) của
Thiền tông.
Nếu không phân biệt thiện-ác, thì làm sao mà hành thiện? Nhưng nếu
phân biệt thiện-ác, thì còn
vướng mắc vào cái nhìn
thiển cận, méo mó,
sai lạc của
nhị biên, còn chưa thấy được cái Không của sự vật...
Phải chăng một bên hướng về
tục đế, là
sự thật tương đối của
cuộc đời,
liên quan tới cách xử thế giữa những
con người và với cả các sinh vật, với
thiên nhiên; và một bên hướng về
chân đế, là một
sự thật không thể nào
diễn tả được, một
sự thật như như,
sự thật trong sự thật?
Thật ra, tôi có
cảm tưởng đạo Phật, trong
căn bản, không phải là một triết lý
mô phạm, một
hệ thống luân lý, chỉ dạy cho
con người phải làm cái này, không làm cái nọ,
thiện như thế này, ác như thế nọ. Giới là để giúp định, định là để giúp tuệ. Tự
giới không có
nghĩa lý gì,
chấp chặt vào nó còn là một
chướng ngại cản trở việc
tu hành (
giới cấm thủ).
Ngay cả hai từ “thiện” và “ác” cũng không có trong
đạo Phật nguồn gốc, mà là những chữ mượn tiếng Trung Hoa để dịch hai từ Pāli “kuśala” và “akuśala”. “Kuśala” gồm các
ý muốn gây nên nghiệp tốt (kamma-cetana), đi cùng với 3 căn tốt là không tham (alobha), không sân (adosa) và không si (amoha). Ngược lại, “akuśala” gồm các
ý muốn gây nên nghiệp xấu, đi cùng với 3 căn xấu là tham (lobha), sân (dosa) và si (moha). Như
vậy thì những điều “thiện ” là những nhân tốt
đưa tới những quả tốt, lìa
phiền não,
diệt khổ đau, và những điều “bất thiện” là những nhân xấu
đưa tới những quả xấu,
phiền não, khổ đau. “Thiện” hay “ác” là
tính chất của những gì
đưa tới hạnh phúc hay khổ đau.
Con người muốn chọn
hạnh phúc hay khổ đau chỉ
cần hành thiện hay hành ác. Do đó, một trong những lời kinh
quen thuộc nhất đối với người
Phật tử là “Không làm các điều ác,
Thành tựu mọi việc lành, Giữ tâm
ý thanh tịnh, Ấy lời chư Phật dạy” (
Kinh Pháp Cú, 183).
Mọi việc như vậy đã có vẻ sáng sủa và giản dị.
Hỡi ôi,
cuộc đời không
đơn giản, bởi vì chính
con người không
đơn giản.
Triết gia Pháp Montaigne đã có câu: “Giữa thiện và ác, chỉ có một nửa vòng xoáy ốc”, tức là một đường tơ, kẽ tóc. Có một số điều thiện hay ác thật là
phân minh,
rõ ràng, nhưng cũng có một số điều thiện hay ác không rõ rệt chút nào,
tùy theo hoàn cảnh,
xã hội mà thay đổi trắng đen. Chẳng hạn như khi nhìn thấy
cảnh tượng một con báo đuổi rượt một con nai, thì
chúng ta lấy làm
thương hại con nai và cầu mong cho con nai
chạy thoát khỏi. Ta có thể lấy súng ra bắn con báo và cứu con nai, và như vậy làm
việc thiện đối với con nai và cả
gia đình nó. Nhưng làm như vậy cũng là làm việc ác đối với con báo, bởi vì nó sẽ chết hoặc
bị thương và sẽ để đàn con nó
chết đói. Trong một cuộc chiến tranh cũng vậy, đứng bên này chiến tuyến là người anh em,
thiện hữu, bên kia chiến tuyến là kẻ địch,
ác đảng. Chỉ cần thay đổi bên chiến tuyến, là thiện - ác thay đổi và làm quay mũi súng.
Lại nữa, một
việc thiện mình làm chắc gì đâu đã là một việc thiện? Đó có thể là một
việc thiện đối với mình, nhưng không phải
việc thiện đối với người nhận. Có thể một
việc thiện ngày hôm nay sẽ
trở thành một điều ác ngày mai, chỉ có
thời gian mới
cho biết rõ.
Mình cũng phải tự hỏi rằng làm
việc thiện đó là cho mình hay cho người? Nếu là để được tiếng khen, được
biết ơn, được
mát mẻ trong lòng hay để “lương tâm bớt cù”, thì đó còn phải là
việc thiện hay không?
Hành thiện đúng ra thì phải theo
tinh thần “vô ngã ”, mà đã “vô ngã” rồi, thì không còn người cho, không còn người nhận, không còn người
hành thiện nữa.
Cuối cùng, thiện - ác cũng là ở trong tâm của mình, chứ không ở nơi đâu
xa lạ. Trong mình có
Phật tính, nhưng cũng có Ma tính.
Chừng nào chưa hiểu được điều đó thì mình vẫn chưa hiểu mình (hãy nhớ câu gnothi seauton của Socrate), vẫn còn
vật lộn với chính mình, vẫn còn
phân chia ra cái đầu và cái bụng...
Alan W. Watts, trong cuốn The Wisdom of Insecurity, có
nhấn mạnh vào điều đó.
Con người giống như con rắn mù Ouroboros luôn luôn
tìm cách cắn chiếc đuôi của mình. Đó là một vòng luẩn quẩn nó chỉ thoát ra khỏi được khi sáng mắt ra, và
ý thức được một cách rõ rệt rằng đầu và đuôi là một, thuộc vào một cơ thể đồng nhất.
Ảo tưởng đầu và đuôi tách rời nhau, là do chính cái đầu tạo nên. Khi
chúng ta dự kiến làm
việc thiện, mà không làm được, đó là
tại vì chúng ta tạo dựng nên
ảo tưởng “thiện”,
ảo tưởng “tương lai”, rốt cục chỉ là những
vọng niệm không hơn không kém. Mộng mị về điều thiện cũng là mộng mị, chứ chẳng cứ là phải mơ tưởng tới điều
bất thiện. Mong cầu
giác ngộ,
giải thoát cũng là
vọng niệm, nghĩ đến
việc phải làm, nghĩ đến tương lai cũng là
vọng niệm (bạn hẳn còn nhớ câu “vô trí, diệc vô đắc...
vô sở đắc cố...
viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết-bàn” trong Bát-nhã
Tâm kinh).
Một trong những
ám ảnh dai dẳng của người
hành giả là sự
an ninh.
Chúng ta sợ sự bấp bênh, nên muốn tìm một cái gì
vững chắc, một chiếc kim chỉ nam, một bàn thạch để mà dựa lên,
bám víu vào đó. Nhưng càng
bám víu vào, lại càng
cảm thấy nó trơn tuột, càng chới với giữa dòng nước chảy xiết, càng vùng vẫy lại càng
cảm thấy chìm xuống nhanh. Chỉ có cách là
bình tĩnh buông thả mình, nương theo dòng nước, rồi mới
dần dần xáp lại bờ.
Cuộc đời vốn là
vô thường, không có gì là
vững chắc, phải chịu là như vậy. Nếu đợi cho biển cả
lặng im rồi mới nhổ neo, thì e rằng sẽ không bao giờ rời bến.
Cứ luẩn quẩn tự hỏi phải làm thế nào,
phương pháp ra sao,
đi theo chiều hướng nào,
con đường nào... Theo
pháp môn nào, chùa nào, thầy nào... Tất cả đều là trật lất!
Chỉ có một chuyện phải làm, đó là
ý thức và sống một cách
tỉnh thức phút giây
hiện tại. Không có
bí quyết gì ngoài: “Hãy sống! Hãy nhìn!” (Sois! Regarde!)
A. Watts lấy một
thí dụ: bạn đang nghe một bản nhạc. Tôi bỗng nhiên hỏi bạn: “Hiện giờ, bạn là ai?” Định thần một lát, bạn sẽ
trả lời: “Tôi tên là... sanh ngày... ngụ tại... làm nghề... một vợ... con”. Nhưng câu
trả lời này
trả lời về
quá khứ, chứ không phải về
hiện tại của bạn. Lúc nghe câu hỏi, bạn đang nghe nhạc, thì câu
trả lời phải là bản nhạc. Bạn đang sống bản nhạc, thì
đáng lẽ ra bạn phải
trả lời bằng cách hát lại cho tôi nghe bản nhạc đó.
Giả dụ như tôi (TNP), tôi hỏi bạn: “Hiện giờ bạn là ai?” thì bạn chỉ cần
trả lời bằng cách
tiếp tục đọc những dòng chữ này, bởi vì bạn đang sống giữa những dòng chữ này...
Những
câu chuyện đối đáp giữa các
thiền sư và
thiền sinh, hay những hành động đập gậy la hét, véo mũi véo tai, cũng chỉ nhằm kéo
hành giả trở về kinh nghiệm sống
hiện tại, tức là
sự thật duy nhất mỗi người có thể chứng thực được.
“Không làm các điều ác,
Thành tựu mọi việc lành...”, lời
kinh Pháp cú vẫn còn vọng lại trong tai của mỗi người
Phật tử. Và không phải chỉ riêng trong
đạo Phật, mà trong mọi
tôn giáo khác,
trải qua mọi
thời đại, người ta luôn luôn kêu gọi làm
việc lành, tránh việc ác,
yêu thương lẫn nhau,
xóa bỏ hận thù, hướng về tương lai...
Nhưng mặc dù có cái
văn hóa “hướng thiện”
phổ biến đó,
chúng ta có thể tự hỏi vì sao
lịch sử loài người đầy rẫy những điều
ác độc, những cuộc chiến tranh, những vụ thảm sát, máu chảy thành sông, xương chất thành núi, gây những
đau thương không thể nào tả xiết? Vì sao trong
xã hội luôn luôn phải có
luật pháp trừng trị và đe răn? Vì sao, sau bao nhiêu thiên niên kỷ phát triển của
loài người, với bao nhiêu
thành quả đáng kể về khoa học, kinh tế,
xã hội,
thế giới chúng ta vẫn sống trong những giờ phút
tối tăm của
lịch sử, giữa
nghèo đói và
bạo động, mà
tác nhân chính vẫn là con người?
Phải chăng là
con người không biết đâu là “thiện”, không biết đâu là “ác”? Hay là biết đâu là “thiện” nhưng không làm được, biết đâu là “ác” nhưng không tránh được?
Có lẽ cả hai câu trên đều đúng: “thiện/ác” chưa chắc gì đã
phân biệt được dễ dàng, và là một điều
hết sức tương đối, như
chúng ta đã đề cập đến. Và dù
phân biệt được,
lý trí con người chưa chắc gì đã thắng được những cái
đam mê (passions), mà trong
đạo Phật thường gọi là
tam độc (tham, sân, si)...
Theo nhà
triết học Mỹ Nagel, các
lý thuyết đạo đức có thể được
phân chia ra làm 2 loại khác biệt: một bên là những
lý thuyết “suy luận” (déductive), hay “độc đoán” (autoritariste) dựa lên những tiên đề (axiomes a priori) hoặc những điều tự nó
hiển nhiên (évidents en soi), về tốt và xấu, điển hình là triết lý của Kant. Trong đó cũng có triết lý “vị lợi” (utilitaire), như của Bentham: việc “thiện” là
việc làm lợi cho mình và cho người khác, mang lại thú vui hay
hạnh phúc cho mình và cho người khác. Bên kia là những
lý thuyết “qui nạp” (inductive), với sự từ chối mọi tiền đề siêu hình hoặc chủ thuyết. Chúng không có
tính chất ép buộc, xơ cứng, mà ngược lại, cởi mở và có
tính chất tiến hóa (évolutive). Như Spinoza, khi ông nói: “Chúng ta không thể nào biết được một cách
chắc chắn cái gì tốt hay xấu,
nếu không thực sự hiểu được sự vật...” Như vậy, chỉ có
trí tuệ mới giúp được
con người phân biệt tốt/xấu, thiện/ác.
Thí dụ như khi được biết rằng con bọ ngựa (mantis religiosa) cái,
ngay sau khi giao cấu với con đực (bé nhỏ hơn nhiều), giết ngay ông chồng mình và
ăn thịt nó một cách ngấu nghiến, thì
chúng ta lấy làm gớm ghiếc. Nhưng khi hiểu rằng con bọ ngựa cái làm như vậy là để nuôi trứng của mình bằng chất đạm
cần thiết cho sự phát triển của chúng, thì
chúng ta thấy rõ rằng hành động
tự nhiên của con bọ ngựa cái chỉ nhằm
bảo tồn loài giống, chứ
không có lý do gì khác. Bọ ngựa cái không “ác” vì tội “giết chồng”, mà bọ ngựa đực cũng không là người cha “gương mẫu”, tự “hy sinh” cho đàn con của mình. Dù sao, sau 6 tiếng đồng hồ giao cấu, nó cũng
kiệt lực và
sớm muộn gì cũng chết,
vậy thì làm
thức ăn bổ béo cho
vợ con nó thì cũng là một điều
tiện lợi,
phù hợp với nguyên lý
tiết kiệm của thiên nhiên!
Nhìn những gì xảy ra trong
thiên nhiên,
chúng ta sẽ thấy không có “thiện” mà cũng không có “ác”.
Thiên nhiên không
hiền từ mà cũng không
ác độc, không
thiên vị mà cũng không
lãnh đạm. Bởi vì nó không biết
đạo đức là gì,
đạo đức chỉ là những
giá trị mà
con người và
xã hội tự đặt ra cho mình. Trong
thiên nhiên, tất cả những gì xảy ra đều là do sự “tất yếu” (nécessité), bởi vì
nếu không xảy ra như
vậy thì sẽ không có như vậy, như vậy... do luật
tiến hóa chung của
vũ trụ.
Khoa học cho
chúng ta biết rằng ngay trong cơ thể của các sinh vật, trong các tế bào, đã có một
hiện tượng gọi là apoptose, tức là sự chết có
chương trình (mort programmée) của các tế bào, dường như mỗi tế bào sinh ra đã mang trong mình một qui định về sự hủy diệt của nó. Ngoài sự qui định đó ra, còn nhiều sự qui định khác nằm trong các gien
di truyền, là nền tảng của các hormones và hệ
thần kinh có
tác động quyết định trên tập tính các
động vật. Chẳng hạn như con ong thợ, khi làm những công việc như hút mật hoa mang về tổ, hay xả mình quyết chiến với những
kẻ thù muốn
xâm nhập tổ ong để
bảo vệ ong chúa, thì nó không hề biết “thiện/ác” là gì, không hề biết hành động của mình là một hành động
hy sinh,
quên mình vì tập thể. Nó chỉ
thể hiện cái
bản năng, cái “chương trình” mang trong các gien của nó, và
chương trình đó chỉ nhằm một
mục đích:
bảo tồn nòi giống. Con báo hay con rắn cũng vậy, khi chúng vồ hay cắn mồi, một con “nai vàng ngơ ngác” hay một “cánh chim bay về tổ ấm”, hành động đó cũng chỉ nhằm
bảo tồn sự sống, theo qui định của
thiên nhiên.
Chỉ có
con người mới đặt ra
vấn đề “thiện/ác”, vì đã mất
tự nhiên và
hồn nhiên...
Trở về các triết lý
đạo đức, thì
quan niệm của Socrate cũng không khác gì mấy Spinoza, khi ông cho rằng “không có kẻ nào ác một cách cố tình” (nul n’est méchant volontairement). Hành động ác là do một
lý do bất thường nào đó
thúc đẩy. Khi hiểu được
lý do đó, thì người ta dễ
thông cảm và
tha thứ hơn. Và nếu
hiểu rõ được mình, người và sự vật, thì người ta đã không làm ác. Do đó triết lý sống phải dựa lên trên sự
hiểu biết.
Mạnh tử cũng
quan niệm rằng “nhân chi sơ tính bản thiện”, và Rousseau cho rằng chính
xã hội làm hư hỏng
con người, làm mất cái
bản tính hồn nhiên hoang sơ của nó.
Đạo Phật từ xưa
đến nay vẫn đặt nền tảng vào
trí tuệ. Trong những lời dạy của
đức Phật trong
kinh điển Pāli,
đức Phật luôn luôn dùng
lý luận và
ẩn dụ để dẫn mỗi
đệ tử đi tới
kết luận của chính mình.
Đạo đức của
đạo Phật không có
tính chất xơ cứng
ép buộc, điển hình là khi nói đến
Bát Chánh đạo,
đức Phật không định nghĩa thế nào là chánh, ngài để cho mỗi người tự mình biết thế nào là chánh, thế nào là
bất chánh. Và kinh Kalama cũng là một trong những lời dạy
căn bản của
đức Phật: hãy giữ
tinh thần phê phán, hãy giữ
tự do suy tư của mình, đừng
đi theo lời
đồn đãi, lời
truyền thống, lời
dẫn giải của bất cứ ai, hãy theo
kinh nghiệm của chính mình mà tiến bước, tự mình thấy điều gì tốt thì theo, điều gì xấu thì bỏ...
Mặc dầu đôi khi người ta
cảm tưởng trong
Phật giáo có những
truyền thống cứng nhắc (như
giới luật,
nghi lễ, hay
thái độ đối với
phụ nữ trong
Bát Kỉnh Pháp), nhưng đó không phải là điều cốt yếu trong
đạo Phật. Có hay không có những
truyền thống đó, cũng không thay đổi gì trong sự phát triển và cách
áp dụng đạo Phật trong đời sống hàng ngày. Theo tôi, nếu phải xếp loại theo Nagel, thì tôi sẽ đặt triết lý
đạo đức Phật giáo vào loại “qui nạp” (inductive), ngược lại với các
tôn giáo khác. Tức là không có
tính chất xơ cứng,
giáo điều, bất di bất dịch, mà sẵn sàng
mở rộng cho mọi
phê bình, mọi
tiến hóa.
Đạo Phật nguồn gốc đã như vậy rồi, nhưng với
tinh thần Bát-nhã của
Đại thừa, với sự
phân biệt tục đế và
chân đế, với
tánh Không vào
tinh thần Thiền tông thì điều đó lại
rõ ràng hơn nữa.
Có lẽ đó cũng là một nơi gặp gỡ giữa
Phật giáo và khoa học.
Dĩ nhiên khoa học tự nó không có
đạo đức, nhưng các nhà khoa học, các
cộng đồng khoa học, trong khi
áp dụng sinh học vào
đời sống, nhiều khi gặp phải những
vấn đề đạo đức, và bắt buộc phải
giải quyết những
vấn đề này ngoài khuôn khổ của
tôn giáo.
Thí dụ như những
vấn đề sinh
đạo đức (bioéthique) đặt ra trong cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 này: ngừa thai, thụ thai trong ống nghiệm, ghép bộ phận,
kiến tạo di truyền, sinh sản
vô tính, v.v... Những bước tiến của khoa học - kỹ thuật, những đổi thay của
xã hội, bắt buộc các nhà khoa học phải
áp dụng một triết lý
đạo đức uyển chuyển, cởi mở, với khả năng
sửa đổi,
phê bình, và đặt lại
vấn đề các
tiêu chuẩn đạo đức, để
giải quyết những
vấn đề mới
xuất hiện, với những
dữ kiện mới, trong một khung cảnh
văn hóa mới. Đó là cái mà nhà
thần kinh sinh học Pháp J.P. Changeux gọi là “đạo đức từng bước nhỏ” (éthique des petits pas), một nền
đạo đức không thần khải, không siêu hình, không
lý thuyết, không cố định, vì phải luôn luôn được
xây dựng từng
bước một, để
phù hợp với
thực tế.
Siêu việt “thiện/ác” không có nghĩa là coi “thiện/ác” như nhau, là chủ trương thế nào cũng được, và
con người muốn làm gì cũng được trong
xã hội.
Trong một
xã hội, một đoàn thể, phải có những
giá trị đạo đức, những mốc, những
tiêu chuẩn để qui định những lề luật cuộc sống. Những đèn đỏ, những bảng stop để tránh những
va chạm, những đụng độ làm mất
hòa khí giữa nhau. Thiện và ác là những
giá trị đạo đức, cũng như tiền bạc, hàng hóa là những
giá trị kinh tế đã được qui định giữa những
con người, không thể
thiếu sót được, tuy biết rằng đó chỉ là những
qui ước tương đối và tạm bợ.
Siêu việt “thiện/ác ” là vượt lên khỏi “thiện/ác”, không còn bị
vướng mắc, bận tâm về
vấn đề đó nữa, bởi vì
việc thiện đã
trở thành tự nhiên rồi, khi đi đứng nằm ngồi, từ
thân khẩu ý sinh ra đều là
hành thiện, đều gây nghiệp tốt,
nghiệp lành. Những người
siêu việt được “thiện/ác” như vậy - có thể gọi là đã
giác ngộ - quả là hiếm hoi, muôn người chưa có một. Phải
tu tâm dưỡng tánh bao nhiêu năm trời (hay bao nhiêu kiếp sống?) mới được như vậy. Nhưng tôi tin rằng
con người cũng có thể, trong những giây phút nào đó,
siêu việt được “thiện/ác”. Nếu sống thật trong
hiện tại, một cách
hồn nhiên, giản dị, không tiếc gì, cầu gì, lo gì, muốn gì...
Rốt cục, “thiện/ác ” cũng là ở cái tâm của mình.
Trong truyện Kiều, Nguyễn Du cũng
tỏ ra là một người hiểu
sâu xa đạo Phật khi ông
kết luận: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Trần Trọng Kim
giải thích là cái tâm của nhà Phật bao hàm thống nhất được cả ba
phương diện của
đạo Nho là tam tài: thiên, địa, nhân).
Đối với tôi, người
Phật tử vừa phải hướng thiện một cách
tự nhiên, trau dồi cái
thiện tâm và
thiện cảm (empathie) của mình đối với
mọi người, mọi sinh vật,
vừa phải giữ một cái nhìn
sáng suốt,
siêu việt thiện/ác. Phải hiểu mình, hiểu người, hiểu những qui luật của
thiên nhiên để đừng bị dằn vặt bởi những
mâu thuẫn nội tâm và những
vướng mắc do lối nhìn
nhị nguyên, xa rời
thực tế và chỉ
cản trở sự
tu học của mình.谠